Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận nguyên lý của chủ nghĩa mác-lênin về chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.78 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ thời kì chiếm hữu nô lệ, xã hội loài người đã xuất hiện những mầm mống đầu tiên của chủ
nghĩa xã hội. Đó là những khát vọng, niềm mơ ước của công chúng bị áp bức, bóc lột. Nhưng tất cả
chỉ dừng lại ở lòng khát khao về một chế độ không có tư hữu, không có giai cấp thống trị và mọi
người đều được bình đẳng, tự do…Những “khối óc lớn” của thế kỉ XV – XVIII đã làm tư tưởng xã
hội chủ nghĩa phát triển sang một thời kì mới với một trình độ mới. “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”
của Mác – Enghen chính là phát súng đầu tiên báo hiệu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học -
học thuyết đã soi sáng con đường đi đến ước mơ của nhân dân lao động trên toàn thế giới. Quá trình
thâm nhập của những lý luận đó vào thực tiễn đấu tranh của nhân dân lao động đã cho ra đời chủ
nghĩa xã hội hiện thực.
Cách mạng tháng Mười Nga là một minh chứng hùng hồn nhất cho sự đúng đắn, khoa học
của chủ nghĩa xã hội. Sự thắng lợi của cuộc cách mạng ấy đã xóa bỏ chế độ nô lệ tư bản, lần đầu tiên
đưa nhân dân lao động bước lên vũ đài chính trị. Sự thắng lợi của cuộc cách mạng ấy đã xóa bỏ thế
độc tôn của chủ nghĩa tư bản, mở ra một thời kì mới cho lịch sử thế giới. Đó chính là thắng lợi vĩ đại
nhất của nhân dân lao động Nga nói riêng và thế giới nói chung.
Sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào những thập
niên cuối thế kỉ XX không phải là sự chấm hết cho chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả tất yếu cho sự xa
rời, phản bội chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhưng chỉ là sự lùi bước nhất thời của chủ nghĩa xã hội.
Những cải cách, đổi mới trong các nước xã hội chủ nghĩa còn lại không phải là đống tro tàn cuối
cùng của ngọn lửa trước khi tắt hẳn mà là chuẩn bị cho sự trở lại và vươn lên mạnh mẽ. Bởi lẽ, với
bản chất bóc lột và hiếu chiến của mình, chủ nghĩa tư bản không thể nào trụ vững trước sự tiến bước
trên con đường đi tìm sự bình đẳng và tự do của nhân dân lao động toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội
chính là tương lai của loài người. Đó là một điều tất yếu không thể nào chối bỏ. Và ngày càng nhiều
nước đang có xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội - một dấu hiệu cho sự cáo chung của chủ nghĩa tư
bản.
1
A. NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC
VÀ TRIỂN VỌNG
I. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực
1. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
a. Cách mạng Tháng Mười Nga


Ngày 7 tháng 11 năm 1917, cuộc khởi nghĩa vũ trang giành “toàn bộ chính quyền về tay
Xôviết” do Đảng Bônsêvích Nga lãnh đạo đã giành thắng lợi. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhà nước
Xôviết do Lênin đứng đầu đã ra đời trong “Mười ngày rung chuyển thế giới”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng Tháng Mười
chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử
loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và các dân tộc bị áp bức do giai cấp công nhân và đội tiên phong (Đảng Bônsêvích) lãnh đạo.
Cuộc cách mạng đã đánh đổ giai cấp phong kiến địa chủ và giai cấp tư sản, lập ra chính quyền của
những người lao động, xây dựng một xã hội mới, không có tình trạng người bóc lột người. Cách
mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra một con đường mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Mở ra một thời đại mới trong lịch sử - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới.
Sau cáng mạng Tháng Mười Nga, Lênin có viết: “Một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử thế
giới. Nhân loại đang vứt bỏ hình thức cuối cùng của chế độ nô lệ: chế độ nô lệ tư bản hay chế độ nô
lệ làm thuê. Thoát khỏi được chế độ nô lệ đó, lần đầu tiên nhân loại sẽ bước vào chế độ tự do chân
chính”.
b. Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới
Từ sau cách mạng Tháng Mười Nga đến khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô là
nước xã hội chủ nghĩa duy nhất trên thế giới. Liên Xô xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa trong điều
kiện hết sức khó khăn và phức tạp: kinh tế lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh, nội chiến xảy ra, các
nước đế quốc bao vây cấm vận về kinh tế.
Từ năm 1918 đến năm 1921, Đảng Cộng sản Nga đề ra chính sách cộng sản thời chiến nhằm
đảm bảo lương thực cho quân đội, cho công nhân và nhân dân thành thị trong điều kiện lương thực
cực kì khan hiếm, Đảng Cộng sản Nga, đứng đầu là Lênin đã đề ra Chính sách cộng sản thời chiến,
tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc quyền, đại địa
chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác.
Tháng 3 năm 1921, nội chiến chấm dứt, Đảng Cộng sản Nga đề ra chính sách kinh tế mới
(NEP) thay cho chính sách cộng sản thời chiến. Lênin chỉ ra rằng việc sử dụng những hình thức kinh
tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận rất quan trọng của chính sách này.

Chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới điều kiện chuyên chính vô sản (theo Lênin, đó là một thứ
chủ nghĩa tư bản có liên quan với nhà nước của giai cấp vô sản) là một hình thức thích hợp để giúp
Liên Xô nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế và ngăn chặn mầm mống của sự phục hồi
chủ nghĩa tư bản.
Giai cấp vô sản có thể học tập kế thừa và phát huy có chọn lọc những tài sản vật chất, kỹ
thuật, tinh hoa tri thức và trình độ khoa học quản lý kinh tế từ kinh nghiện sản xuất kinh doanh của
các nhà tư bản. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những phương thức có hiệu quả để thúc đẩy
xã hội hóa, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, làm cho nền sản xuất hàng hóa quá độ xã hội chủ
nghĩa phát triển ngày càng mạnh mẽ.
2
Chính sách kinh tế mới thực hiện chưa được bao lâu thì Lênin qua đời. Đầu những năm 20 của
thế kỷ XX nhà nước Xô Viết áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao.
Với khí thế lao động của những con người được giải phóng, với tinh thần anh dũng, hi sinh của
hàng trăm triệu quần chúng nhân dân, thông qua chính sách kinh tế mới, thông qua con đường hợp
tác hóa trong nông nghiệp, công nghiệp hóa đất nước. Sau khoảng 20 năm, Liên Xô đã đạt được
những thành công rực rỡ, tạo sự phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế.
c. Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
Sau Thế chiến thứ II, chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống trên toàn thế giới, hàng loạt các
nước xã hội chủ nghĩa ra đời. Trong giai đoạn này, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bao gồm các
nước: Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Hunggari, Rumani, Tiệp Khắc, Anbani,
Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Cuba.
Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước trên thế giới tổ chức tại Mátxcơva năm
1960 đã khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới
đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người”
2. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Lịch sử đã cho thấy Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã có một thời phát triển rực rỡ
và đạt được những thành tựu to lớn sau đây:
Thứ nhất: Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đưa nhân dân lao động lên làm chủ xã hội,
thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới. Chế độ xã hội chủ nghĩa ra
đời kéo theo sự ra đời của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, chế dộ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân

dân lao động; thực hiện đầy đủ quyền tự do dân chủ; ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm
quyền tự do cuả nhân dân. Hơn thế nữa nó còn thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ
ở các nước tư bản chủ nghĩa và trên thế giới.
Thứ hai: Trong hơn bảy mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa khác đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế; xây dựng cơ sở vật chất của chủ
nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại; bảo đảm ngày càng tốt hơn đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Nước Nga trước Cách mạng Tháng Mười so với các nước phát triển khác bị lạc
hậu từ 50 đến 100 năm. Khi bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, thu nhập quốc dân tính theo đầu
người chủ bằng 1/22 của Mỹ. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Liên Xô đã trở thành một tron hai
siêu cường quốc thế giới về kinh tế. Năm 1965, thu nhập quốc dân của Liên Xô bằng 66% của Mỹ,
sản lượng công nghiệp bằng 85% của Mỹ. Trong linh vực văn hóa, nghệ thuật và khoa học công
nghệ cũng có những thành tựu to lớn. Nước Nga Xô Viết sau một thời gian ngắn xây dựng xã hội
chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu vượt bậc: từ một nước kinh tế lạc hậu vươn lên thành một
trong hai siêu cường của thế giới; từ một quốc gia có 3/4 dân số mù chữ, sau 20 năm nạn mù chữ đã
bị xóa bỏ, trở thành một trong những nước có trình độ học vấn cao nhất vào năm 1980. Liên xô và
các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được những bước tiến lớn trong lĩnh vực nghiên cứu khoa
học, chinh phục vũ trụ; công nghiệp và quân sự quốc phòng hùng mạnh. Trong các lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật, khoa học, công nghệ cũng có những thành tựu lớn.
Thứ ba: Với sự lớn mạnh toàn diện, chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống
chính trị thế giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ đối với hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc, mở ra kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới. Bằng sự giúp đỡ tích cực, hiệu quả về mọi mặt, các nước xã hội chủ nghĩa góp
phầm làm phát triển mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Tính tới nay hàng
trăm nước đã giành được độc lập, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa chỉ còn chiếm 0,7% diện tích
và 5,3% dân số thế giới trong khi năm 1919 là 72% diện tích và 70% dân số thế giới.
3
Thứ tư: Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến
tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới. Những thành tựu của các nước xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ
mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trong các nước tư bản chủ nghĩa.
Tóm lại, từ tháng 11 năm 1917 cho đến sự kiện tháng 8 năm 1991, chủ nghĩa xã hội đã tồn tại

hơn 40 năm ở Liên Xô, hơn 40 năm ở các nước Đông Âu (kể từ năm 1945). Chủ nghĩa xã hội hiện
thực đã trải qua một thời kì phát triển rực rỡ, có những thành tựu to lớn và phát huy sức mạnh mạnh
mẽ để tiến hành phát triển lịch sử loài người.
II. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực:
1. Những giai đoạn phát triển chính:
Thời đại ngày nay được mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, là thời đại đấu
tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, là thời đại đang diễn ra cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ nhằm chuẩn bị những tiền đề vật chất chín mùi cho sự xuất hiện chủ
nghĩa xã hội.
Như VI. Lênin khẳng định, tính phức tạp trong sự vận động của lịch sử nhân loại, song có thể
chia thời đại của chúng ta từ Cách mạng tháng Mười tới nay thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Từ sau cách mạng tháng mười năm 1917 tới kết thúc chiến tranh thế giới
thứ hai 1945.
Giai đoạn này là giai đoạn chủ nghĩa xã hội mới hình thành trên phạm vi một số nước như Liên
Xô, Mông Cổ. Cuộc cách mạng tháng Mười là cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử, đưa nhân dân
lao động từ những người nô lệ, làm thuê trở thành những người làm chủ đất nước. Sức mạnh của chế
độ mới đã giúp nhân dân lao động Nga đứng vững trong cuộc nội chiến, đập tan âm mưu can thiệp
của chủ nghĩa đế quốc. Với khí thế lao động của những con người được giải phóng, thông qua chính
sách kinh tế mới, thông qua con đường hợp tác hóa trong nông nghiệp, công nghiệp hóa đất nước,
sau 20 năm, Liên Xô đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế. Đó là những nguyên nhân
giúp cho nhân dân Liên Xô đánh bại chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ II, cứu
nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít.
Giai đoạn thứ hai : Từ sau 1945 tới đầu những năm 1970
Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, là giai
đoạn có những biến động to lớn, sâu sắc có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Chủ nghĩa xã hội từ một nước
đã trở thành hiện thực ở một loạt nước trên thế giới.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ra đời, nhất là từ sau
khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa xuất hiện, cùng với những thành tựu to lớn của hệ thống các
nước xã hội chủ nghĩa về kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật…Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã
trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hòa bình tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi nguy

cơ chiến tranh của những thế lực phản động quốc tế.
Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa đã cỗ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội trong các nước tư bản chủ nghĩa đã động
viên nhân dân các nước thuộc địa đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong những năm 60 của
thế kỉ 20, khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân tộc với những mức độ khác nhau.
Bên cạnh những kết quả đó, trong giai đoạn này, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế đã có những bất hòa. Trong Di chúc của Hồ Chí Minh, phần về phong trào cộng sản thế giới,
Người viết: “…tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao
nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em!”.
Giai đoạn thứ ba: Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980.
Trong giai đoạn này ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa không chú ý tới công tác xây dựng đảng,
nhiều kẻ cơ hội chui vào hàng ngũ Đảng Cộng sản, một số người mắc vào tệ sùng bái cá nhân, không
4
ít người mắc bệnh kiêu ngạo cộng sản, không nhìn thấy và không đánh giá đúng những thay đổi
trong chính sách của chủ nghĩa tư bản. Ở không ít nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước trở nên
quan liêu, vi phạm những quyền dân chủ của nhân dân. Trong xây dựng kinh tế chủ quan nóng vội,
không tuân thủ những quy luật kinh tế khách quan, chậm đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản
xuất. Trong lĩnh vực xã hội thực hiện bao cấp tràn lan, không kích thích được tính tích cực cá nhân,
do vậy không tạo ra được động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Những sai lầm trên kéo dài, chậm được phát hiện và khắc phục triệt để đã hạn chế tốc độ phát
triển kinh tế - xã hội của các nước, dẫn tới tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nhiều nước,
buộc các nước phải cải cách, đổi mới.
Trong quá trình cải cách đổi mới, nhiều đảng cộng sản mắc những sai lầm mang tính chất
nguyên tắc. Lợi dụng tình hình đó, những thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài, kết hợp
với những kẻ phản bội ở bên trong, thậm chí cả những người đứng đầu cơ quan đảng và nhà nước đã
tấn công làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô. Như vậy sự sụp đổ chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu có nguyên nhân sâu xa là những sai lầm của các đảng cộng
sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự chống phá quyết liệt của kẻ thù và sự phản bội của một số
người cộng sản, chứ hoàn toàn không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và lý luận khoa học về
chủ nghĩa xã hội như một số người vẫn đang rêu rao.

Đây cũng là bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn hiện nay.
Giai đoạn thứ tư : giai đoạn từ đầu những năm 1990 tới nay.
Giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, cùng với sự sụp độ
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều đảng cộng sản và công nhân bị tan rã,
nhiều đảng viên xin ra khỏi đảng. Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên chủ nghĩa xã hội,
nhưng giờ đây mất chỗ dựa về vật chất và tinh thần, các lực lưọng phản động giành lại chính quyền
đưa đất nước theo con đường khác. Ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới giảm
đi nghiêm trọng.
Những thế lực phản động quốc tế đã đang dùng trăm phương, nghìn kế bằng nhiều luận điệu
khác nhau để xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, nhằm xác lập sự thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản trên thế
giới.
Lịch sử đang đặt ra những thử thách to lớn cho chủ nghĩa xã hội, phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Để vượt qua những thử thách đó, các nước chủ nghĩa xã hội phải tự đổi mới, phải khắc
phục những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, tranh thủ những
điều kiện thuận lợi cho cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra, không ngừng nâng cao năng
suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước.
Từ thực tế những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ trên thế giới thấy
được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, từ đó mà đoàn kết nhau lại để
đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay: “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất
bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát
triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
III. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết và nguyên nhân của nó:
1.Nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô Viết
Sau khi Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện
mà chuyển sang kế hoạch hóa tập trung cao độ. Thời gian đầu kế hoạch hóa tập trung đã phát
huy tác dụng mạnh mẽ,song đã biến thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Sau
5

chiến tranh thế giới thứ 2, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã
tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hóa tập trung từ bỏ hay từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền
kinh tế hàng hóa cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động
sáng tạo của người lao động.
Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lý nói chung là chậm đổi mới,mô hình
của chủ nghĩa xã hội, nên sự thật là Liên Xô đang rút ngắn dần khoảng cách về trình độ phát
triển kinh tế so với các nước tư bản phát triển thì từ giữa những năm 70 của thế kỷ 20 tình
hình diễn ra theo chiều hướng ngược lại. Sự thua kém của Liên Xô thể hiện rõ rệt trong lĩnh
vực công nghệ và năng suất lao động, mà đây lại là yếu tố, như Lênin nói, xét đến cùng,
quyết định thắng lợi hoàn toàn của chế độ mới.
Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài đã nói ở trên cản trở sự đổi mới đúng đắn
là nguyên nhân sâu xa làm chủ nghĩa xã hội suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Đó không phải là
những sai lầm khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà do quan niệm giáo
điều về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ: do duy trì quá lâu những
khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học kỹ thuật
và công nghệ nên gây ra tình trạng trì trệ kéo dài về kinh tế - xã hội rồi đi tới khủng hoảng.
2. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu có hai nguyên nhân chủ yếu và
trực tiếp sau đây:
Một là: trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường
lối chính trị tư tương và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện
trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất.
Cuộc cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ năm 1986 đã kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn vào
năm 1991. Đường lối cải tổ ở Liên Xô thực chất là đường lối trượt dài từ cơ hội hữu khuynh
đến xét lại, đến từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác - Lênin. Những tuyên bố ban đầu: cải tổ để
có nhiều dân chủ hơn, nhiều chủ nghĩa xã hội hơn, chúng ta sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội tốt đẹp
hơn chứ không đi ra ngoài nó, chúng ta tìm trong khuôn khổ của chủ nghĩa xã hội chứ không
phải ở ngoài giới hạn của nó những câu trả lời do cuộc sống đặt ra Rút cuộc chỉ là những
tuyên bố suông, ngụy trang cho ý đồ phản bội.
Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, thậm chí ngày càng công khai tuyên bố

từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà họ hứa hẹn,từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Chủ trương đưa ra lúc đầu là tăng tốc về kinh tế để chấm dứt sự trì trệ. Đẩy mạnh nhịp
độ phát triển không có gì sai mà là tất yếu, bức bách. Vấn đề là tăng tốc bằng cách nào thì
không có câu trả lời đúng đắn. Đổi mới công nghệ bằng cách nào cũng bế tắc. Người ta liền
quy cho cơ chế quản lý kinh tế nhưng rồi cũng trầy trật, người ta chuyển nhanh sang cải tổ
chính trị, coi đây là cái chìa khóa cho mọi vấn đề. Hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ 19 năm
1988 chủ trương chuyển trọng tâm sang cải tổ hệ thống chính trị trên cơ sở cái gọi là: tư duy
chính trị mới. Thực chất đó là sự thỏa hiệp vô nguyên tắc, là sự đầu hàng là từ bỏ lập trường
giai cấp là sự phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin, phản bội sự ngiệp xã hội chủ nghĩa. Cuộc cải
cách chính trị đánh thẳng vào hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội, trước hết là vào tổ
chức Đảng. Nhóm lãnh đạo cải tổ tìm cách loại bỏ khỏi ủy ban trung ương Đảng hàng loạt
những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, kiên trì đường lối chủ nghĩa Mác
-Lênin. Những người ngấm ngầm hoặc công khai thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm
các vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng và Nhà nước
6
Bằng phát súng lệnh công khai dân chủ, không có vùng cấm, cải tổ đã nhanh chóng tạo
ra làn sóng phê phán, công kích bôi đen tất cả những gì gắn với lịch sử 70 năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội, phủ định sạch trơn mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội. Nó gây hoang mang
xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của dân chúng đối với những
thành tựu của chủ nghĩa xã hội. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại chúng để
làm việc này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới phủ định quá khứ được các đài, báo phương
Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái theo những ý đồ, mục đích đen tối của chúng.
Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi vừa trắng trợn, thực hiện
được diễn biến hòa binh trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu.
Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành một cuộc chiến tranh khi bằng súng đạn, khi
bằng diễn biến hòa bình chống chủ nghĩa xã hội, chống Liên Xô. Chủ nghĩa đế quốc đã gây
ra cuộc chiến tranh lạnh từ sau Chiến tranh thế giới thứ II. Các chiến lược gia phương Tây
sớm nhận ra cái gót chân Asin của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là
chính sách thỏa hiệp nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở

tư duy chính trị mới. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ,
tìm cách để lái nó đi theo ý đồ của chúng. Các thế lực bên ngoài tác động vào cải tổ cả về tư
tưởng chính trị và tổ chức. Hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm thứ vũ khí rất lợi hại để
lái cuộc cải tổ theo quỹ đạo mà chúng mong muốn. Chủ nghĩa Đế quốc đã đẩy mạnh diễn
biến hòa bình trong nội bộ Liên Xô và Đông Âu. Trong cuốn sách: Chiến thắng không cần
chiến tranh, Nickson cho rằng mặt trận tư tưởng là mặt trân quyết định nhất. Ông ta viết:
Toàn bộ vũ khí của chúng ta các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu
chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng. Chiến lược của Mỹ trước sau như một là đưa chiến
tranh vào bên trong bức màn sắt.
Tóm lại, sự phá hủy của Chủ nghĩa Đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong và từ
trên chóp bu của cơ quan lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân trực tiếp làm cho Liên Xô sụp đổ.
Hai nguyên nhân này quyện chặt vào nhau tác động cùng chiều, tạo nên một lực lượng cộng
hưởng rất mạnh và nhanh như một cơn lốc chính trị trực tiếp phá sập ngôi nhà chủ nghĩa xã
hội. Tất nhiên xét cho cùng chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác cách
mạng trong hàng ngũ những người cộng sản đã tạo cơ hội vàng cho Chủ nghĩa Đế quốc chiến
thắng mà không cần chiến tranh.
Trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm của mô hình
cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa đổi mới là tất yếu. Vì chỉ có một cuộc cải tổ cải cách đổi mới
sâu sắc toàn diện mới đưa chủ nghĩa xã hội thoát khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát
triển mới. Cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới là tất yếu nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn
đề ở chỗ: cải tổ, cải cách, mở cửa, đổi mới thế nào nhằm mục đích gì, theo đường lối nào.
IV. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực:
Chủ nghĩa xã hội - tương lai của xã hội loài người. Loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử.
1. Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi
Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của nhân loại. Trong mấy thập kỉ
qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng”, đồng thời sử dụng triệt để những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ, các nước tư bản chủ nghĩa đã vượt qua được khó khăn và hiện
nay nó vẫn còn khả năng phát triển. Nhưng chủ nghĩa tư bản không phải là chế độ xã hội tương lai
của nhân loại bởi bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.

Chính phương thức sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa gây ra những ung
nhọt không thể chữa khỏi.
7
Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại, trên thế giới ngày nay
vẫn có đến 1,2 người chịu cảnh nghèo đói, bệnh tật, mù chữ, chiến tranh, hưởng mức thu nhập thấp
dưới 1 USD/ngày; 2,5 tỷ người nghèo có tổng thu nhập chỉ bằng thu nhập của 250 tỷ phú, triệu phú
lớn nhất thế giới gộp lại; 1/3 lực lượng lao động toàn thế giới bị thất nghiệp ở các mức khác nhau,
hàng ngày có trên 30.000 trẻ em chết bệnh mà lẽ ra có thể được cứu sống và số người mù chữ lên tới
800 triệu người. Sự kiện giới cầm quyền Mỹ, Anh tấn công Irac (2003) càng khẳng định bản chất
hiếu chiến của chúng.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản với những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục, xã hội tư bản
không thể thay đổi bản chất của mình.
2. Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng xã hội tư bản
Chủ nghĩa tư bản hiện đại sẽ còn tiếp tục phát triển qua những cuộc khủng hoảng, những cuộc
cải cách để thích ứng. Quá trình phát triển đó cũng chính là quá trình quá độ sang một xã hội mới.
Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của
nền văn minh hậu công nghiệp, kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển, tính chất xã hội của sở hữu
ngày càng tăng, sự điều tiết của nhà nước đối với thị trường ngày càng hữu hiệu, tính nhân dân và xã
hội của nhà nước tăng lên; những vấn đề phúc lợi và môi trường…ngày càng được giải quyết tốt
hơn. Đó là những xã hội quá độ vì nó chứa đựng các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội tương lai.
3. Liên xô và các nước Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội
Sự sụp đổ của Liên xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình của chủ nghĩa xã hội trong
quá trình đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Nó không đồng nghĩa với sự cáo chung của chủ nghĩa xã
hội với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội mà loài người đang vươn tới. Tương lai của xã hội loài
người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Tính chất của thời
đại hoàn toàn không thay đổi, loài người vẫn trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên xã hội chủ
nghĩa trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Các mâu thuẫn
của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay dổi hình thức biểu hiện và đặt ra yêu cầu mới phải giải quyết.
4. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, đổi mới và ngày càng đạt được những
thành tựu to lớn

Trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới một cách toàn diện. Vì thế, chế độ xã
hội chủ nghĩa ở những nước này không chỉ đúng vững mà còn tiếp tục được đổi mới và phát triển.
Trong đó Trung Quốc và Việt Nam là hai nước tiến hành cuộc cải cách thành công nhất. Trên cơ sở
vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, đã tìm ra
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử mới.
Trong khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách một cách toàn diện, nhờ đó chế độ xã hội chủ
nghĩa ở những nước này không chỉ đứng vững mà còn không ngừng tiếp tục được đổi mới và phát
triển. Trung Quốc và Việt Nam là hai nước đã tiến hành cuộc cải cách, đổi mới tương đối thành công
nhất. Tuy có nhiều những khác biệt nhất định trên các phương diện nhưng công cuộc cải cách, mở
cửa ở Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam có khá nhiều nét tương đồng:
Thứ nhất, ngay từ đầu cuộc cải cách và đổi mới, Trung Quốc và Việt Nam đều xem xét truớc
sau và lần luợt xác định lựa chọn nền kinh tế thị truờng hàng hoá nhiều thành phần thay thế cho nền
kinh tế tập trung cao độ truớc đây. Từ đại hội XIV Đảng cộng sản Trung Quốc (tháng 10-1992),
Trung Quốc tuyên bố mục tiêu của họ là thực hiện nền kinh tế thị truờng xă hội chủ nghĩa. Việt
Nam từ đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã dùng khái niệm kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
8
vận động theo cơ chế thị truờng, theo định huớng xã hội chủ nghĩa. Dù có khác nhau về chữ nghĩa,
nhưng cả hai loại quan điểm trên đều có nhiều điểm chung như sau:
Thứ hai, chủ trương lấy chế độ công hữu làm nền tảng (Việt Nam), và quốc hữu giữ vai trò là
chủ thể (Trung Quốc), kinh tế nhà nước là chủ đạo. thừa nhận tính da dạng của các thành phần kinh
tế khác nhau. Hình thức thực hiện chế độ công hữu rất đa dạng, có thể thông qua hình thức sở hữu
hỗn hợp cổ phần, hình thức tổ chức vốn của xí nghiệp hiện đại. Trung Quốc lấy hình thức sở hữu cổ
phần là hình thức chủ yếu của chế độ công hữu và Việt Nam lấy doanh nghiệp cổ phần thành hình
thức tổ chức phổ biến. Thông qua hình thức cổ phần nhà nuớc, một mặt vừa đảm bảo vai trò chủ thể
của công hữu, mặt khác đảm bảo tránh sự phân hoá hai cực, thực hiện mục tiêu phát triển ổn định và
giàu có.
Thứ ba, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng hệ thống pháp
luật ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, đặc biệt là phù hợp với những cam kết

quốc tế; giảm dần sự can thiệp vi mô, sự can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp,
gia tăng quản lý vĩ mô, gia tăng sự phân chuyển cho các địa phương; thực hiện chế độ dân chủ nói
chung, đặc biệt là ở các cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, gia tăng sự giám sát của các cấp,
của công luận, của Quốc hôi, của Hội đồng nhân dân các cấp, của các tổ chức xã hội, tinh giản bộ
máy và biên chế…
Thứ tư, xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng gồm các hội nghề nghiệp, văn hóa,
tôn giáo, xã hội…Các tổ chức ngày càng có vai trò to lớn trong các lĩnh vực mà Nhà nước không với
tay tới, như từ thiện, cứu trợ người nghèo…
Thứ năm, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đều tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế như: Liên
hợp quốc, WTO, các tổ chức trong khu vực…Trở thành những quốc gia tích cực trong hội nhập khu
vực ASEAN, Đông Á.
Thứ sáu, bảo đảm sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung
Quốc, của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang được đổi mới theo hướng khoa học, dân chủ và hiệu
quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Trung Quốc và Việt Nam
*Thành tựu đạt được:
Kết quả gần 30 năm cải cách mở cửa của Trung Quốc (1978-2007), Đại hội XVII Đảng Cộng
sản Trung Quốc đã khẳng định: Đây là bước ngoặc lịch sử vĩ đại từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung cao độ sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và là con đường tất yếu phát triển chủ nghĩa xã
hội đặc sắc Trung Quốc; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới cứu được Trung Quốc, phát triển được chủ
nghĩa xã hội và phát triển được chủ nghĩa Mác.
Tổng kết 20 năm đổi mới của Việt Nam (1986-2006), Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần cho xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện
đại đoàn kết dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; đảm bảo quóc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế.”
Thế và lực của các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng tăng lên. Bất chấp sự chống phá của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, các nước xã hội chủ nghĩa đã giành được nhiều thắng lợi

to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những đóng góp uy tín và vị thế của các nước xã hội chủ nghĩa (nhất là
Trung Quốc) được quốc tế thừa nhận và đánh giá cao. Các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục hoạt động
tại các diễn đàn đa phương lớn của thế giới.
9
5. Đã xuất hiện những nhân tố mới của xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia
trong thế giới đương đại
Trong tình hình chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Mỹ
Latinh, từ những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và ngày càng phát triển mạnh lên thành một
trào lưu vào đầu thế kỉ XXI. Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các chính phủ cánh tả, tiến
bộ lên cầm quyền ở một số nước Mỹ Latinh Trong số những nước Mỹ Latinh do cánh tả cầm quyền
hiện nay, nhiều nước tuyên bố đi lên xã hội chủ nghĩa. Ví dụ như Vênexuela, Ecuado,Nicago,
Bôlivia…Sự tác động sâu xa và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân
tộc Mỹ Latinh thể hiện bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Đó là một thực tế lịch sử
chứng minh cho sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội củng cố niềm tin vào lí tưởng
cộng sản chủ nghĩa.
Tóm lại: Từ diễn biến của tình hình thế giới từ cách mạng Tháng Mười Nga đến nay có thể
khẳng định rằng: chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại và sự thức
tỉnh của các dân tộc nhất định sẽ có bước phát triển mới; theo quy luật khách quan của lịch sử loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội nhất định là tương lai của xã hội loài
người,
6. Những xu thế chủ yếu của thế giới hiện nay:
a. Hòa bình, ổn định để cùng phát triển:
Phần lớn các nước trên thế giới đã giành nhiểu ưu tiên cho phát triển kinh tế, qua đó phát triển
tiềm lực của mình, tạo điều kiện giữ gìn hòa bình trong nước và thế giới.
b. Gia tăng xu hướng hợp tác giữa các quốc gia:
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ cảu các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, tạo ra xu
hướng toàn cầu hóa trong cac khu vực, làm cho hợp tác là xu hướng tất yếu trên thế giới hiện nay.
Hình thức hợp tác hiện nay rất đa dạng, hợp tác song phương, khu vực, quốc tế…
c. Các dân tộc ngày càng nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự cường:
Với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kĩ thuật, của phong trào cách mạng trên

thế giới, của phương tiện thông tin, các dân tộc ngày càng ý thức được những quyền lợi dân tộc cơ
bản của mình. Mặt khác các nước lớn, giàu thường ỷ lại vào các thế mình kinh tế, quân sự để chi
phối các nước nhỏ, các nước nghèo bằng cách áp đặt quan điểm chính trị, dùng thủ đoạn bóc lột về
kinh tế, thậm chí tiến hành chiến tranh xâm lược, lật đổ.
d. Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân kiên trì đấu tranh vì hòa
bình, tiến bộ và phát triển:
Tình hình quốc tế hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, nhưng phấn đấu cho hòa bình, ổn định,
tiến bộ và phát triển vẫn là xu thế chung của nhân loại.
e. Các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại cho hòa
bình:
Nhận thức được đặc điểm và xu hướng của thời đại ngày nay đã cung cấp cho chúng ta cơ sở
khoa học để luận chứng tất yếu hợp quy luật của định hướng xã hội chủ nghĩa. Giúp nắm bắt được
cơ hội, vượt qua thách thức để tạo ra sự phát triển mạnh mẽ trong thời đại mới. Đó là vấn đề sống
còn với Đảng và nhân dân.
B. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN VỌNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM:
10
Trước hết, chủ nghĩa xã hội khoa học có ý nghĩa là một bộ môn khoa học chính trị - xã hội, bởi
trong nội dung của nó có nhiều quy luật cơ bản của quá trình hình thành và phát triển của cách mạng
xã hội chủ nghĩa, của xã hội xã hội chủ nghĩa (hay chế độ xã hội chủ nghĩa) là cộng sản chủ nghĩa do
đại đa số người lao động trực tiếp tham gia, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã là những quy
luật thì ai muốn vận dụng nó đều phải nghiên cứu một cách đẩy đủ và nghiêm túc, với thái độ thật sự
khoa học (như đối với các môn khoa học khác: toán, hóa, lý, văn, kinh tế…). Đặc biệt, là các Đảng
Cộng sản và các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản thì phải nắm vững, vận dụng đúng đắn sáng tạo và phát triển - cụ thể hóa lý luận của chủ
nghĩa xã hội khoa học vào hoàn cảnh mỗi nước mới có thể đạt được mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cộng
sản chủ nghĩa. Mà trong các Đảng Cộng sản, nhà nước và trong xã hội, bao giờ cũng có nhiều thế hệ
người kế tiếp nhau. Do đó, các thế hệ kế tiêp nhau đều cần nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học với
những hình thức và nội dung phù hợp với thế hệ mình. Cứ như vậy, các thế hệ mới kế tục và phát
triển ngày càng cao hơn theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa. Các Đảng Cộng sản và

các nước chủ nghĩa xã hội đang trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản phải
nắm vững, vận dụng đúng đắn sáng tạo và phát triển, cụ thể hóa lý luận của chủ nghĩa xã hội vào
hoàn cảnh mỗi nước mới có thể đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời
các thế hệ nối tiếp nhau cần nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học với hình thức và nội dung phù
hợp với thế hệ của mình.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết hoàn chỉnh gồm ba bộ phận hợp thành: triết học,
kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học. Để nhận thức đúng đắn, đầy đủ và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn là phải sử dụng cả ba bộ phận, vì chúng liên quan rất chặt chẽ với
nhau. Hơn nữa, chính chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận rất quan trọng vì nó nghiên cứu trực tiếp
các bộ phận con người - nhân tố quyết định nhất đối với quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Chính Lênin đã lấy chủ nghĩa xã hội khoa học để gọi
chung cho “Chủ nghĩa Mác” - gồm cả ba bộ phận. Lênin nói: chủ nghĩa xã hội khoa học tức là chủ
nghĩa Mác.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất mới mẻ và
phức tạp. Bản thân các đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa mà coi nhẹ chủ nghĩa xã hội
khoa học thì không thể lãnh đạo và quản lý đất nước, trong đó có Việt Nam. Kẻ thù của nhân dân,
các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội, trong đó có phá hoại về chính trị - tư tưởng, nhất là những
vấn đề có liên quan đến chủ nghĩa xã hội khoa học như: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và
Đảng Cộng sản, dân chủ và chủ nghĩa xã hôi, dân tộc, tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội… Đặc biệt, từ
khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, do đó các nước chủ nghĩa xã hội còn lại, trong đó có Việt Nam nếu
kiên trì chủ nghĩa xã hội, vận dụng đúng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học thì chẳng
những không sụp đổ mà còn ổn định, phát triển nhanh chóng trong công cuộc đổi mới. Nghiên cứu
chủ nghĩa xã hội khoa học một cách nghiêm túc sẽ có lập trường chính trị một cách khoa học vững
vàng, để góp phần xây dựng xã hội, bảo vệ tổ quốc, vừa chủ động chống lại mọi âm mưu của kẻ thù
và những hiện tượng tiêu cực của kẻ thù.
Công cuộc đổi mới ở nước ta, được Ðại hội VI của Ðảng khởi xướng năm 1986, bên cạnh nhiệm
vụ nóng bỏng trước mắt là khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nảy sinh từ cuối thập kỷ 70,
còn có nhiệm vụ cơ bản và lâu dài hơn: Ðó là xây dựng nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và
xác định con đường đi lên xã hội chủ nghĩa đúng đắn ở Việt Nam
Ðể thực hiện nhiệm vụ vừa phức tạp vừa hệ trọng đó, Ðảng và nhân dân ta kiên trì đứng vững

trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời tích cực phát huy tấm gương Hồ
Chí Minh trong vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin phù hợp với hoàn cảnh Việt
Nam. Chính Mác và Ăng ghen, hơn ai hết đã nhiều lần cảnh báo rằng chủ nghĩa xã hội là một phong
11
trào hiện thực, chứ không phải một khuôn mẫu lý luận bắt hiện thực phải tuân theo. Cách đây hơn
150 năm, trên cơ sở phân tích sự phủ định biện chứng của chủ nghĩa tư bản, các ông đã nêu lên
những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội mà theo chúng tôi, có giá trị và sức sống bền vững. Đó
là quan điểm về chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội của giải phóng và phát triển, của dân chủ và
công bằng xã hội; một chế độ do nhân dân lao động làm chủ, không còn bóc lột, áp bức. Những quan
điểm của Mác-Ăng ghen về chủ nghĩa xã hội, tuy là nền móng rất quan trọng đối với nhận thức của
chúng ta về chủ nghĩa xã hội nhưng đó mới chỉ là những khái quát chung nhất, nhất thiết phải được
cụ thể hoá ''thành xương, thành thịt'' trên từng mảnh đất hiện thực. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã
có công lao to lớn: nêu lên hàng loạt nhận thức sinh động về chủ nghĩa xã hội. Theo Người, xây
dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một chế độ xã hội sao cho đời sống vật chất ngày càng tăng, đời
sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ; là làm cho dân có ăn, có mặc, có
nhà ở, ai ai cũng được học hành tiến bộ, được chăm sóc sức khoẻ, được tự do đi lại, được hưởng
quyền dân chủ, có đời sống tươi vui, hạnh phúc, đấy là mục đích của mọi chính sách của Đảng và
Chính phủ.
Trong Di chúc, Người nói rõ điều mong muốn cuối cùng, cũng là hoài bão, khát vọng cả cuộc
đời mà Người đã tranh đấu không mệt mỏi cho dân, cho nước, ấy là xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Đây chính là tính hướng đích sâu xa của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là ở đó, là làm tất cả những
gì có ích, có lợi cho cuộc sống của nhân dân, chăm lo phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân, đi liền
với tiết kiệm sức dân. Giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân đã từng là phát kiến lý
luận đầy bản lĩnh sáng tạo của Hồ Chí Minh. Thống nhất sức mạnh giai cấp với sức mạnh dân tộc và
thời đại, gắn quyện mật thiết mục tiêu bản chất- động lực của chủ nghĩa xã hội ở sức mạnh của dân
chủ và quyền làm chủ của dân, ở tự do, công bằng và bình đẳng trong sự phát triển hài hoà giữa cá
nhân và xã hội, đó là chiều sâu trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Qua 20 năm đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta ngày càng sáng tỏ hơn. Cho đến nay, Ðảng ta đã bước đầu hình thành được trên những nét cơ bản

một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Ðảng, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Ðại
hội VII, năm 1991 đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang
từng bước xây dựng và xác định những phương hướng chủ yếu đưa nước ta từng bước quá độ tới chủ
nghĩa xã hội. Cũng có thể xem đó là con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, là mô hình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Từng bước một, qua thực tiễn đổi mới kinh tế, nhất là với những nhận thức mới về tình hình thế
giới trong bối cảnh quốc tế và xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Ðảng ta đã thấy rõ yêu cầu khách quan
của việc xây dựng nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từ cơ chế thị trường
tới xây dựng thể chế kinh tế thị trường và chủ trương phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một bước tiến rất căn bản trong nhận thức lý luận của Ðảng ta về chủ
nghĩa xã hội.
Ở đây, cần thấy rằng, cái mới trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đạt được
là ở chỗ, quan niệm về chủ nghĩa xã hội đã từ những nhận thức chung, có phần còn trừu tượng và có
khuynh hướng lý tưởng hóa hiện thực, thoát ly thực tiễn đến chỗ hình dung chủ nghĩa xã hội ngày
càng cụ thể, thiết thực, đặc biệt là đặt đúng vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ
sản xuất, nhận thức rõ, muốn đi tới chủ nghĩa xã hội trước hết phải tập trung phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo đúng quy luật khách
12
quan. Kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập thực hiện hợp tác song phương và đa phương, kết hợp nội
lực với ngoại lực để phát triển những vấn đề ấy đã được xác định trong quan niệm mới hiện nay về
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng ta có thể nhận thấy mối liên hệ mật thiết giữa những thành tựu của 20 năm đổi mới, xét về
mặt thực tiễn, với những nhận thức mới của Ðảng về chủ nghĩa xã hội xét trên phương diện lý luận.
Từ thực tiễn đổi mới, những khái quát lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội đã không ngừng được bổ sung, hoàn thiện.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được xác định tại Ðại hội VI là: Dân giàu, nước mạnh, xã hội văn
minh; đến Ðại hội VIII được bổ sung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, và Ðại hội

IX hoàn chỉnh thêm: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Có thể nói, tư
duy lý luận của Ðảng về dân chủ đã có những bước phát triển quan trọng từ nhận thức dân chủ hóa
và đổi mới hệ thống chính trị ở Ðại hội VI và Ðại hội VII đến Quy chế dân chủ ở cơ sở trong nhiệm
kỳ Ðại hội VIII và đổi mới hệ thống chính trị cơ sở trong nhiệm kỳ của Ðại hội IX.
Chính là nhờ những nhận thức lý luận mới được hình thành và phát triển trong thực tiễn và tổng
kết thực tiễn mà giờ đây chúng ta có thể nói: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dưới
sự lãnh đạo của Đảng là một xã hội nhằm đi tới ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh''. Có thể xem đây là hình dung tổng quát về bản chất, mục tiêu, bao hàm trong đó cả hệ
thống giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc, cả động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Một quan niệm như thế về chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện trong tổng kết lý luận - thực tiễn 20
năm đổi mới, trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội X là kết quả tìm tòi, nghiền ngẫm từ thực tiễn
của Đảng và nhân dân ta. Nhờ bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn và trở về với thực tiễn mà lý
luận về chủ nghĩa xã hội của Ðảng có được hơi thở, sức sống thực tiễn, phù hợp với cuộc sống và lợi
ích, nhu cầu, nguyện vọng thiết thân của quần chúng. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, thành tựu lý
luận mà Ðảng ta và nhân dân ta đạt được qua thực tiễn 20 năm đổi mới tập trung nổi bật ở quan điểm
về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, nền dân chủ hướng tới đông đảo quần chúng nhân dân, bảo đảm dân chủ và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Ðảng Cộng sản cầm quyền trong sạch, vững mạnh, coi
đó là khâu then chốt, đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực mạnh mẽ và quyết định thành bại của
công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội
Sự xác định đúng đắn những vấn đề trên cho thấy, lý luận, tư duy lý luận của Ðảng về chủ nghĩa
xã hội thấm nhuần tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đã đóng vai trò quan trọng đối với thực tiễn đổi mới, làm nên những thành tựu của đổi mới.
Tuy nhiên, còn không ít những vấn đề lý luận, cả lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, liên quan tới cơ cấu kinh tế, chế độ sở hữu, cơ chế quản lý cũng như lý luận về chính trị,
về Ðảng Cộng sản cầm quyền, nhà nước pháp quyền, hệ thống chính trị, xã hội dân sự chúng ta
cần tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ. Sự phát triển của thực tiễn và sự nâng cao không ngừng năng
lực tư duy lý luận của Đảng, trình độ nhận thức của xã hội, nhất là của giới lý luận sẽ từng bước góp
phần làm sáng tỏ và đem lại lời giải đầy đủ, thấu đáo hơn những vấn đề đó. Trên tinh thần của đổi
mới, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, chúng ta cần thẳng thắn nhận rõ rằng, lý luận về chủ

nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội như hiện nay của chúng ta vẫn chưa ngang tầm
với những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, của yêu cầu phát triển và hiện đại hoá xã hội. Thành tựu
của đổi mới còn có thể to lớn hơn nữa, nếu lý luận đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa có
những bước tiến đột phá, đủ sức tạo ra một xung lực tinh thần thúc đẩy thực tiễn phát triển.
Thực tiễn và kinh nghiệm lịch sử của thế giới cũng như của nước ta đã cho thấy, những biến đổi
mang tầm vóc cách mạng trong đời sống xã hội bao giờ cũng dựa trên một tiền đề: cách mạng hoá tư
duy và tư tưởng, ý thức và nhận thức lý luận. Đổi mới, phát triển và hiện đại hoá xã hội, trước hết
13
đòi hỏi Đảng đi tiên phong trong đổi mới, bằng cách đổi mới chính bản thân mình để thúc đẩy đổi
mới xã hội, phát triển năng lực trí tuệ của Đảng bằng cách thu hút tốt nhất trí tuệ của dân tộc mình và
tiếp thu được tinh hoa trí tuệ của thời đại, của văn hoá nhân loại, hiện đại hoá lý luận, làm cho lý
luận đủ sức đóng vai trò dẫn đường cho sự phát triển, hiện đại hoá xã hội.
Ðại hội X của Ðảng đánh dấu một bước ngoặt, một thời kỳ phát triển mới của đổi mới ở nước ta.
Ðể tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Một số vấn đề về nghiên cứu và thực hành lý luận trong thời gian tới mà Ðảng ta cần đặc
biệt quan tâm. Trước hết, cần đi sâu nghiên cứu về chủ nghĩa Mác-Lênin một cách cơ bản và hệ
thống nhằm tiến tới nhận thức khoa học và hiện đại trên những vấn đề sau đây:
Một là làm sáng tỏ những giá trị còn thật sự đúng đắn, bền vững, cần thiết cho thế giới quan, ý
thức hệ của chúng ta.
Hai là đánh giá những luận điểm của các nhà kinh điển vốn đúng đắn, chính xác, hợp lý ở thời
kỳ lịch sử trước đây khi các ông đề xướng nhưng ngày nay thực tiễn biến đổi, đã không còn phù hợp
nữa, đòi hỏi phải có những nhận thức, những phát triển mới.
Ba là cần nghiên cứu với tinh thần phê phán để thấy có những luận điểm mà các nhà kinh điển
nêu ra nhưng ngay từ đầu đã không đúng và chính các nhà kinh điển cũng đã có điều chỉnh mà ngày
nay chúng ta cần phải nhận rõ, cần tự giải phóng tư duy và tư tưởng của chính mình để phát triển
mới chứ không lệ thuộc.
Bốn là nghiên cứu với tinh thần tự phê phán và tự đổi mới để thấy cho rõ nhiều luận điểm, tư
tưởng của các nhà kinh điển đã từng bị hiểu sai, làm sai do giáo điều, do hạn chế nhận thức dẫn tới.
Bằng sức mạnh tư duy khoa học phải vượt qua những hạn chế đó, phải làm chính xác những tư
tưởng đích thực là của Mác-Lênin. Cũng từ đó, nhận rõ những sự xuyên tạc Mác, cắt xén Mác-

Lênin, những mưu toan phủ nhận Mác-Lênin có dụng ý. Sự phê phán này phải thật sự là những
nghiên cứu khoa học khách quan, nghiêm túc nhất, góp phần củng cố niềm tin khoa học với chủ
nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội.
Năm là nghiên cứu những thành tựu khoa học, lý luận mà thế giới đương đại đã và đang đạt
được, từ đó thấy rõ những gì cần phải bổ sung, làm phong phú và sâu sắc thêm kho tàng di sản kinh
điển mácxít.
Sáu là nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần thể hiện
chân thật và sinh động việc thực hành nhất quán, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc sống, từ
trong Ðảng, Nhà nước đến các tổ chức, đoàn thể của hệ thống chính trị, trong đời sống của nhân dân
và trong toàn xã hội.
Bảy là khâu quyết định đối với việc chúng ta có tiếp tục xây dựng nhận thức đúng đắn về chủ
nghĩa xã hội và làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hay không là công tác
nắm bắt kịp thời, tổng kết chính xác thực tiễn kinh tế - xã hội, chính trị, khoa học - kỹ thuật, văn hóa,
tinh thần của thời đại và cuộc sống sôi động của đất nước. Không tiến hành có hiệu quả nhiệm vụ
tổng kết thực tiễn, Đảng và nhân dân ta không thể góp phần tạo ra cho lý luận Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội sinh lực và xung lực trong thời đại mới; càng không thể khai mở
ngày càng sáng tỏ con đường Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp tục xây dựng nhận thức về chủ nghĩa xã hội và làm sáng tỏ hơn nữa con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta chính là bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước và
bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới. Nhìn từ vai trò, vị trí này, vấn đề đang bàn trở nên thật sự
sống còn và cao cả. Ðây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với toàn Ðảng, toàn dân, trong đó có
đội ngũ những người làm công tác lý luận. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng sẽ tiếp tục tiến lên phía
trước trong tư duy và thực hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi chúng ta có sự lãnh đạo của Ðảng
quang vinh đã từng dẫn dắt dân tộc đến nhiều kỳ tích lịch sử, đã khởi xướng và lãnh đạo thành công
14
công cuộc đổi mới 20 năm qua; có nguồn thực tiễn rất năng động và sáng tạo của hơn 80 triệu nhân
dân Việt Nam đã làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử qua hai thập kỷ đổi mới. Với
những nhân tố quý báu này, tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta sẽ biến thách thức thành cơ hội, vươn lên ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ của Ðảng, của dân
tộc và phù hợp với xu thế thời đại.

15
KẾT LUẬN
Chúng ta và cả cộng đồng nhân loại vừa được chứng kiến những giây phút lịch sử của sự kiện
chuyển giao thế kỷ. Thế kỷ XX, thiên niên kỷ thứ hai đầy biến động đã qua để giờ đây, chúng ta và
cả cộng đồng nhân loại bước sang thế kỷ XXI, thiên niên kỷ thứ ba cũng sẽ lại chứa đầy những biến
cố lịch sử mới.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã “mở đầu một thời đại mới trong lịch
sử thế giới” và như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười đã mở ra con
đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.” Đó là thời đại đấu tranh cho
thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội gắn liền với cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc
chuyển lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội đã phát triển và đạt được những thành tựu to lớn, xây dựng được một hệ thống
chính trị chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, những người Cộng sản ở các nước thuộc Liên Xô trước
đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ mặt kẻ thù đang ra sức tập hợp lực lượng, tiến
hành cuộc đấu tranh bền bỉ nhằm khôi phục những giá trị của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở
lại con đường xã hội chủ nghĩa. Từ thực tế của những giai đoạn phát triển của xã hội chủ nghĩa đã
giúp cho giai cấp công nhân, nhân dân tiến bộ trên thế giới thấy được bộ mặt thật và tính chất nguy
hiểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại, từ đó mà đoàn kết nhau lại để đấu tranh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản,
đưa đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã tuyệt đối hóa cơ chế kế hoạch hóa tập trung
cao độ, từ bỏ hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế hàng hóa, bao cấp tràn lan;
chậm đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội là nguyên nhân sâu xa làm chế độ chủ nghĩa xã hội suy yếu
rơi vào khủng hoảng. Sự phá hoại của chủ ngĩa đế quốc cùng sự phản bội từ bên trong và từ trên
chóp bu của cơ quan lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân trực tiếp làm cho Liên Xô sụp đổ. Hai
nguyên nhân này hòa quyện chặt vào nhau tác động cùng chiều, tạo nên một lực cộng hưởng rất
mạnh nhanh như một cơn lốc chính trị trực tiếp phá sập ngôi nhà xã hội chủ nghĩa.
Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ một mô hình của chủ nghĩa xã hội trong quá

trình đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa chứ không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với tư
cách là một hình thái kinh tế xã hội mà loài người đang vươn tới. Trong tình hình chủ nghĩa xã hội
trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm của mô hình cũ thì cải tổ, cải cách, đổi mới là tất yếu. Chỉ có
làm như vậy mới có thể đưa chủ ngĩa xã hội thoát khỏi khủng hoảng, bước vào thời kì phát triển
mới. Trong đó Trung Quốc và Việt Nam là hai nước đã tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới tương
đối thành công nhất. Sự xuất hiện của “Chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỉ XXI” cần phải tiếp tục
nghiên cứu và theo dõi nhưng rõ ràng những biểu hiện đó đã và đang có sự tác động sâu xa vào sức
sống mạnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực với các nước Mỹ Latinh, thể hiện bước tiến mới của
chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Đó là một thực tế lịch sử chứng minh cho sức sống và khả năng phát
triển của chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là quá trình tất yếu của lịch sử xã hội loài người. Các Đảng Cộng sản
và các nước chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản phải
nắm vững, vận dùng đúng đắn sáng tạo và phát triển, cụ thể hóa lý luận của chủ nghĩa xã hội và hoàn
cảnh mỗi nước mới có thể đạt được mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời các
thế hệ phải nối tiếp nhau cần nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học với hình thức và nôi dung phù
16
hợp với thế hệ mình. Nhận thức đúng đắn chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng vào thực tiễn phải sử
dụng cả ba bộ phận: triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học. Hơn nữa chính chủ nghĩa
xã hội khoa học là bộ phận quan trọng vì nó nghiên cứu trực tiếp các lực lượng con người – nhân tố
quyết định nhất đối với quá trình cách mạng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hôi, chủ nghĩa
cộng sản với nhiều vấn đề lý luận và thực tiển rất mới mẻ và phức tạp. Bản thân các Đảng Cộng sản
và các nước chủ nghĩa xã hội, nếu coi nhẹ chủ nghĩa xã hội thì không thể lãnh đạo và quản lý đất
nước. Việt Nam nếu kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội, nếu vận dụng đúng và phát triển sáng tạo thì
sẽ ổn định và phát triển nhanh chóng trong công cuộc đổi mới
Phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới đang ở một khúc quanh lịch sử, một bước thụt lùi lớn, song
chắc chắn rằng “loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá
của lịch sử”. Dù cho hiện nay có những đảo lộn rất lớn, nhưng những đảo lộn ấy không làm bánh xe
lịch sử quay ngược lại, không hề làm thay đổi tính chất và nội dung căn bản của thời đại hiện nay
được mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Bởi lẽ, thời đại là một phạm trù
lịch sử có tầm bao quát rộng lớn và phản ánh tổng quát một giai đoạn lớn của lịch sử, mang ý nghĩa

cơ bản về sự vận động của thế giới, cũng như của mỗi cộng đồng quốc gia dân tộc. nhân loại sẽ cùng
tiến tới một thời đại mới, thời đại của tự do và hạnh phúc.
Là những người có may mắn được hưởng niềm vui lớn lao ấy trong cuộc đời con người, chúng
ta hoàn toàn có quyền tự hào rằng thế kỷ XX là thế kỷ phát triển rực rỡ nhất của loài người trong
thiên niên kỷ thứ hai. Đó là thế kỷ mà khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đời sống
vật chất và tinh thần của con người được nâng lên gấp bội. Nhưng đó cũng là thế kỷ có nhiều sự kiện
đau buồn như đã diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng loạt các cuộc xung đột vũ trang khiến
cho cả cộng đồng nhân loại phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng nề. Dấu ấn nổi bật và đậm nét của
thế kỷ này là những thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường, giành độc lập dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên phạm vi toàn thế giới, được mở đầu bằng Cách mạng
Tháng Mười Nga vĩ đại - cuộc cách mạng mà “trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng
nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
17

×