Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Luận văn: Một số giải pháp tăng cường quản lý thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.45 KB, 75 trang )

Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
MỤC LỤC
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 1 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, là công cụ quan
trọng để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
Và là vấn đề đại cục của mỗi Quốc gia, đặc biệt trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện cải cách
thuế bước hai. Điểm nổi bật của cuộc cải cách này là thay thế luật thuế doanh thu
bằng luật thuế giá trị gia tăng được thông qua tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá
IX, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999. Sự ra đời của luật thuế giá trị gia
tăng được xem là một bước ngoặc có tính đột phá trong công tác quản lý thu thuế
và đã thể hiện được sự mạnh dạn, đương lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước
trong công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước.
Những năm gần đây, số lượng các doanh nghiệp, số lượng đăng ký tăng
gấp nhiều lần đã tạo số thu lớn trong số thu ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, đây
cũng là lĩnh vực thất thu lớn và gian lận thuế diễn ra khá phổ biến. Điển hình là
thuế giá trị gia tăng trong đó: Tình trạng sử dụng hoá đơn giả, khai khống hoá
đơn đầu vào để xin hoàn thuế, ghi giá trên hoá đơn thấp hơn giá thực tế đang là
vấn đề mang tính thời sự hiện nay. Để khắc phục được những hạn chế trên thì
cần thiết phải tăng cường công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với loại
hình doanh nghiệp này.
Trong những năm gần đây, Quảng Ninh luôn là tỉnh đóng góp số thu lớn
trong NSNN. Kể từ khi có luật doanh nghiệp và đặc biệt là từ khi có luật thuế
mới ra đời đã có gần 7000 doanh nghiệp NQD được thành lập, góp phần không
nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Thời gian qua, Cục thuế Quảng
Ninh đã đạt được khá nhiều kết quả tốt trong công tác quản lý thu thuế đối với
khu vực doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, trong công tác quản lý thu thuế GTGT
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02


- 2 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
đối với các doanh nghiệp NQD Cục thuế tỉnh Quảng Ninh cũng gặp nhiều khó
khăn. Là một sinh viên chuyên ngành Thuế của Học Viện Tài Chính, xuất phát
từ tầm quan trọng của thuế và yêu cầu quản lý thuế đối với các doanh nghiệp
NQD, trong quá trình thực tập tại Cục thuế tỉnh Quảng Ninh với sự giúp đỡ của
cô giáo và các cô chú anh chị công tác tại Cục, em đã nghiên cứu và tìm hiểu để
đi đến lựa chọn đề tài : Một số giải pháp tăng cường quản lý thuế giá trị gia
tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh.
Trên cơ sở đó, bố cục của luận văn được trình bày theo 3 phần như sau:
 Chương 1: Một số nhận thức chung về doanh nghiệp ngoài quốc doanh và
quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
 Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý thu thuế GTGT đối với các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
 Chương 3: Một số giải pháp tăng cường hoạt động quản lý thu thuế
GTGT đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn.
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 3 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ NHẬN THỨC CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NGOÀI
QUỐC DOANH VÀ QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. Một số nhận thức chung về DNNQD
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của DNNQD
 Khái niệm DNNQD
Doanh nghiệp NQD là một bộ phận của thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh. Trong những năm gần đây được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta
(Đại hội đảng IX) thông qua các chính sách, chiến lược phát triển cụ thể, tạo

những biến đổi lớn trong nền kinh tế xã hội. Đối với các doanh nghiệp NQD
trong quá trình đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành các chính sách kinh tế nhằm
tạo điều kiện cho thành phần kinh tế về lĩnh vực này phát triển như: việc ban
hành Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp…
Theo Luật Doanh nghiệp được quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 5 thông qua thì các doanh nghiệp NQD hiện nay
của nước ta bao gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty
hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân, Hợp tác xã. Các hình thức này có hoạt động
kinh doanh đa dạng, phong phú về mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề của nền kinh tế
quốc dân.
Để đi sâu tìm hiểu về doanh nghệp NQD trước hết ta phải tìm hiểu khái
niệm doanh nghiệp : “Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 4 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. (Trích điều 3-
Luật doanh nghiệp 2005).
Qua đó, ta có thể hiểu doanh nghiệp NQD là hình thức doanh nghiệp
không thuộc sở hữu của Nhà nước, trừ khối hợp tác; toàn bộ vốn, tài sản, lợi
nhuận đều thuộc sở hữu tư nhân hay tập thể người lao động, chủ doanh nghiệp
hay chủ cơ sở sản xuất kinh doanh chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động sản
xuất kinh doanh và toàn quyền quyết định phương thức phân phối lợi nhuận sau
khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế mà không chịu sự chi phối nào từ các quyết
định của Nhà Nước hay cơ quan quản lý.
 Đặc điểm của DNNQD
Có thể thấy rằng, các doanh nghiệp dù là thuộc khu vực ngoài quốc doanh
hay Nhà nước đều lấy lợi nhuận là mục tiêu, là thước đo hiệu quả của hoạt động
SXKD, cùng hoạt động theo cơ chế thị trường có sự hướng dẫn của Nhà nước
cùng tồn tại và cạnh tranh trong môi trường pháp lý. Tuy nhiên, xét về góc độ

quản lý, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý thuế, có những đặc điểm riêng của các
doanh nghiệp ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế, thường là những thách
thức nhiều hơn là những thuận lợi.
Thứ nhất là đặc điểm về sở hữu: Đây là đặc điểm khác biệt nhất, đối với
doanh nghiệp NQD toàn bộ vốn, tài sản, lợi nhuận đều thuộc sở hữu tư nhân.
Chủ doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu SXKD chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt
động sản xuất kinh doanh và toàn quyền quyết định phương thức phân phối lợi
nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế mà không chịu sự chi phối nào từ
các quy định của cơ quan Nhà nước hoặc từ cơ quan quản lý, do vậy họ luôn tìm
mọi cách để có thể đạt được lợi nhuận cao nhất, kể cả việc trốn lậu thuế.
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 5 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
Thứ hai là đặc điểm về trình độ văn hoá, trình độ quản lý, chuyên môn
nghiệp vụ: So với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế Nhà nước và kinh
tế đầu tư nước ngoài thì phần lớn những người chủ các doanh nghiệp NQD có
trình độ văn hoá chưa cao, chưa được đào tạo chính quy về các nghiệp vụ quản
lý, trình độ chuyên môn chủ yếu là tự học hoặc theo kinh nghiệm. Vì vậy, nhìn
chung hiệu quả SXKD của các doanh nghiệp NQD còn thấp, số đông các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ có mục đích chính là
mua đi, bán lại để kiếm chênh lệch giá; còn một số lượng nhỏ hoạt động ở lĩnh
vực sản xuất thì trình độ công nghệ thấp, trình độ quản lý không cao, do đó năng
suất lao động và chất lượng hàng hoá đạt được là không cao.
Thứ ba là đặc điểm về ý thức tuân thủ pháp luật: Xuất phát từ trình độ còn
hạn chế nêu trên, cho nên phần lớn các chủ doanh nghiệp có trình độ nhận thức
về pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng là rất thấp, biểu hiện rõ nhất
là số đông các cơ sở kinh doanh không lập và giữ sổ sách kế toán theo quy định.
Thứ tư là đặc điểm về số lượng đối tượng: Số lượng các cơ sở kinh doanh
rất lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh ở tất cả mọi lĩnh vực của nền kinh tế,
nhưng chủ yếu tập trung vào kinh doanh thương mại, dịch vụ, xây dựng, giao

thông… đặc biệt là dịch vụ. Hiện nay ở Việt Nam, thị trường chứng khoán và thị
trường tài chính dang phát triển mạnh do đó các doanh nghiệp NQD cũng bắt
đầu xâm nhập vào thị trường này với sự xuất hiện của các ngân hàng cổ phần tư
nhân ra đời và hoạt động có hiệu quả.
1.1.2. Vị trí, vai trò của DNNQD
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 6 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
Với chủ trương đổi mới nền kinh tế, Đại hội Đảng lần thứ VI(năm 1986)
Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng phát triển kinh tế ở Việt Nam theo hướng kinh
tế thị trường, theo định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại
trong đó có thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Các Đại hội Đảng lần thứ VII và
VIII , đường lối phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN với nhiều
thành phần kinh tế tiếp tục được khẳng định. Các thành phần kinh tế thuộc khu
vực kinh tế NQD bao gồm: kinh tế hợp tác, kinh tế hộ kinh doanh phát triển khá
mạnh. Ngoài ra còn xuất hiện thêm thành phần kinh tế tư bản tư nhân với loại
hình công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân.
Các danh nghiệp NQD có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân,
điều này được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, các doanh nghiệp NQD góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã
hội, đây là một nhân tố quan trọng làm gia tăng GDP của quốc gia. Nó góp phần
thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
Thứ hai, xét trong mối quan hệ với kinh tế quốc dân thì kinh tế NQD là
một thực thể tồn tại vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Nó như là nhân tố xúc tác quan
trọng cho sự phát triển kinh tế nói chung và sự tồn tại, phát triển của kinh tế quốc
doanh nói riêng. Doanh nghiệp NQD với số lượng ngày càng gia tăng đã trở
thành đơn vị dịch vụ trung gian, xử lý tiêu thụ sản phẩm hoặc tham gia vào sản
xuất gia công một phần, môt khâu trong quá trình kinh doanh của các doanh
nghiệp quốc doanh. Các đơn vị kinh tế quốc doanh có điều kiện và lợi thế cạnh
tranh từ đó có điều kiện phát triển đồng thời tác động tương hỗ trở lại vào thành

phần kinh tế NQD cùng phát triển.
Thứ ba, trong việc thực hiện nghĩa vụ với NSNN, khu vực kinh tế NQD
đóng vai trò khá quan trọng. Hiện nay với tổng số khoảng 266.000 doanh nghiệp
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 7 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
NQD, hàng năm kinh tế NQD nộp vào NSNN trên 45.000 tỷ đồng chiếm 19% số
thu trong nước. Hàng hóa của các doanh nghiệp NQD rất phong phú, đa dạng,
luôn thay đổi để đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng.
Thứ tư, doanh nghiệp NQD cũng góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho
người lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp giúp nên kinh tế phát triển ổn đinh. Từ đó
hỗ trợ công tác giữ gìn ổn định trật tự xã hội, đẩy lùi tệ nạn xã hội.
Tóm lại, doanh nghiệp NQD đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, tuy nhiên
cũng cần thấy rằng sự phát triển của các doanh nghiệp này cũng còn có những
hạn chế nhất định, điều này ít nhiều cũng gây ra những khó khăn không nhỏ
trong công tác quản lý thuế Nhà nước nói chung và quản lý thuế nói riêng.
1.1.3. Xu hướng phát triển của DNNQD
Các doanh nghiệp NQD hiện nay phát triển ngày càng nhiều và có xu
hướng tăng cả về chất và lượng. Nếu như năm 1991 cả nước chỉ có 414 doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần thì đến hết năm
2002 đã có gần xấp xỉ 50.000 doanh nghiệp NQD, và đến nay thì con số đó đã
tăng lên rất nhiều lần. Các doanh nghiệp NQD hoạt động trên nhiều lĩnh vực
khác nhau, trải rộng trên địa bàn cả nước. Do vốn ít nên thương có khả năng
thành lập các doanh nghiệp nhỏ và vừa và tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực thương
mại, dịch vụ là lớn nhất trong khu vực kinh tế NQD.
Nét nổi bật của doanh nghiệp NQD trong thời gian gần đây là ngày càng phát
triển về chiều sâu và chiều rông, có xu hướng gia tăng vào lĩnh vực sản xuất sản
phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh tốt và ít thông dụng
lao động. Không chỉ tăng về số lượng và phong phú, đa dạng về ngành nghê,
trong tình hình sản xuất kinh doanh có sự cạnh tranh khốc liệt, để tồn tại và phát

Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 8 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
triển, nhìn chung khả năng đổi mới trang thiết bị và công nghệ trong những năm
qua được các doanh nghiệp NQD chú trọng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
cho sản phẩm.
Tuy nhiên, sự phát triển ồ ạt của các doanh nghiệp NQD cũng đã sớm bộc
lộ ra nhiều khiếm khuyết. Vì vậy việc xây dựng các chính sách, biện pháp quản
lý để giúp doanh nghiệp NQD phát triển là một yêu cầu vô cùng cấp bách, không
nhỏ góp phần tăng thu ngân sách mà còn thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần
đưa hình ảnh Viêt Nam ra thế giới.
1.2. Quản lý thuế GTGT với DNNQD
1.2.1. Khái niệm chung về thuế GTGT
1.2.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế GTGT
 Khái niệm thuế GTGT
-Thuế GTGT là một trong những loại thuế gián thu điều tiết một phần
vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Mọi tổ chức, cá nhân thông
qua việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ thực hiện nghĩa vụ thuế với ngân sách Nhà
nước.
-Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được
nộp vào ngân sách Nhà nước theo mức độ tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ.
 Đặc điểm thuế GTGT
Thuế GTGT ở Việt Nam có những đặc điểm nổi bật sau:
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 9 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
- Thuế GTGT là loại thuế có tính chất gián thu: đối tượng nộp thuế
GTGT là người bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ, còn người chịu thuế là người
tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, bởi vì thuế GTGT ẩn trong giá bán ra của hàng hoá,

dịch vụ. Nói cách khác Nhà nước gián tiếp thu khoản thuế này của người tiêu
dùng thông qua người bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ.
- Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn sản xuất kinh doanh. Đối
tượng điều tiết của thuế GTGT là phần thu nhập của người tiêu dùng sử dụng để
mua hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, về nguyên tắc chỉ cần thu thuế ở khâu bán hàng
hoá và cung cấp dịch vụ là đủ. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó phân biệt đâu là
tiêu dùng cuối cùng, đâu là tiêu dùng trung gian, vì thế cứ có hành vi mua bán
hàng thì phải tính thuế, nếu đó là tiêu dùng trung gian thì số thuế sẽ được tự
động chuyển vào giá bán hàng hoá cho người mua ở giai đoạn sau.
- Thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm phát sinh ở từng giai
đoạn luân chuyển. Tổng số thuế thu được ở các giai đoạn đúng bằng số thuế tính
theo giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Giá trị tăng thêm được hiểu là phần giá trị mới được tạo ra trong sản xuất
kinh doanh.
- Thuế GTGT có tính trung lập cao, diện điều chỉnh rộng. Thuế GTGT
không chịu ảnh hưởng bởi kết quả sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế,
không phải là yếu tố chi phí mà chỉ đơn thuần là một khoản được cộng thêm vào
giá bán của người cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia các
chu trình kinh tế: tổng số thuế ở các giai đoạn khớp với số thuế tính trên giá bán
ở giai đoạn cuối cùng, bất kể số giai đoạn là nhiều hay ít.
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 10 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
- Thuế GTGT có tính lãnh thổ: thể hiện đối tượng chịu thuế là người tiêu
dùng các hàng hoá, dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia.
1.2.1.2 Nội dung cơ bản của thuế GTGT
Luật thuế GTGT được Quốc hội khóa IX kỳ họp thứ 11 thông qua ngày
10/05/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01//1999, thay thế cho thuế doanh
thu trước đây. Kể từ bắt đầu áp dụng cho đến nay đã có nhiều sửa đổi bổ sung

cho phù hợp với tình hình thực tế. Ngày 03/6/2008 Quốc hội khóa XII kỳ họp
thứ 3 đã thông qua Luật thuế GTGT và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009.
Nội dung cơ bản của thuế GTGT hiện hành bao gồm:
1.2.1.2.1. Phạm vi áp dụng
 Đối tượng chịu thuế GTGT:
Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ mua của tổ chức,
cá nhân ở nước ngoài), trừ 25 nhóm hàng hóa,, dịch vụ thuộc đối tượng không
chịu thuế.
 Đối tượng không chịu thuế GTGT:
Nhìn chung, các hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT
thường có một trong các tính chất cơ bản sau đây:
- Là hàng hóa, dịch vụ mang tính chất thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống
sản xuất cộng đồng không đặt vấn đề điều tiết tiêu dùng như dịch vụ y tế; văn
hóa, giáo dục, đào tạo; vận chuyển hành khách công cộng bàng xe buýt, xe
điện
-Là hàng hóa, dịch vụ thuộc các hoạt động được ưu đãi vì mục tiêu xã hội,
nhân đạo, không mang tính chất kinh doanh như hàng nhập khẩu trong các
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 11 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
trường hợp viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; quà tặng từ nước ngoài;
phát sóng truyền thanh, truyền hình theo chương trình, bằng nguồn tiền Ngân
sách Nhà nước cấp
- Các hàng hóa, dịch vụ của một số ngành cần khuyến khích như sản phẩm
trồng trọt, chăn nuôi, thủy hải sản nuôi trồng, đánh bắt chưa qua chế biến thành
các sản phẩm khác hoặc mới sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản
xuất, đánh bắt ra và ở khâu nhập khẩu; sản phẩm muối
- Hàng hóa nhập khẩu thực chất không phục vụ cho sản xuất kinh doanh
và tiêu dùng tại Việt Nam như hàng chuyển khẩu, quá cảnh, mượn đường qua

Việt Nam; hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu; hàng tạm xuất khẩu, tái nhập
khẩu; nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu theo hợp
đồng sản xuất, gia công đã ký với nước ngoài.
- Một số loại hàng hóa, dịch vụ khó xác định giá trị tăng thêm như dịch vụ
tài chính.
 Người nộp thuế GTGT:
Là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh
(gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa, mua dịch vụ
từ nước ngoài chịu thuế GTGT (gọi là người nhập khẩu)
1.2.1.2.2. Căn cứ tính thuế
Thuế GTGT được tính dựa trên hai căn cứ đó là giá tính thuế và thuế suất.
 Giá tính thuế:
Giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT được ghi trên hóa đơn
bán hàng của người bán hàng, người cung cấp dịch vụ hoặc giá chưa có thuế
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 12 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
GTGT được ghi trên chứng từ của hàng hóa nhập khẩu. Đối với những hàng hóa,
dịch vụ thì giá tính thuế bao gồm các khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá
bán hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh được hưởng, trừ các khoản phụ thu
và phí cơ sở kinh doanh phải nộp vào NSNN. Giá tính thuế được xác định bằng
đồng Việt Nam. Trường hợp người nộp thuế có doanh thu bằng ngoại tệ thì phải
quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng do Ngân sách Nhà nước công bố tại thời điểm phát sinh doanh
thu để xác định giá tính thuế.
Giá tính thuế GTGT bao gồm các trường hợp sau:
- Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra la giá
bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB là giá bán
đã có thuế TTĐB nhưng chưa có thuế GTGT.

- Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thuế
nhập khẩu (nếu có), cộng với thuế TTĐB (nếu có).
- Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng
cho là giá tính thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại
thời điểm phát sinh các hoạt động này.
- Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền cho thuê chưa có thuế
GTGT; Trường hợp cho thuê tính theo hình thức trả tiền thuê từng kỳ hoặc trả
trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì giá tính thuế là tiền cho thuê trả từng kỳ
hoặc trả trước cho thời hạn thuê chưa có thuế GTGT; Trường hợp thuê máy móc,
thiết bị, phương tiện vận tải của nước ngoài loại trong nước chưa sản xuất được
để cho thuê lại, giá tính thuế được trừ giá thuê phải trả cho nước ngoài.
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 13 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
- Đối với hàng hóa theo phương thức trả góp, trả chậm là giá tính theo giá
bán trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hóa đó, không bao gồm khoản lãi
trả góp, lãi trả chậm.
- Đối với gia công hàng hóa là giá gia công chưa có thuế GTGT.
- Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt là giá trị công trình hạng mục công
trình hay phần công việc thực hiện bàn giao chưa có thuế GTGT. Trường hợp
xây dựng, lắp đặt không bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị thì giá tính
thuế là giá trị xây dựng, lắp đặt không bao gồm giá trị nguyên vật liệu và máy
móc thiết bị.
- Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản là giá bán bất động sản chưa
có thuế GTGT, trừ giá chuyển quyển sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp
NSNN.
- Đối với hoạt động đại lý, môi giới mua bán hàng hóa và dịch vụ hưởng
hoa hồng là tiền hoa hồng thu được từ các hoạt động này chưa có thuế GTGT.
- Đối với hàng hóa, dịch vụ được sử dụng chứng từ thanh toán ghi giá
thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì giá tính thuế được xác định theo công

thức sau:
 Thuế suất: Mức thuế suất GTGT được quy định tại điều 8, có 3 mức
thuế suất áp dụng là 0%, 5%, 10%.
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 14 -
Giá thanh toán
1 + thuế suất của hàng hóa, dịch vụ (%)
Giá chưa có thuế GTGT =
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
- Mức thuế suất 0%: áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, kể cả
hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT xuất khẩu; trừ các trường
hợp: vận tải quốc tế,hàng hóa dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế;
chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch
vụ bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ
tài chính phát sinh; dịch vu bưu chính, viễn thông; sản phẩm xuất khẩu là tài
nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế biến theo quy định của Chính phủ.
- Mức thuế suất 5%: áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phục vụ
cho sản xuất và tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ cần ưu đãi như nước sạch phục
vụ cho sản xuất và nước sinh hoạt; thuốc chữa bệnh, phòng bệnh, giáo cụ, đồ
dùng giảng dạy, dịch vụ khoa học và công nghệ.
- Mức thuế suất 10%: áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ không thuộc
trường hợp áp dụng thuế suất 0%, 5%.
1.2.1.2.3 Phương pháp tính thuế
Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT được tính theo một trong hai phương
pháp: phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở
phải hạch toán riêng hoạt động kinh doanh này để tính trực tiếp trên GTGT.
 Phương pháp khấu trừ thuế:
- Đối tượng áp dụng: là tất cả các đơn vị tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành

lập theo Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật doanh nghiệp, Luật hợp tác xã, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác.
- Cách tính thuế GTGT phải nộp:
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 15 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
Số thuế GTGT
phải nộp
=
Thuế GTGT
đầu ra
-
Thuế GTGT đầu vào
được khấu trừ.
Trong đó:
+ Số thuế GTGT đầu ra bằng tổng số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra
ghi trên hóa đơn GTGT. Thuế GTGT ghi trên hóa đơn GTGT bằng giá tính thuế
của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân với thuế suất thuế GTGT của hàng
hóa, dịch vụ đó.
Trường hợp sử dụng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT
thì thuế GTGT đầu ra được xác định bằng giá thanh toán trừ giá tính thuế.
Đối với hàng hóa, dịch vụ có tính chất đặc thù dùng các chứng từ như tem
bưu chính, vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết…ghi giá thanh toán là giá đã có
thuế GTGT thì thuế GTGT đầu ra được xác định như sau:
Số thuế GTGT
đầu ra
=
Giá thanh toán(tiền bán vé, tem )
1 + thuế suất của HH, DV đó
-

Thuế suất
thuế GTGT
+ Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn GTGT
mua hàng hóa, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT, số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp
thuế của hàng hóa nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước
ngoài áp dụng cho tác tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam
và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
Nguyên tắc khấu trừ thuế GTGT đầu vào:
+Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ là thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ
dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT. Nếu hàng
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 16 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
hóa, dịch vụ, nguyên nhiên vật liệu mua vào dùng cho sản xuất kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế và không chịu thuế GTGT thì chỉ được khấu
trừ số thuế đầu vào của các yếu tố mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT, số thuế GTGT đầu vào không được
khấu trừ được tính vào chi phí của hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT.
+ Thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất,
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì
được khấu trừ toàn bộ.
+ Thuế GTGT đầu vào phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ
khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay
còn để trong kho.
Điêu kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào: Hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu
được khấu trừ thuế đầu vào phải được cơ quan hải quan xác nhận là hàng đã thực
xuất khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu, phải có hợp đồng bán hàng hóa, gia công
bán hàng, cung ứng dịch vụ cho tổ chức, cá nhân nước ngoài; phải thanh toán
qua ngân hàng.

 Phương pháp trực tiếp trên GTGT:
- Đối tượng áp dụng: cá nhân hộ kinh doanh là người Việt Nam, tổ chức
cá nhân kinh doanh tại Việt Nam không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.
- Xác định số thuế GTGT phải nộp:
Số thuế GTGT phải
nộp
=
GTGT của hàng
hoá,dịch vụ
chịu thuế bán ra
x
Thuế suất thuế GTGT của
hàng hoá, dịch vụ đó.
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 17 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
Trong đó:
GTGT của hàng
hoá, dịch vụ chịu
thuế
=
Giá thanh toán
của hàng hóa,
dịch vụ bán ra
-
Giá thanh toán của hàng
hóa, dịch vụ mua vào
tương ứng
1.2.1.2.4 Quy định về hóa đơn chứng từ

Các cơ sở kinh doanh khi mua, bán hàng hóa, dịch vụ phải thực hiện chế
độ hóa đơn chứng từ tho quy đinh của pháp luật.
- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp
khấu trừ thuế khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT phải sử dụng
hóa đơn GTGT ( trừ trường hợp được dùng hóa đơn, chứng từ đặc thù).
- Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT khi
bán hàng hóa, dịch vụ phải sử dụng hóa đơn bán hàng.
- Cơ sở kinh doanh trực tiếp bán lẻ hàng hóa, cung ứng dịch vụ có giá trị
thấp dưới mức quy định không phải lập hóa đơn, nếu người mua yêu cầu cung
cấp hóa đơn thì phải lập hóa đơn theo quy định trường hợp không lập hóa đơn thì
phải lập bảng kê bán lẻ làm căn cứ tính thuế.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý thuế GTGT đối với DN NQD
Luật thuế GTGT ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong việc cải cách
cơ chế quản lý kinh tế tài chính đặc biệt là chính sách thuế của Nhà nước. Sau
hơn 10 năm thực hiện, luật thuế GTGT đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh
tế của đất nước: khuyến khích đầu tư nước ngoài, mở rộng khuyến khích và phát
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 18 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
triển xuất khẩu thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, tạo nguồn thu ổn định và
ngày càng tăng của NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được trong
quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều vướng mắc làm giảm hiệu ứng tích cực
của thuế GTGT. Các doanh nghiệp đã lợi dụng kẻ hở trong luật thuế để chiếm
đoạt tiền của Nhà nước lên tới con số hàng nghìn tỷ đồng. Công tác quản lý thu
gặp không ít những khó khăn. Vậy những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản
lý thuế GTGT đối với loại hình DN này là:
Thứ nhất là hệ thống chính sách, các văn bản thiếu tính đồng bộ, thống
nhất. Ban hành quá nhiều văn bản thi hành luật nhưng lại chưa sát thực tế, còn
sơ hở, chưa lường hết các phát sinh có thể xảy ra khi thực hiện đã gây khó khăn
cho cán bộ quản lý cũng như các đối tượng nộp thuế.

Thứ hai xuất phát từ thực trạng phát triển kinh tế nước ta, những năm gần
đây đã có những bước tiến đáng kể, nhưng vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu, trình
độ dân trí còn chưa cao, do đó việc tiếp thu các luật thuế mới hạn chế, người dân
chưa có thói quen lấy hóa đơn khi mua hàng trong khi hóa đơn chứng từ là một
trong những điều kiện tiên quyết thực hiện thành công sắc thuế này.
Thứ ba là từ trình độ quản lý thu thuế GTGT của các cán bộ còn thấp thậm
chí có những cán bộ thuế chưa biết đọc quyết toán thuế của doanh nghiệp, chưa
biết tính khấu hao, chưa biết tính tiền lương lỗ, lãi Việc phân bố trình độ của
cán bộ thuế chưa đồng bộ trong cả nước.
Thứ tư là các cơ sở kinh doanh chưa có ý thức chấp hành pháp luật nói
chung và tính tự giác trong kê khai nộp thuế. Họ luôn quan niệm rằng đóng thuế
cho Nhà nước là moi tiền túi ra để nộp, là khoản làm tăng chi phí, giảm lợi
nhuận, do đó họ tìm mọi cách để trốn, tránh thuế kiếm lợi.
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 19 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
Thứ năm xuất phát từ đặc điểm của các DNNQD là quy mô vốn và lao
động nhỏ, kinh doanh mang tính thời vụ, nhỏ lẻ khó kiểm tra đã gây khó khăn
cho các cán bộ thuế trong công tác quản lý thu.
Tóm lại, thuế GTGT chỉ có thể được quản lý một cách chặt chẽ khi các
nhân tố trên được điều chỉnh theo hướng hoàn thiện hơn.
1.3. Ý nghĩa việc quản lý thu thuế GTGT từ các DN NQD
 Xuất phát từ tầm quan trọng của thuế GTGT.
Thuế GTGT cùng với thuế TNDN la hai sắc thuế đang giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân. nhất là trong thời gian này, Việt Nam đã trở thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại Thế giới – WTO cùng với việc cam
kết thực hiện lộ trình cắt giảm hàng rào thuế quan nhằm tạo ra một môi trường
kinh tế thương mại cạnh tranh công bằng hơn. Thuế XNK là sắc thuế chiếm tỉ
trọng lớn trong kế hoạch thu NSNN, việc cắt giảm hàng loạt các mức thuế suất
thuế Nhập khẩu theo lộ trình sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn thu của NSNN. Vì

vậy, để đảm bảo kế hoạc chi tiêu của Chính phủ, các cơ quan thuế phải tăng
cường quản lý sắc thuế này để củng cố thêm nguồn thu cho NSNN.
 Xuất phát từ thực trạng quản lý thuế GTGT hiện nay còn nhiều tồn tại,
bất cập, gây thất thu lớn.
Từ khi ra đời cho đến nay thuế GTGT đã chiếm vị trí quan trọng trong hệ
thống thuế nước ta. Thuế GTGT là loại thuế gián thu, người tiêu dùng là người
chiụ thuế nhưng người bán lại là người nộp thuế Vai trò của nó là điều tiết thu
nhập, đảm bảo công bằng xã hội, tạo nguồn thu cho NSNN. Luật thuế GTGT
mới ra đời thay thế cho thuế doanh thu trước đây. Từ khi áp dụng Luật thuế
GTGT cho đến nay đã đem lại những thành công, tuy nhiên nó cũng sớm bộc lộ
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 20 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
những hạn chế, những khiếm khuyết, những điểm bất cập. Chính điều này vô
hình chung đã tạo cơ hội cho một số doanh nghiệp tìm cách trốn tránh, lách luật
nhằm mưu lợi riêng, gây mất ổn định cho nền kinh tế, mà số đối tượng lợi dụng
những kẽ hở này lại tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp NQD. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, các thủ đoạn trốn tránh thuế của các doanh nghiệp
cũng ngày càng tinh vi, nhiều thủ đoạn hơn.
Mặt khác, chúng ta đều biết một hệ thống thuế có cơ cấu hợp lý, có tính
khả thi cao nhưng quản lý kém sẽ không thể phát huy được hiệu quả. Vì thế các
nhà quản lý thuế có vai trò đặc biệt quan trọng. Cải cách thuế theo hướng hiện
đại hóa công tác quản lý sẽ giảm khối lượng công việc của các nhà quản lý song
thay vào đó các cán bộ thuế cần có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn vững vàng,
có tâm huyết với nghề và phải biết lắng nghe thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của
các ĐTNT và cố gắng hoàn thiện bản thân mình.
 Do đặc thù của các doanh nghiệp NQD “dễ” thành lập và cũng “biến
mất” dễ dàng mà không có sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan hữu quan nên
việc quản lý thu thuế các đối tượng này cũng rất khó khăn, phức tạp. Việc ban
hành luật là điều cần thiết, song việc thi hành luật lại càng quan trọng và khó

khăn hơn. Thực tiễn cho thấy việc chấp hành pháp luật nói chung và luật thuế
nói riêng còn bộc lộ nhiều yếu kém vì nhiều lý doc đặc biệt là ở khu vực kinh tế
NQD, trong khu vực kinh tế này sự thất thu là rất lớn.
Qua đó, có thể nói sự tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với
các doanh nghiệp NQD là hết sức cần thiết để góp phần tăng thu cho NSNN, tạo
ra môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh giữa các thành phần kinh tế,
phát huy vai trò định hướng điều tiết của Nhà nước đối với các doanh nghiệp
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 21 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
này, nâng cao uy tín của Nhà nước trước nhân dân và cuối cùng là làm cho sắc
thuế GTGT phát huy được tác dụng của nó, không chỉ là công cụ đắc lực của
Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế mà còn góp phần thúc đẩy sản xuất phát
triển vững mạnh.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THU THUẾ GIÁ TRỊ
GIA TĂNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC
DOANH TRÊN ĐỊA BÀN TÌNH QUẢNG NINH
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và thực trạng phát triển của các doanh nghiệp
NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là miền đất ở cực Đông Bắc của Tổ quốc trên miền đất khá
dài từ Móng Cái tới Đông Triều theo đường bộ gần 300 km. Địa hình rất phong
phú, trước mặt là biển, sau lưng là núi, xen lẫn những dải đồng bằng, trung du
nhỏ hẹp; dân số trên một triệu người chia thành 14 đơn vị hành chính. Quảng
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 22 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
Ninh nổi tiếng vì vừa có nhiều khoáng sản quý hiếm trong đó có trữ lượng than
lớn có chất lượng, lại có nhiều thắng cảnh như Vịnh Hạ Long đã được UNESCO

công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, Yên Tử, Tuần Châu, Trà Cổ, hình thành
một quần thể du lịch hấp dẫn. Quảng Ninh có hơn 250 km bờ biển, có đường
biên giới giáp Trung Quốc với cửa khẩu quốc tế Móng Cái có lực lượng hàng
hoá xuất, nhập khẩu lớn. Quảng Ninh là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía
bắc gồm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh với tiềm năng thế mạnh về khai thác
tài nguyên khoáng sản, kinh tế biển, du lịch, thương mại. Quảng Ninh có số
lượng đông đảo các doanh, hàng ngàn hộ kinh doanh cố định. Đây là những điều
kiện thuận lợi để đảm bảo tạo nguồn thu ngân sách, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
ngân sách địa phương.
2.1.2. Thực trạng doanh nghiệp NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Năm 2011 Quảng Ninh là tỉnh đứng thứ 5 trong cả nước về thu ngân sách.
Trong những năm gần đây tỉnh luôn có hoạt động sản xuất kinh doanh duy trì ổn
định và đang từng bước phát triển về nhiều mặt kinh tế, xã hội, chính trị. Để đạt
được những kết quả đó phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của các doanh
nghiệp NQD trên địa bàn tỉnh. Đó là do có sự thuận lợi về điều kiện tư nhiên,
kinh tế -xã hội và chính sách có nhiều thay đổi, nhất là đối với loại hình doanh
nghiệp NQD được áp dụng theo luật doanh nghiệp 2005. Nó đã gỡ bỏ nhiều thủ
tục rườm rà, xóa bỏ cơ chế cũ, lạc hậu, thay vào đó là những thủ tục hành chính
đơn giản, tạo động lực phát triển các doanh nghiệp nói chung và các doanh
nghiệp ở tỉnh Quảng Ninh nói riêng phát triển nhanh chóng cả về số lượng và
chất lượng với ngành nghề kinh doanh phong phú và đa dạng bao gồm: sản xuất,
xây dựng, vận tải, dịch vụ thương mại.
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 23 -
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
Bảng 2.1: Số lượng doanh nghiệp NQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Đơn vị: Doanh nghiệp
Qua bảng số liệu ta thấy trong những năm vừa qua ( 2009, 2010, 2011), số
lượng các doanh nghiệp NQD tăng trưởng nhanh và đều đặn ( năm 2010 tăng
1085 doanh nghiệp, năm 2011 tăng 1145 doanh nghiệp). Điều đó chứng tỏ tình

hình phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Ninh khá tốt và ổn định đã thu hút được số
lượng các doanh nghiệp mới thành lập trên địa bàn. Các doanh nghiệp mới hình
thành chủ yếu là công ty cổ phần, công ty TNHH và một số ít là công ty tư nhân
và công ty hợp danh.
Không chỉ phát triển về số lượng, số thuế thu từ khu vực doanh nghiệp
NQD trên địa bàn tỉnh cũng ngày càng tăng đóng góp một phần không nhỏ vào
nguồn thu NSNN nói chung và của tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 24 -
Năm 2009 2010 2011
Tổng Dn quản lý 4746 5831 6976
Luận văn cuối khóa Khoa Thuế- Hải Quan
Trịnh Nhật Huy - Lớp CQ 46/02.02
- 25 -

×