Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

Kinh nghiệm phát triển công nghiệp của singapore. hàn quốc, đài loan, hong kong-bốn con rồng châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.19 KB, 44 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II TP HỒ CHÍ MINH
BÀI TIỂU LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN
KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CỦA SINGAPORE, HÀN QUỐC,
ĐÀI LOAN, HONG KONG – BỐN CON RỒNG CHÂU Á
Lớp: K50CLCD2
Giảng viên hướng dẫn: Phạm Mỹ Duyên
Nhóm 8
1. Bùi Thị Cẩm Nhung 1101017743
2. Trần Thị Phương Quỳnh 1101017778
3. Phạm Hồng Sơn 1101017782
4.Trần Thu Thảo 1101017816
5.Phạm Thị Thuỷ Tiên 1101017925
6.Nguyễn Lê Tiến 1101017839
7. Trương Nguyễn Minh Vy 1101017918
8. Đinh Thị Tường Vy 1101017906
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 2 năm 2014
1
1
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam đang trên đà phát triển hội nhập với nền kinh tế thế giới để trở thành một trong
những thị trường đầu tư hấp dẫn. Tuy nhiên với tình hình kinh tế hiện nay, nước ta gặp
cũng không ít trở ngại và thách thức để đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững. Chính
vì thế Việt Nam không ngừng học hỏi những bài học kinh nghiệm phát triển quí giá của
các nước đi trước, đặc biệt là những con rồng Châu Á.Từ đó giúp ta rút ngắn được thời
gian của quá trình phát triển nhưng mặt khác cũng chứa đựng nhiều rủi ro và nguy cơ của
sự phát triển nóng vội nên việc áp dụng cần phải qua một quá trình nghiên cứu chọn lọc
phù hợp.
Kinh nghiệm phát triển kinh tế từ các nước trên thế giới rất đa dạng và phong phú nhưng
điều quan trọng nhất là ta cần phải lựa chọn những con đường phù hợp, tương đồng với
bối cảnh nền kinh tế Việt Nam. Do đó con đường phát triển kinh tế của những nước công


nghiệp mới châu Á (những con rồng châu Á) chính là sự lựa chọn tốt nhất có thể giúp các
nhà hoạch định chính sách nhiều bài học quý báu vì các nước Singapore, Hàn Quốc, Đài
Loan và Hồng Kông đều có xuất phát điểm giống Việt Nam. Nhưng bằng những chủ
trương, chính sách thích hợp của chính phủ mà các nước này đã đạt được những bước
tiến vượt bậc về kinh tế-xã hội với thời gian công nghiệp hóa đất nước rất ngắn và tốc độ
tăng trưởng kinh tế thần kỳ được cả thể giới công nhận và được coi là bốn con rồng châu
Á.
2
2
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm kiếm và phân tích khả năng áp
dụng của những chính sách kinh tế đã thành công của bốn con rồng châu Á vào
tình hình thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam nhằm góp phần xác định con đường
phát triển kinh tế bền vững lâu dài.
2. Phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng: những kinh nghiệm phát triển kinh tế của bốn “con rồng Châu Á”-
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông.
Do hạn chế về mặt thời gian nên bài tiểu luận chỉ chọn lọc những kinh nghiệm nổi
bật chứ không đi vào tất cả các kinh nghiệm của các nước ở các lĩnh vực khác
nhau.
- Về thời gian: nghiên cứu quá trình và kinh nghiệm phát triển từ năm 1960 đến
nay
3. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên những dẫn chứng thực tế và số liệu cụ thể để đúc kết những bài học cùng
với kinh nghiệm phát triển của bốn “con rồng Châu Á”- Singapore, Hàn Quốc, Đài
Loan và Hồng Kông để áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam.
3
3
DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT Kí hiệu viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
1 CHDCND N/A Cộng hòa dân chủ nhân dân
2 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
3 GNP Gross National Product Tổng sản phẩm quốc gia
4 CPF Central Provident Fund Quỹ Tiết kiệm trung ương
5 R&D Research & Development
Hoạt động nghiên cứu và
phát triển
6 HDB
Housing of Development
Board
Ban phát triển nhà ở
7 ASEAN
Association of
Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
8 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
9 CNH-HĐH N/A
Công nghiệp hóa-hiện đại
hóa
10 CN N/A Công nghiệp
11 CNN N/A Công nghiệp nặng
12 GT Gross tonnage Tổng dung tích
13 NIC Newly Industrialized Country Nước công nghiệp mới
14 MOEA Ministry of Economic Affairs Bộ Kinh tế Đài Loan
15 HSP N/A
Các ngành công nghệ cao
dựa vào đầu tư nội địa là
chính

16 TAITRA
Taiwan Trade Center
Trung tâm thương mại Đài
Loan
17 NIE
Newly industrialized
Economics
Nền kinh tế công nghiệp mới
18 CNTT N/A Công nghệ thông tin
19 KHCN N/A Khoa học công nghệ
DANH MỤC VIẾT TẮT
4
4
I GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHỮNG CON RỒNG CHÂU Á
Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong – những con rồng châu Á
1
Hong Kong, Singapore, Đài Loan và Hàn Quốc được World Bank đặt cho cái tên là các
nền kinh tế công nghiệp mới châu Á (Newly Industrialized Asian Economics) – do phát
triển công nghệ mạnh vào những năm 1960 – 1990, nó còn có cái tên là “Bốn con rồng
châu Á” (4 Asian Dragons). Nguyên nhân có “bốn con rồng Châu Á” là bởi vì những đất
nước này có những tiến bộ nhanh chóng và có thể gọi là thần kỳ trong việc phát
triển kinh tế. Các chỉ tiêu để đánh giá và xét các nước trở thành “con rồng châu Á” gồm:
+ Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm tăng cao (trung bình 7%/ năm)
+ GDP bình quân trên đầu người cao.
+ Có nền kinh tế mở
+ Là trung tâm tài chính lớn của thế giới
+ Sản xuất công nghệ lớn nhất thế giới…
Cụ thể như:
- Đối với Singapore, sau ba thập kỷ xây dựng và phát triển kinh tế Singapore đã bước vào
hàng ngũ các “nước công nghiệp mới” (NIC) trên thế giới, trở thành “con Rồng” nổi trội

nhất trong 4 “con Rồng”. Trong vòng 25 năm (1966-1991), tổng sản phẩm quốc dân tăng
gấp 8,9%, năm 1994 mức tăng trưởng đạt 10,2%, thu nhập bình quân tính theo đầu người
là 18.025 USD; chú trọng đến phúc lợi xã hội, công tác giáo dục, y tế.
1 />singapore-han-quoc-dai-loan.10037/
5
5
- Đối với Đài Loan, Những năm 50 của thế kỉ XX: kinh tế - xã hội đạt được một số thành
tự bước đầu, song nói chung còn khó khăn: vật giá chưa ổn định, tỉ lệ thất nghiệp cao,
phụ thuộc vào Mỹ; những năm 60: Đài Loan đã tiến hành cải cách kinh tế, chính trị, xã
hội, kêu gọi đầu tư, xây dựng chiến lược kinh tế “hướng về xuất khẩu”. Kết quả: Trong
vòng 3 thập niên, Đài Loan được coi là một trong những “con rồng” Đông Á. Tăng
trưởng kinh tế đạt 8,5% năm.
- Đối với Hàn Quốc, năm 1962, Hàn Quốc tìm cách vượt qua nhiều trở ngại thử thách để
phát triển đất nước. Kinh tế - Xã hội có sự thay đổi từ thập niên 60 của thế kỉ XX : Tỉ lệ
tăng trưởng hàng năm 8%; từ năm 1962 đến năm 1991, Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
tăng 130 lần CHDCND Triều Tiên); cơ cấu kinh tế thay đổi : Tỉ trọng nông nghiệp trong
tổng sản phẩm quốc dân giảm từ 36,6 % xuống 5% GNP), công nghiệp tăng (24,1 % lên
50%).
- Đối với Hong Kong, Hồng Kông có nền kinh tế quốc tế hóa cao độ, môi trường kinh
doanh thuận lợi, thể chế pháp luật kiện toàn, thị trường tự do cạnh tranh, có hệ thống
mạng lưới tiền tệ, tài chính, chứng khoán rộng khắp, cơ sở hạ tầng tốt, hệ thống giao
thông, dịch vụ hoàn chỉnh. “Báo cáo tình hình đầu tư của thế giới năm 2004” của Hội
nghị Phát triển và Mậu dịch Liên hợp quốc xem Hồng Kông là hệ thống kinh tế tốt nhất
thứ hai của châu Á về thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài; tăng trưởng GDP: Mức
tăng GDP năm 2005 là 7,3%, đạt 172,6 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người năm
2005 ước tính 32.900 USD, đứng thứ hai ở châu Á, sau Nhật Bản.
6
6
II NHỮNG KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CỦA
SINGAPORE, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN, HONG KONG

1. Singapore
1.1. Khái quát
Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài.
Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác hẹp,
chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, nông nghiệp không phát triển, hàng năm
phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á
và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế
biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn
nhất là Khu công nghiệp Jurong. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính
điện tử và hàng bán dẫn.
Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Nền kinh
tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân).
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành một thành phố
hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lưới mới trong nền kinh tế toàn cầu và châu Á
và một nền kinh tế đa dạng nhạy cảm kinh doanh.
2
1.2. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp của Singapore
2 />ba
7
7
1.2.1. Tạo lợi thế hội nhập và phát triển trên trường quốc tế thông qua quyết định
chọn Tiếng Anh là quốc ngữ
3

Chọn tiếng Anh là quốc ngữ, cùng với tiếng Hoa là chiến lược của quốc gia. Cựu thủ
tướng Singapore Lý Quang Diệu đã từng nói “Nắm vững tiếng Anh, đó là chìa khóa để
giành lấy tri thức, công nghệ cao của phương Tây”. Song song với tình thần “Thoát Á

nhập Âu” là thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nền văn hóa tiểu nông, cổ hủ lạc hậu, nặng về
hình thức bên ngoài của các nước châu Á mà Trung Quốc là điển hình, để học theo nền
văn minh phương Tây và hội nhập vào thế giới bên ngoài. Mặc dù người Anh từng đô hộ
Singapore nhưng các nhà lãnh đạo thời ấy và điển hình là Lý Quang Diệu vẫn luôn đứng
ở khía cạnh khách quan để nhìn nhận đâu là điều kiện tốt mà “quân thù” . Chính vì vậy,
thay vì xóa bỏ tất cả khi giành độc lập, ông giữ lại bộ máy hành chính mà người Anh xây
dựng lên ở Singapore trong hơn 100 năm. Ông Lý Quang Diệu cho tiếp thu tất cả nền
hành chính tiên tiến đó. Tất cả những suy nghĩ khách quan và đúng đắn ấy đã kiến tạo
một Singapore thật sự thành công.
1.2.2. Thực hành tiết kiệm
Tỉ lệ tiết kiệm rất cao là một đặc trưng riêng biệt nữa trong chiến lược phát triển của
Singapore. Quỹ Tiết kiệm trung ương (CPF), một chương trình tiết kiệm bắt buộc được
quản lí công khai, lần đầu tiên được thành lập vào năm 1955 - một thể chế tích cực dưới
thời kì thuộc địa. Hơn thế nữa, quỹ CPF hoạt động dựa trên cơ sở được tài trợ toàn phần.
Sau khi nghỉ hưu, người dân Singapore được hưởng lợi miễn thuế dựa trên những đóng
góp trong quá khứ cộng với lãi suất
Tỉ lệ lãi suất được tính theo tỉ lệ tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi cố định của các ngân hàng
lớn, được bảo đảm sẽ trả ít nhất 2.5% mỗi năm. Những khoản đóng góp trước thuế bắt
buộc cho CPF do cả các công ty và người làm thuê cùng thực hiện. Tỉ lệ ban đầu được
3 />8
8
đặt ra là 5% cho mỗi bên, đến năm 1985 tỉ lệ đóng góp kết hợp đã tăng lên 50%, được thể
hiện trong bảng 3.1. Tỉ lệ hiện tại được cố định ở mức 33%, vì mức đóng góp của các
công ty được giảm xuống chỉ còn 13% vào năm 2003 để thúc đẩy nền kinh tế.
Hầu như toàn bộ lực lượng lao động của Singapore là thành viên của quỹ này. Cho dù
mục tiêu ban đầu là phục vụ các kế hoạch hưu trí, quỹ này đã phát triển thành công sang
các chương trình cho vay khác. Người Singapore có thể sử dụng tài khoản tiết kiệm của
họ để mua các căn hộ thuộc Ban Phát Triển Nhà Ở (HDB).
Sau năm 1981, Kế Hoạch Sở Hữu Nhà Ở đã cho phép đầu tư vào lĩnh vực sở hữu nhà ở.
Giáo dục đại học cũng là một lí do hợp pháp khi đi vay. Cuối cùng, quỹ này còn cấp vốn

cho các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và bảo hiểm. Trong khi đầu tư vào tài khoản hưu trí
của quỹ này là cần thiết, công nhân cũng có thể gửi thêm tiền cho giáo dục, sức khoẻ và
nhà ở. 35% số tiền gửi có thể dùng để đầu tư cổ phiếu trên Thị trường chứng khoán
Singapore - khoản thu từ nguồn này không bị kiểm soát.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng người Singapore thực ra tiết kiệm nhiều hơn yêu cầu.
Điều này đồng nghĩa với việc, tổng tiết kiệm trong nước trong các năm 1990 đã vượt quá
50% và vẫn duy trì mức 45% trong năm 2004. Với mức tiết kiệm cao như vậy, Lý Quang
Diệu đã bắt đầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Singapore. Thêm vào đó, vụ đầu tư trị giá
23 tỉ đôla Mỹ này sẽ mở ra cơ hội phát triển vô hạn cho ngành hoá dầu và chế tạo. Qua 3
thập kỷ, nhà nước đã chi tiêu hào phóng cho việc giải phóng đường biển và xây dựng các
đường cao tốc hiện đại, sân bay tốt nhất thế giới Changi, bệnh viện, trường đại học,
những đường hàng không cũng như cơ sở hạ tầng cho ngành viễn thông cáp quang hiện
đại. Ngày nay, thành phố từng là một làng ô nhiễm đã trở thành một trong những thành
phố sạch và hiện đại nhất thế giới.
9
9
1.2.3. Bí quyết thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển các ngành công nghiệp
chủ đạo
4
Việc tiết kiệm thành công và đầu tư vào nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng cũng nhằm mục
đích thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi nhiều nước ASEAN có thế mạnh về tài
nguyên và con người… nhưng vẫn luẩn quẩn trong vòng thu nhập trung bình, thì
Singapore lại có những bước phát triển thần kỳ, dù khi mới trở thành một nhà nước tự
chủ năm 1959, nước này có xuất phát điểm thấp, với nguồn tài nguyên gần như ở con số
0. Năm 2012, Theo Cục Thống kê Singapore, GDP bình quân đầu người của nước này
đạt 65.048 đô la Singapore. Có được điều này một phần quan trọng là nhờ vào nguồn vốn
FDI quy mô lớn, liên tục chảy vào quốc đảo ngay cả trong những năm gần đây kinh tế thế
giới rơi vào khủng hoảng.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu xảy ra vào năm 2008, nhưng nguồn vốn
FDI vào Singapore vẫn tăng lên (từ 24.006,1 triệu USD năm 2009 lên 63.997,2 triệu

USD năm 2011). Mặc dù, năm 2012, nguồn vốn FDI tuy có sụt giảm so với năm 2011,
song con số 56.700 triệu USD vẫn khá cao và đứng đầu khối ASEAN. Điều gì đã giúp
Singapore thực hiện hiệu quả chính sách thu hút FDI và khiến nhiều doanh nghiệp lựa
chọn đây là điểm đến hấp dẫn để họ đầu tư, kinh doanh thu lợi nhuận. Nhìn lại những
chính sách mà Singapore đã thực hiện để thu hút FDI, có thể rút ra một số bí quyết sau:
+ Thứ nhất, Singapore đã xác định rõ việc thu hút nguồn vốn FDI tập trung vào ba
lĩnh vực cần ưu tiên là: ngành sản xuất mới, xây dựng và xuất khẩu. Bên cạnh đó, tùy
từng điều kiện cụ thể của mỗi thời kỳ, Singapore chủ trương thu hút FDI vào các ngành
thích hợp. Ban đầu, do cơ sở kinh tế ở điểm xuất phát thấp, Singapore chủ trương sử
dụng FDI vào các ngành tạo ra sản phẩm xuất khẩu, như: dệt may, lắp ráp các thiết bị
điện và phương tiện giao thông… Cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp
điện tử và một số công nghệ tiên tiến khác, hướng sử dụng nguồn vốn đầu tư tập trung
4 />nghiem-cho-Viet-Nam/30768.tctc
10
10
vào những ngành, như: sản xuất máy vi tính, điện tử, hàng bán dân dụng, công nghiệp lọc
dầu và kỹ thuật khai thác mỏ…Như vậy, tùy theo giai đoạn và mức độ phù hợp, đất nước
Sư Tử đã nắm bắt tốt xu hướng và phát triển mạnh đều ở các ngành công nghiệp, đặc biệt
gần đây là công nghiệp hóa dầu và năng lượng.
+ Thứ hai, Chính phủ Singapore đã tạo nên một môi trường kinh doanh ổn định, hấp
dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ đã công khai khẳng định, không quốc
hữu hoá các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, Singapore cũng rất chú trọng xây
dựng kết cấu hạ tầng, phục vụ cho hoạt động sản xuất. Thủ tục cấp giấy phép đơn giản,
thuận tiện, có những dự án xin cấp giấy phép rồi đi vào sản xuất chỉ trong vòng vài tháng,
có những dự án chỉ trong vòng 49 ngày đã có thể đi vào sản xuất. Hiện tượng này được
gọi là “kỳ tích 49 ngày” ở Singapore.
Đặc biệt, Singapore đã xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn thiện, nghiêm minh,
công bằng và hiệu quả. Tệ nạn tham nhũng được xét xử rất nghiêm, tất cả các doanh
nghiệp không kể trong nước, ngoài nước đều được đối xử như nhau, mọi người đều làm
việc, tuân thủ theo pháp luật. Bên cạnh đó, Nhà nước trả lương rất cao cho viên chức.

Hàng tháng họ phải trích lại một phần lương coi như là một khoản tiền tiết kiệm khi về
hưu, nếu trong quá trình công tác mà phạm tội tham ô thì sẽ bị cắt khoản tích lũy này và
cách chức. Họ không những mất số tiền do mình tích cóp nhiều năm, mà có thể phải chịu
hình phạt tù. Nhiều người gọi đây là quỹ dưỡng liêm cho quan chức.
+ Thứ ba, Chính phủ Singapore đã ban hành những chính sách khuyến khích các
nhà tư bản nước ngoài bỏ vốn vào đầu tư. Singapore áp dụng chính sách ưu đãi rất đặc
biệt, đó là: Khi kinh doanh có lợi nhuận, nhà đầu tư nước ngoài được tự do chuyển lợi
nhuận về nước; Nhà đầu tư có quyền cư trú nhập cảnh (đặc quyền về nhập cảnh và nhập
quốc tịch); Nhà đầu tư nào có số vốn ký thác tại Singapore từ 250.000 Đô la Singapore
trở lên và có dự án đầu tư thì gia đình họ được hưởng quyền công dân Singapore.
11
11
1.2.4. Kinh nghiệm cụ thể về phát triển ngành hóa dầu và năng lượng
5
+ Hạn chế về tài nguyên, cũng không có một giọt dầu nào, nền tảng năng lượng của
Singapore được coi là cực kỳ phụ thuộc và “dễ bị tổn thương”, nhưng bằng những chính
sách đột phá, có tầm nhìn, ngày nay đất nước nhỏ bé này đã trở thành trung tâm lọc hóa
dầu hàng đầu của châu Á, một quốc gia có thị trường điện lực cạnh tranh nhất, các nguồn
năng lượng đa dạng nhất, hình mẫu về sự bền vững và an ninh năng lượng.
+ Ngành công nghiệp dầu đã là một phần không thể thiếu của nền kinh tế của Singapore,
kể từ khi hoạt động kinh doanh xăng dầu bắt đầu vào năm 1891. Trong những năm qua,
dầu đã là chất xúc tác mà các nhà máy lọc cung cấp , do đó duy trì khả năng cạnh tranh
của ngành công nghiệp hóa chất. Ngày nay, Singapore là trung tâm dầu không thể tranh
cãi ở châu Á và là một trong ba trung tâm lọc dầu xuất khẩu hàng đầu thế giới. Tiếp đến,
Singapore đang tích cực tìm kiếm cơ hội trong việc thúc đẩy tăng trưởng bền vững cho
ngành công nghiệp năng lượng . Tập trung đã được khởi động sản xuất dầu diesel sinh
học và phát triển công nghệ thế hệ tiếp theo trong việc khai thác năng lượng tái tạo. Tận
dụng thế mạnh của mình trong ngành hóa dầu, Singapore cũng tận dụng vị trí nền tảng ở
châu Á để khám phá những xu hướng năng lượng mới nổi. Lợi thế địa lý của nó, cùng
với lợi thế cạnh tranh khác bao gồm một cơ sở hạ tầng lưu trữ cao và sự hiện diện của các

tổ chức tài chính hạng nhất, là những phẩm chất quan trọng để củng cố vị trí dẫn đầu của
Singapore ngành lọc dầu, kinh doanh và dịch vụ hậu cần. Trong tháng 11 năm 2007,
Chính phủ Singapore đưa ra các chính sách năng lượng quốc gia báo cáo. Có tiêu đề
"Năng lượng cho tăng trưởng", báo cáo đưa ra một khuôn khổ chính sách năng lượng
quốc gia toàn diện, cân bằng giữa các mục tiêu chính sách bốn cạnh tranh kinh tế, an ninh
năng lượng, môi trường bền vững, và phát triển ngành công nghiệp.
5 />luong/239043.vnp
12
12
+ Thông qua việc nhận thức đầy đủ về năng lực của mình cũng như phân tích thấu đáo
các điều kiện khách quan, xu thế của bức tranh năng lượng toàn cầu trong tương lai, các
chiến lược gia Singapore đã đề ra 6 chiến lược năng lượng của mình gồm: Một là,
thúc đẩy cạnh tranh bằng chính sách tự do hóa thị trường năng lượng. Hai là, đa
dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng với các chính sách khuyến khích đầu tư linh
hoạt. Ba là, cải thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng. Bốn là, xây dựng nền
công nghiệp năng lượng và đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu phát triển. Năm là, đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về năng lượng và cuối cùng là chiến lược về việc đổi mới
phương pháp tiếp cận toàn bộ các vấn đề năng lượng của cơ quan hoạch định chính
sách – Chính phủ Singapore.
+ Sự phức tạp và tầm quan trọng của chiến lược phát triển năng lượng đòi hỏi một
phương pháp tiếp cận mới và toàn diện cả về định hướng, chính sách, quy hoạch, điều
phối năng lượng. Singapore coi việc cạnh tranh về giá và nguồn cung cấp năng lượng
đáng tin cậy là 2 điểm quan trọng nhất với nền kinh tế của mình. Ngoại trừ điện hạt nhân,
Singapore không đặt ra ưu tiên phát triển với khuôn dạng nào về nguồn cung. Thủy điện,
địa nhiệt, phong điện, nhiệt điện, điện khí hay điện mặt trời, khi công nghệ được cải
thiện, nguồn năng lượng là không khả thi cho Singapore
ngày hôm nay có thể trở thành lựa chọn khả thi trong tương lai. Như vậy, công nghiệp
năng lượng của Singapore.
6
+ Có thể nhìn thấy sự rõ ràng cặn kẽ trong chính sách phát triển và sự ưu tiên đặc biệt cho

ngành công nghiệp năng lượng ở Singapore vì họ nhận thấy năng lượng là mạch máu
không thể thiếu của sự phát triển công nghiệp. Trong khi thiếu hụt tài nguyên và cụ thể là
dầu mỏ, đất nước nhỏ bé này vẫn khắc phục được điểm yếu để phát triển công nghiệp
bằng cách chọn con đường chế biến dầu thô và tìm kiếm những nguồn năng lượng mới
cung cấp cho sản xuất công nghiệp.
6 />13
13
1.2.5. Chính sách chiêu mộ nhân tài rõ ràng và bài bản
Singapore được đánh giá là quốc gia có chính sách thu hút nhân tài nước ngoài bài bản
nhất thế giới. Trong suốt những năm qua, thu hút nhân tài, đặc biệt là nhân tài nước ngoài
đã trở thành chiến lược ưu tiên hàng đầu của Singapore.
Singapore chào đón tất cả những ai có thể đóng góp phần mình vào công cuộc phát triển
kinh tế của đất nước. Năm 1998, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Singapore
thành lập hẳn Ủy ban Tuyển dụng Tài năng Singapore. Trong 5 năm qua, Singapore đã
thu hút được một bản danh sách ấn tượng những nhà khoa học lỗi lạc của thế giới.
Có một điểm cần nói khi bàn về Singapore là chính sách nhân tài nước ngoài của nước
này có nhiều điểm khá giống Mỹ. Cả hai nước đều đặt ra mục tiêu thu hút nhân tài trước,
sau đó tiến hành phân công công việc cụ thể.
Đặc biệt, sự chào đón này không loại trừ các vị trí trong bộ máy Nhà Nước.Chính sách và
đường lối táo bạo như vậy đã dẫn đến sự thay đổi mang tính đột phá trong con số thống
kê nhân khẩu học. Trong số 4,5 triệu lao động Singapore có tới 25% là người nước
ngoài. Giống như Trung Quốc và Mỹ, Chính phủ Singapore tuyển chọn nhân tài dựa trên
năng lực, khả năng đóng góp vào sự phát triển của đất nước này chứ không phân biệt
quốc tịch, chủng tộc của người nhập cư.
Những ai đã chọn Singapore sẽ rất mực hài lòng với mức lương mà đất nước này ưu đãi
cho họ, thực sự công bằng và tương xứng với công sức họ bỏ ra. Thực chất, trả lương cao
là biện pháp không chỉ có một mình Singapore áp dụng. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở chỗ,
Singapore có hẳn một chính sách rõ ràng để thực hiện điều này. Các Bộ trưởng Singapore
có mức lương cao hơn tất cả các Bộ trưởng ở những quốc gia giàu có nhất hành tinh. Tạo
ra sự yên tâm cho lãnh đạo, một phần chính sách này muốn hạn chế nạn tham nhũng,

minh bạch hóa chính phủ, đồng thời tạo đà cho các Bộ trưởng dành hết tâm sức cho
công việc quản lý hoạch định chính sách. Ở Mỹ, lương của Tổng thống là 400.000
USD. Ở Anh, lương của Thủ tướng là 368.655 USD, lương của các Bộ trưởng
14
14
trong khoảng 196.000-268.000 USD. Trong khi đó, lương của Thủ tướng Lý Hiển
Long là 2,05 triệu USD/năm. Hiện tại, mức lương của Thủ tướng và các Bộ trưởng vẫn
có khả năng tăng cao hơn con số 1,26 triệu USD.
Singapore có đội ngũ lao động cấp cao hàng đầu thế giới. Sở dĩ nói như vậy vì những
người này tạo ra năng suất vô cùng lớn, thành thạo về chuyên môn, kĩ thuật và có thái độ
làm việc tích cực. Nhưng để có được điều này, Singapore đã phải liên tục đầu tư vào việc
đào tạo cả một thế hệ thông qua con đường giáo dục. Singapore cũng xác định giáo dục
là một kênh hữu hiệu thu hút du học sinh nước ngoài. Chính vì vậy, ngoài cải tiến
hệ thống giáo dục, Singapore cũng có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho các giáo sư, tiến
sĩ. Hiện tại, du học sinh đến Singapore là rất lớn và nước này cũng là một trong
những trung tâm đào tạo uy tín của thế giới. Có thể kể đến các trường đại học danh tiếng
như Công nghệ Nanyang (NTU), Học viện phát triển quản lý Singapore (MDIS), Đại học
Quốc gia Singapore (NUS) Không phải ngẫn nhiên tạp chí Foreign Policy xếp
Singapore là quốc gia toàn cầu hóa nhất trên thế giới. Với một chính sách bài bản và
đúng đắn như vậy, Singapore xứng đáng với tên gọi "Trung tâm thu hút nhân tài" của thế
giới.
2. Hàn Quốc
2.1. Quá trình phát triển công nghiệp của Hàn Quốc
Từ năm 1945-1960, đất nước vừa giải phóng và đang trong giai đoạn tích lũy tiềm năng
cho công nghiệp hóa. Chính sách công nghiệp trong thời kỳ này chủ yếu dựa vào viện trợ
nước ngoài để phát triển ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
Thời kỳ 1961-1979, Hàn Quốc bước vào công nghiệp hóa ở giai đoạn đầu, chủ trương
phát triển công nghiệp sử dụng nhiều lao động, chi phí thấp, dần dần thay thế cho những
sản phẩm công nghiệp thô và sơ cấp, tiến tới phát triển công nghiệp nặng và hóa chất, sử
dụng nhiều vốn, lao động tay nghề cao và công nghệ cao.

Từ năm 1980 đến nay là thời kỳ công nghiệp hóa ở Hàn Quốc đã đạt đến độ chín muồi.
15
15
Với những chính sách đó của mình, đến cuối những năm 1980, Hàn Quốc chính thức trở
thành một quốc gia công nghiệp mới ở châu Á với 94,8% xuất khẩu thuộc về hàng chế
tạo. Kể từ đầu những năm 1990, chính phủ đã dành nhiều nỗ lực cho việc phát triển khoa
học công nghệ, đặc biệt coi trọng vai trò của khoa học kỹ thuật trong phát triển khoa học
công nghệ, ứng dụng vào các ngành công nghiệp,
Nhu vậy, từ một nước nghèo đói với thu nhập bình quân đầu người 60 USD/năm vào
năm 1948, Hàn Quốc đã vươn lên trở thành quốc gia có nền kinh tế đứng thứ ba châu Á
và thứ 13 trên thế giới với thu nhập bình quân đầu người hơn 20.000 USD/năm. Với
chính sách công nghiệp toàn diện của mình, chỉ sau vài ba thập kỷ, Hàn Quốc đã trở
thành một quốc gia có nền công nghiệp phát triển vào loại bậc nhất khu vực. Cụ thể kinh
tế Hàn Quốc là nền kinh tế phát triển, đứng thứ ba ở châu Á và đứng thứ 10 trên thế giới
theo GDP năm 2006. Sau Chiến tranh Triều Tiên, kinh tế Hàn Quốc đã phát triển nhanh
chóng, từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những nước
giàu nhất. Cuối thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. GDP (PPP) bình quân đầu người của đất
nước đã nhẩy vọt từ 100 USD vào năm 1963 lên mức kỉ lục 10.000 USD vào năm 1995
và 25.000 USD vào năm 2007; Hàn Quốc cũng là một nước phát triển có sự tăng trưởng
kinh tế nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 5% mỗi năm; theo một phân
tích gần đây nhất bởi Goldman Sachs năm 2007 đã chỉ ra Hàn Quốc sẽ trở thành nước
giàu thứ 3 trên thế giới vào năm 2025 với GDP bình quân đầu người là 52.000 USD và
tiếp 25 năm sau nữa sẽ vượt qua tất cả các nước ngoại trừ Hoa Kỳ để trở thành nước giàu
thứ hai trên thế giới, với GDP bình quân đầu người là 81.000 USD.
2.2. Kinh nghiệm phát triển Công nghiệp của Hàn Quốc
2.2.1. Hình thức công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) áp dụng ở Hàn Quốc
Xét từ quá trình phát triển công nghiệp của Hàn Quốc, chúng ta có thể thấy được rằng
trong từng thời điểm, thì chính sách để CNH-HĐH áp dụng cho Hàn Quốc là khác nhau,
cụ thể:

16
16
+ Từ năm 1945-1960, để hỗ trợ cho công nghiệp phát triển, thời kỳ này Hàn Quốc áp
dụng các chính sách: Tư bản hóa nền kinh tế, phát triển thương mại, thực hiện chính
sách lãi suất cao, mở cửa nền kinh tế với nước ngoài, phát triển kinh tế thị trường, ổn
định giá cả và nhập khẩu công nghệ từ bên ngoài.
+ Thời kỳ 1961-1979, đặc điểm chủ yếu của chính sách công nghiệp của Chính phủ
Hàn Quốc trong giai đoạn này là phát triển công nghiệp chủ yếu dùa vào vốn vay
nước ngoài và thúc đẩy xuất khẩu; có sự tham gia điều tiết rất mạnh của chính phủ, và
dùa vào lạm phát để phát triển công nghiệp. Nói riêng về vấn đề lạm phát, Hàn Quốc
đã rất thành công trong việc sử dụng lạm phát như một công cụ để kích thích phát
triển công nghiệp, đồng thời đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
+ Từ năm 1980 đến nay, chính sách phát triển công nghiệp lúc này là dựa vào những
sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao và có tri thức để thay thế những sản
phẩm cần nhiều vốn. Để thích ứng với sự thay đổi môi trường kinh tế trong và ngoài
nước và đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra về phát triển công nghiệp có hàm
lượng cao, chính sách công nghiệp của Hàn Quốc tập trung giải quyết một số vấn đề
cơ bản như: kích thích tăng năng suất lao động, đẩy mạnh tích lũy công nghệ và nâng
cao chất lượng (các ngành công nghiệp tiên tiến như sản xuất hàng bán dẫn và động cơ
được chú trọng phát triển, nâng cao năng suất lao động, công nghệ đầu tư R&D);
mở rộng thị trường đối với các thành phần kinh tế và doanh nghiệp (Chính phủ đã lập
một ban điều hành tự do hóa nhập khẩu, giảm độc quyền, thúc đẩy cạnh tranh trong
tất cả các ngành công nghiệp, khuyến khích sự phát triển của các Chaebol thông qua
các chính sách tín dụng), khuyến khích đầu tư nước ngoài để thu hút vốn và công
nghệ trong nhiều ngành công nghiệp.
2.2.2. Kinh nghiệm trong chiến lược CNH của Hàn Quốc giai đoạn 1980-1990
Hạn chế nhập khẩu: Hàn Quốc chỉ cho phép nhập khẩu những sản phẩm nếu sản xuất
trong nước không mang lại hiệu quả kinh tế cao do không đủ sức cạch tranh trên thị
trường thế giới hoặc là những sản phẩm thật sự cần thiết cho yêu cầu phát triển kinh tế
17

17
đất nước và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân của nhân dân mà trong nước chưa sản xuất
được, hoặc sản xuất được nhưng với chi phí cao hơn từ bên ngoài
Khắc phục tình trạng xuất khẩu một cách thuần tuý: Trường hợp đối với mặt hàng mà các
hãng trong nước có đủ khả năng đáp ứng với chi phi thấp hơn so với nhập về bên ngoài
thì Chính phủ cương quyết đóng cửa biên giới để bảo vệ thị trường nội địa nhằm khắc
phục được những nhược điểm của quá trình CNH trong việc xuất khẩu nguyên nhiên vật
liệu không có nhu cầu cao cũng như giá thấp và tỉ lệ tăng giá ít hơn so với các mặt hàng
chế tạo và hơn nữa, sự phát triển của các ngành công nghiệp xuất khẩu lại phụ thuộc quá
lớn vào vốn và công nghệ nước ngoài và phụ thuộc vào sự biến động của thị trường quốc
tế.
Qua phân tích trên, chúng ta có thể gọi là chiến lược trên của Hàn Quốc là chiến lược hỗn
hợp trong đó kết hợp một cách khéo léo CNH hướng nội và hướng ngoại
2.2.3. Kinh nghiệm phát triển công nghiệp bằng hình thức Cheabol
7
Hàn Quốc đã cải tạo tình trạng nghèo nàn của đất nước sau cuộc binh biến năm 1961
bằng một công cuộc công nghiệp hóa thần tốc thông qua việc khuyến khích và hỗ trợ các
doanh nghiệp lớn có sẵn – các Chaebol- là một mô hình khác của tập đoàn thuộc sở hữu
và điều hành bởi một gia đình tại Hàn Quốc. Các Chaebol của Hàn Quốc thường mang
hình thức của một công ty mẹ, và có nhiều công ty con hoạt động để đáp ứng yêu cầu vật
tư và dịch vụ của công ty mẹ.
Thành tựu: Chính nhờ những chính sách ưu đãi này, các Chaebol nhanh chóng phát triển
thành các tập đoàn tầm cỡ thế giới. Cuối thập niên 1980, chaebol đã chế ngự lĩnh vực
công nghiệp và đặc biệt nổi tiếng về sản xuất, thương mại và các ngành công nghiệp
nặng: sản xuất thép, đóng tàu ô tô. Cụ thể:
+ Chỉ tính riêng năm 2003, tổng kim ngạch xuất khẩu của 4 chaebol Daewoo,
Hyundai, LG và SK đã lên đến 111,7 tỷ USD, tương đương 58% tổng giá trị xuất
khẩu của Hàn Quốc, chiếm 1/3 tổng giá trị tư bản của thị trường.
7
18

18
+ Đến năm 2008, nhóm 30 chaebol lớn nhất đang kiểm soát gần 40% nền kinh tế đất
nước. Riêng Samsung chiếm tới 1/5 xuất khẩu của nước này. Ba chaebol lớn nhất
(năm 2008) là Samsung, Hyundai và Daewoo, LG. Daewoo chiếm tới 84%GDP và
60% giá trị xuất khẩu của Hàn Quốc.
Kinh nghiệm:
- Ưu đãi các Chaebol: Chaebol cũng thường thuộc sở hữu và do đó đặt dưới quyền
quản lý của một gia đình là Chính phủ đưa ra kế hoạch phát triển công nghiệp,
chaebol thực hiện các kế hoạch này. Để các chaebol yên tâm thực thi nhiệm vụ,
chính phủ chủ động cho các chaebol vay với lãi suất rất thấp thông qua các ngân
hàng nhà nước và các chương trình tín dụng ưu đãi như:
+ Các ngân hàng quốc doanh còn được lệnh phải bảo lãnh nợ nước ngoài cho các
chaebol, để họ có thể vừa thoải mái tiếp cận nguồn tín dụng trong nước
+ “Vô tư” đi vay nợ nước ngoài.
+ Giảm thuế đánh vào các chaebol, đặc biệt là các công ty xây dựng, khi chính phủ
bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng như đường cao tốc và cầu ở Hàn Quốc.
- Kiểm soát mạnh mẽ hơn: Mặc dù đóng góp nhiều cho sự phát triển của đất nước
Hàn nhưng sức ảnh hưởng và bành trướng của các chaebol ngày càng lớn do được
nhận nhiều ưu đãi về nguồn vốn, không sợ thất bại, cũng như có Chính phủ chống
lưng đã gây ra nhiều tác động xấu đến nền kinh tế và chính trị của nước này, điển
hình như cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 => Chính phủ có những sách lược
mới bớt các đặc ân của các chaebol như: kiểm soát mạnh xóa bỏ việc bảo lãnh cho
các khoản nợ chéo; nâng cao tính minh bạch quản trị; buộc lãnh đạo phải chịu
trách nhiệm.
2.2.4. Kinh nghiệm vệ phát triền mạnh mẽ về công nghiệp sản xuất ô tô, đóng tàu
và thép
Như phân tích ở trên, cùng với mô hình chaebol, Hàn Quốc đã phát triển mạnh mẽ về sản
xuất, thương mại và các ngành công nghiệp nặng về đóng tàu, ô tô và thép.
Kinh nghiệm:
19

19
- Liên tục nâng cấp cơ cấu công nghiệp theo các ngành có lợi thế so sánh:
8
Để thời gian
CNH được rút ngắn một cách kỷ lục so với các quốc gia công nghiệp phát triển khác,
Hàn Quốc đã nỗ lực không ngừng để nâng cấp cơ cấu công nghiệp theo hướng phát triển
các ngành có điều kiện cạnh tranh trên thị trường:
+ Vào thập kỷ 60, phát triển các ngành CN nhẹ sử dụng nhiều lao động
+ Vào thập kỷ 70, phát triển mạnh các ngành sản xuất sản phẩm trung gian để phục
vụ cho nhu cầu các ngành CN nhẹ, giảm bớt nhập khẩu loại hàng này. Cùng với sản
xuất các sản phẩm trung gian , HQ phát triển các ngành chế tạo, trước hết nhằm sản
xuất linh kiện phụ tùng thay thế cho máy móc thiết bị CN nhẹ, sau đó tiến dần tới sản
xuất các thiết bị tổng hợp hơn. Trong giai đoạn này, tiêu biểu là chương trình phát
triển các ngành CN nặng và hoá chất.
+ Đặc biệt trong giai đoạn 1980-1990, Hàn Quốc tiếp tục nâng cấp cơ cấu công
nghiệp lên trình độ cao hơn bằng cách phát triển mạnh các ngành có hàm lượng khoa
học cao, các ngành chế tạo máy phức tạp và chính xác. Từ nửa sau thập niên 80, để
có những kỹ thuật hiện đại nhất như các nước tư bản phát triển, Hàn Quốc lại cố
gắng tự nâng mình lên cao nữa bằng cách đi vào lĩnh vực sản xuất công nghệ riêng.
Giai
đoạn
Tăng
trưởng
kinh tế
Tăng
trưởng
CN chế
tạo bình
quân
Tỷ lệ

CN chế
tạo
trong
CN
Tỷ lệ
CNN và
hoá chất
trong
CN chế
tạo
Tỷ lệ CN
chế tạo
đóng góp
vào tăng
trưởng
kinh tế
Sản phẩm
chủ yếu
1996-
1966
8,5 14,2 25,7 10,2 34,2
Điện, phân
bón,lọc
dầu, sợi
tổng hợp,
PVC.
1967-
1971
9,7 9,8 20,9 14,2 34,2
Sợi tổng

hợp, hoá
dầu, thiết
bị điện
1972- 10,1 18,1 29,5 29,8 38,7 Gang thép,
8 />XX/40166338/184/
20
20
1976
thiết bị
vận tải,
điện tử gia
dụng, tàu
biển, hoá
dầu
1977-
1981
5,5 10,3 21,3 45,3 30,8
Gang thép,
máy móc ,
thiết bị
CN, điện
tử, tàu
biển
1982-
1986
7,5 9,8 29,9 45,3 37,0
Máy chính
xác, điện
tử, tàu
biển,

thông tin
Bảng 1: Chỉ tiêu phát triển CN qua từng thời kỳ
(Nguồn: Korea Economic Report 1990)
Từ bảng 1 cho thấy số liệu sản phẩm chủ yếu của ngành Công nghiệp Hàn Quốc thay đổi
theo từng thời kỳ, độ tinh vi và hàm lượng công nghệ ngày càng được nâng cao đặc biệt
trong những năm 80-90.
- Ngành thép:
Bảng 2: Sản phầm Công nghiệp chủ yếu của Hàn Quốc
(Nguồn: Cục thống kê kinh tế Hàn Quốc)
1995 2000 2007 2009
variation in annual
average
‘95~’00 ‘00~’09
worldwide
744,59
9
847,66
2
1,344,08
5
1,223,735 2.6 4.2
21
21
1995 2000 2007 2009
variation in annual
average
‘95~’00 ‘00~’09
Korea
36,772
(4.9)

43,107
(5.1)
51,517
(3.8)
48,572
(4.0)
3.2 1.3
Bảng 3: Ngành công nghiệp sản xuất thép Hàn quốc
(Nguồn: Hội liên hiệp sắt thép Hàn Quốc)
Từ bảng 2 và bảng 3 cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ của các ngành Công nghiệp nặng
đặc biệt là công nghiệp thép trong giai đoạn những năm 1980- 1990 . Ngành sản xuất ô tô
từ 123 nghìn cái từ năm 1980 lên 13321 nghìn cái năm 1990. Sau 1 thập kỉ ngành đóng
tàu từ 1690 lên 4382 nghìn dung tích, sản xuất thép tăng mạnh mẽ với 9341 lên 24868
tức phát triển nhanh tăng gần 166% so với giá trị năm 1980. Thị phần ngành thép của
Hàn Quốc chiếm 4.9% trên tổng toàn thế giới năm 1995 , 5,1 % năm 2000 và 4,0% năm
2009. Có thể kể đến tập đoàn sản xuất thép lớn trên thế giới là POSCO. Sản lượng của
công ty này đạt 39,1 triệu tấn thép thô trong năm 2011, khiến nó trở thành nhà sản xuất
thép lớn thứ tư thế giới. Ngoài ra, trong năm 2012, công ty này trở thành tập đoàn lớn thứ
146 trên thế giới do tạp chí Fortune liệt kê 500 tập đoàn, công ty lớn nhất thế giới.
Ngành đóng tàu:
Top 10 Exporters of Containerized Cargo, 2009 and 2010
RANK EXPORTER
2009 TEUS
(MILLIONS)
2010 TEUS
(MILLIONS)
1 China 26.1 31.3
2 United States 10.2 11.2
22
22

3 Japan 4.8 5.7
4 South Korea 4.5 5.2
5
Taiwan,
China 2.9 3.4
6 Thailand 3.0 3.4
7 Germany 2.6 3.0
8 Indonesia 2.7 3.0
9 Malaysia 2.2 2.5
10 Brazil 2.3 2.3
Bảng 4: Những nhà xuất khẩu lớn ngành đóng tàu trên thế giới năm 2009- 2010
(Nguồn: Cục thống kê thương mại thế giới)
Từ bảng 3 trên ta có thế thấy được Hàn Quốc là nước lớn đứng thứ 4 về xuất khẩu tàu
thuyền và dự đoán là sẽ ngày càng phát triển trong tương lai. Cụ thể:
+ Năng lực đóng tàu ở Hàn Quốc đã tăng từ 190.000GT (gross tonnage – tổng dung
tích) năm 1971 lên 1,3 triệu GT vào năm 1976.
+ Đến năm 2011, ngành đóng tàu Hàn Quốc đạt 13 triệu GT với tổng giá trị 565,5 tỷ
USD, là ngành công nghiệp xuất khẩu số một của quốc gia, chiếm hơn 15% tổng kim
ngạch xuất khẩu, xếp trên cả ngành công nghiệp bán dẫn
2.2.5. Kinh nghiệm trong quản lý của chính phủ để phát triển công nghiệp
Áp dụng chính sách quản lý nghiêm ngặt đối với việc đầu tư: Đối với giới kinh doanh,
Nhà nước không khuyến khích đầu tư ra nước ngoài. Đầu tư FDI phải chịu một sự điều
chỉnh theo một danh mục tích cực và chịu sự khống chế kiểm soát của Nhà nước.
23
23
Ưu tiên cho các công ty trong nước: Chính phủ khống chế một cách nghiêm ngặt sự cạnh
tranh giữa các công ty trong nước và nước ngoài theo hướng ưu tiên cho các công ty
trong nước; sử dụng quyền lực nhà nước để giành điều kiện tốt hơn cho các công ty trong
nước. Từ đó, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phát triển công nghiệp.
Sử dụng các quan hệ kinh tế đối ngoại, tích cực khai thác tối đa tư nhân tham gia đầu tư

phát triển, cùng với nguồn vốn trong nước, FDI, viện trợ: Hàn Quốc đã xây dựng và ban
hành bộ luật đầu tư; thay thế chế độ tỷ giá cố định bằng chế độ linh hoạt; ban hành đạo
luật tổng hợp về thúc đẩy FDI, nâng lãi suất tiền gửi để thu hút tiết kiệm của dân cư. Qua
đó, chúng ta thấy rằng việc thu hut nguồn vốn FDI, viện trợ… từ nước ngoài là cực kỳ
quan trọng, bởi muốn phát triển công nghiệp thì cần phải có nguồn vốn rất lơn.
Tập trung vốn cho xây dựng và phát triển các tập đoàn kinh tế lớn (chaebol) kể cả vốn
nhà nước và tư nhân để các tập đoàn này trở thành đầu tàu, nòng cốt cho phát triển kinh
tế: Nhà nước hỗ trợ đặc biệt để đầu tư phát triển các Cheabol với quan điểm sẵn sàng
thua lỗ ở giai đoạn đầu để chiếm lĩnh thị trường quốc tế, thu hút lợi nhuận cao về sau.
2.2.6. Kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục để thúc đẩy ngành công nghiệp phát
triển
Thành tựu trong lĩnh vực giáo dục ở Hàn Quốc:
+ “1992, có 1989 sinh viên và 413 giáo sư, học giả nước ngoài học và làm việc ở
Hàn Quốc”
+ Trong thời kỳ 1980-1990, tuổi giáo dục trung bình của nước này đã tăng tới 9,54
và giảm số người mỳ chữ tới mức 0. Các trường đại học đã cung cấp cho đất nước
3211 tiến sỹ, 22000 tốt nghiệp cao học (tính đến năm 1993). Số nhân lực R &D đã
tăng từ 2765 (năm 1965) lên 70503(năm 1990)
Kinh nghiệm:
- Tăng cường hàm lượng khoa học và kỹ thuật công nghệ trong giáo dục:
Một mặt tuyển chọn học sinh trong nước và đẩy mạnh bồi dưỡng ở nước ngoài. Mặt
khác có chính sách trọng đãi, thu hút nhân tài (lưu học sinh, kiều bào). Trong đó, Chính
phủ đã thực hiện rất tích cực việc thu hút các nhà khoa học Hàn Quốc và nước ngoài về
24
24
sinh sống và làm việc trong nước với mức lương cao (khoảng 900.000 won/ tháng) dẫn
đến thập niên 1990, về cơ bản Hàn Quốc chấm dứt hiện tượng “chảy máu chất xám”
trong đó Viện KIST đóng vai trò quan trọng.
Xây dụng nền “giáo dục mở” ở Hàn Quốc cũng rất quan trọng trong việc thể hiện tăng
cường hợp tác quốc tế về giáo dục bằng việc để đưa các sinh viên đi du học ở nước ngoài

để có thể học tập những tri thức tiên tiến rồi về phục vụ cho đất nước và tiến hành hỗ trợ
các nhà khoa học nước ngoài, công trình khoa học tìm hiểu và nghiên cứu về đất nước
Hàn Quốc hay trao đổi học thuật hai chiều
Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng, giáo dục hoàn toàn quan trọng đối với một quốc
gia nếu như quốc gia đó muốn phát triển công nghiệp, vì khi quốc gia đó có nguồn tri
thức cao, dân phát triển, có nhiều nhân tài hợp tác với nhau, thì rất dễ dàng cho quốc gia
đó trở thành một NIC thông qua các chính sách, vai trò hoạch định, lựa chọn các chiến
lược phát triển quốc gia. Ví dụ ở Hàn Quốc, Tổng thống Park Chung Hee (1963 - 1979) -
người có vai trò rất lớn trong việc đưa Hàn Quốc cất cánh kinh tế lần thứ nhất. Ngoài ra,
phát triển giáo dục cũng góp phần thúc đẩy nền công nghiệp trong nước phát triển thông
các công nghệ, các phát minh, sáng chế.
3. Đài Loan
3.1. Lịch sử phát triển công nghiệp Đài Loan
9
Trong 5 thập niên qua, Đài Loan chuyển mình từ một nền kinh tế nông nghiệp, chậm phát
triển sang một nước công nghiệp phát triển, trong đó các ngành sản xuất là thành phần
chính tạo thành điều được gọi là phép lạ kinh tế Đài Loan.
Trong thập niên 1960, nhờ đầu tư nước ngoài, nhiều ngành kỹ thuật tiên tiến được đưa
vào Đài Loan. Chẳng mấy chốc, đảo quốc trở thành một trong những nước xuất cảng
chính các loại máy móc điện tử, thiết bị điện và sản phẩm bằng plastic.
9 hp://vimac.com.vn/newsdetail.aspx?nid=21&l=2&mnID=10
25
25

×