Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận tài chính công THÂM HỤT NGÂN SÁCH, TIẾT KIỆM QUỐC GIA VÀ TÍNH BỀN VỮNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG CÁC NỀN KINH TẾ MỚI NỔI: MỘT CÁCH TIẾP CẬN MẢNG DỮ LIỆU GMM ĐỘNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (991.76 KB, 21 trang )

1 | P a g e

THÂM HỤT NGÂN SÁCH, TIẾT KIỆM QUỐC GIA VÀ TÍNH BỀN VỮNG
CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG CÁC NỀN KINH TẾ MỚI NỔI: MỘT CÁCH
TIẾP CẬN MẢNG DỮ LIỆU GMM ĐỘNG




TÓM TẮT: Các mô hình tăng trưởng tân cổ điển đã lập luận về sự chuyển dần đến trạng thái
ổn định; công nghệ, tỷ lệ tiết kiệm ngoại sinh, tăng trưởng dân số và tiến bộ kỹ thuật thúc đẩy
tăng trưởng cao hơn (Solow, 1956). Trái với lập luận tân cổ điển, mô hình tăng trưởng nội sinh
cho rằng, trong các lý thuyết tăng trưởng nội sinh, chính phủ đóng một vai trò quan trọng việc
thúc đẩy tích lũy kiến thức, nghiên cứu và phát triển, đầu tư công, phát triển nguồn nhân lực,
pháp luật và trật tự có thể tạo ra sự tăng trưởng cả trong ngắn hạn và dài hạn. Hơn nữa, họ đã
thừa nhận rằng tiến bộ kỹ thuật như là một biến nội sinh cho sự tăng trưởng (Barro, 1995).
Nghiên cứu này phân tích những tác động của thâm hụt ngân sách lên sự bền vững của tăng
trưởng kinh tế và cung cấp bằng chứng thực nghiệm mới về tác động của thâm hụt ngân sách
lên tiết kiệm và sự bền vững của tăng trưởng kinh tế dựa trên giả định của mô hình tăng trưởng
nội sinh. Chúng tôi ước tính bằng cách sử dụng hình thức rút gọn của phương pháp GMM cho
các mảng dữ liệu động trong khoảng thời gian 1990-2009 cho ba quốc gia mới nổi bao gồm
Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi.
Các từ khóa: thâm hụt ngân sách, tiết kiệm quốc gia, phát triển bền vững, tăng trưởng
Phân loại JEL : C33, C 61, E62, O16, O47

1. Giới thiệu
Phúc lợi của thế hệ kế tiếp được xác định bởi sự tăng trưởng kinh tế bền vững và chính
sách kinh tế vĩ mô hợp lý. Một sự tăng trưởng kinh tế bền vững là yếu tố duy nhất và quan
trọng nhất để thay đổi tiêu chuẩn sống của người dân. Đặc biệt là chính phủ ở các nước đang
phát triển dùng tăng trưởng kinh tế như mục tiêu cơ bản và đang phấn đấu để thay đổi cuộc
sống của người dân bằng cách sử dụng các chính sách phát triển khác nhau. Một số quốc gia đã


đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao được xem như là hình mẫu cho các quốc gia đang phát
triển khác, và gia tăng sự thịnh vượng và vai trò của họ trong mối quan hệ giữa các nước.
Cách chính phủ tài trợ chi tiêu cũng quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Nếu nền
kinh tế được tài trợ mạnh mẽ về thuế, nó làm biến dạng khuyến khích đầu tư sản xuất và do đó
có thể cản trở sự tăng trưởng. Thâm hụt tài chính thông qua vay nợ cũng ảnh hưởng đến quy
mô của các công ty tư nhân và lãi suất trong nền kinh tế.
Mặc dù các nhà kinh tế đưa ra kết luận khác nhau về tác động của thâm hụt ngân sách
nhưng rất nhiều kết quả thực nghiệm và thực tế cho thấy các bằng chứng khá chắc chắn về tác
động nghịch của nó.
2 | P a g e

Nghiên cứu được thực hiện bởi Fischer (1993), Easterly và Rebelo (1993), Easterly và
cộng sự (1994), Bleaney và cộng sự (2001) được hỗ trợ bởi các hiệu ứng nghịch của thâm hụt
ngân sách đến tăng trưởng kinh tế.
Mục tiêu của nghiên cứu này là cung cấp những kết quả thực nghiệm mới đối với các tác
động của thâm hụt ngân sách đến sự bền vững của tăng trưởng kinh tế trong ba nền kinh tế mới
nổi, trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi. Nghiên cứu sử dụng phương pháp GMM để
ước tính dạng rút gọn của mô hình bằng cách sử dụng các mảng dữ liệu động cho giai đoạn
1990-2009. Nghiên cứu có bảy phần bao gồm cả phần giới thiệu.
Phần thứ hai thảo luận về mối tương quan của các biến số tài chính với tăng trưởng kinh
tế và các mô hình tăng trưởng khác nhau. Ngoài ra, phần này cũng phân tích các mô hình khác
nhau về tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế.

Phần thứ ba thảo luận về mô hình lý thuyết liên kết với phương pháp nghiên cứu. Phần
thứ tư mô tả các dữ liệu sử dụng cho nghiên cứu. Phần thứ năm là phương pháp nghiên cứu.
Phần thứ sáu và thứ bảy lần lượt là các kết quả thực nghiệm và kết luận.
2. Tổng quan lý thuyết
2.1 Chính sách tài khóa, tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế

Nhìn chung các mô hình tăng trưởng có thể được phân thành hai hình thức chính, tân cổ

điển (Solow, 1956; Swan, 1956) và nội sinh (Romer, 1986; Lucas, 1988). Nhưng hai mô hình
khác nhau có lập luận tương tự về tác động của chính sách tài khóa đến mức GDP, trong khi
những tác động của chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế thì không giống nhau.

Theo lý thuyết của mô hình tăng trưởng nội sinh, chính phủ đóng một vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy tích lũy kiến thức, nghiên cứu và phát triển, đầu tư công hiệu quả, phát triển
nguồn nhân lực, pháp luật và trật tự có thể tạo ra tăng trưởng cả trong ngắn và dài hạn. Về cơ
bản, lý thuyết của mô hình tăng trưởng nội sinh có hai cách tiếp cận khác nhau. Cách tiếp cận
đầu tiên, đó là trong mô hình tăng trưởng nội sinh, chính phủ có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế bằng cách thúc đẩy các hoạt động tư nhân với tác động tích cực từ bên ngoài
1
. Trong
các mô hình tăng trưởng nội sinh, cách thức chi tiêu chính phủ xác định tỷ lệ tăng trưởng dài
hạn theo lập luận của Barro (1990). Mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro (1990) đã nghiên
cứu rằng sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ hiệu quả được tài trợ bởi thuế không gây biến
dạng sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng trong khi hiệu quả là không rõ ràng nếu thuế gây biến dạng
được sử dụng. Ngoài ra, sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ không hiệu quả được tài trợ bởi
các loại thuế không gây biến dạng sẽ có tác động trung lập đến tăng trưởng nhưng nếu thuế gây
biến dạng được sử dụng thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng.

Lập luận thứ hai của mô hình tăng trưởng nội sinh cho rằng chính phủ cung cấp các dịch
vụ sản xuất làm tăng sản phẩm biên của vốn tư nhân và do đó ảnh hưởng tích cực đến tăng
trưởng kinh tế (tức là xem xét toàn bộ chức năng sản xuất cho lợi nhuận cố định đồng thời
trong vốn tư nhân và công cộng và làm cho chi tiêu chính phủ nội sinh sau đó ngay lập tức
mang lại một tốc độ tăng trưởng nội sinh)
2
.


1

Xem chi tiết Marshall Alfred (1996)
2
Cách tiếp cần tượng tự như Arrow và Kurz (1970)
3 | P a g e

Không giống như mô hình tăng trưởng nội sinh, trong mô hình tăng trưởng tân cổ điển
chuẩn tắc, tăng trưởng sản lượng trong dài hạn được xác định bằng sự gia tăng trong cung ứng
lao động, tích lũy vốn vật chất và vốn con người, và đổi mới công nghệ.

Hơn nữa, nếu tiết kiệm và đầu tư tăng lên là kết quả của các chính sách tài khóa hiệu
quả, tỷ lệ vốn-sản lượng cân bằng sẽ được thay đổi và sau đó tốc độ tăng trưởng sẽ tăng, nền
kinh tế di chuyển lên một tầm cao mới của sản lượng bình quân đầu người, nhưng trong dài hạn
lại quay trở lại mức ban đầu.

2.2 Tác động của chính sách tài khóa

Tác động của chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế là một chủ đề gây tranh cãi từ
lâu trong lý thuyết kinh tế, nghiên cứu thực nghiệm và hoạch định chính sách kinh tế. Chính
phủ tài trợ cho thâm hụt bằng cách phát hành trái phiếu hoặc tăng tỷ lệ thuế suất hoặc mức chịu
thuế hoặc thông qua in tiền. Một số tác nhân kinh tế hợp lý có thể cho thấy rằng mức thâm hụt
cao hơn hôm nay ngụ ý đánh thuế cao hơn trong tương lai, do đó dân chúng có thể tăng tiết
kiệm của họ ngày hôm nay để có phương tiện để trả những khoản thuế cao hơn. Tuy nhiên, một
số tác nhân kinh tế có thể chịu ảo giác tài chính hoặc đơn giản là không quan tâm đến các loại
thuế cao hơn trong tương lai. Bernhein (1989) đã cung cấp một bản tóm tắt ngắn gọn về tác
động của thâm hụt ngân sách được thực hiện bởi ba mô hình là tân cổ điển, Keynes và Ricardo.
Theo mô hình tân cổ điển, cá nhân có kế hoạch tiêu dùng trong toàn bộ cuộc đời của mình.
Bằng cách chuyển thuế cho các thế hệ tương lai, thâm hụt ngân sách sẽ làm tăng tiêu dùng hiện
tại. Hơn nữa bằng cách giả định nguồn việc làm đầy đủ khiến tiêu dùng tăng, đồng thời giảm
tiết kiệm và lãi suất phải tăng lên để đảm bảo cân bằng trong thị trường vốn. Lãi suất cao hơn,
đến lượt nó lại dẫn đến một sự suy giảm trong đầu tư tư nhân. Trong khi Keynes cung cấp một

lập luận được ủng hộ bởi số đông. Keynes cho rằng thâm hụt ngân sách dẫn đến sự gia tăng sản
xuất trong nước, làm cho các nhà đầu tư tư nhân lạc quan hơn về tương lai của nền kinh tế, dẫn
đến họ đầu tư nhiều hơn (tức là hiệu ứng đầu tư cùng chiều (Crowding –in).

Lập luận theo quan điểm truyền thống của Keynes có thể khác với các quan điểm tân cổ
điển chuẩn tắc vì hai lý do chính. Thứ nhất là tồn tại thất nghiệp. Thứ hai, nó giả định sự tồn tại
của một số lượng lớn cá nhân có thanh khoản bị hạn chế. Giả định thứ hai cho rằng tổng tiêu
dùng rất nhạy cảm với những thay đổi trong thu nhập khả dụng. Vì vậy, những người theo quan
điểm Keynes truyền thống cho rằng thâm hụt ngân sách không lấn át đầu tư tư nhân.

Theo các mô hình tân cổ điển, ngay cả khi thâm hụt ngân sách có ảnh hưởng xấu đến tiết
kiệm quốc gia thì nó cũng không làm giảm tốc độ tăng trưởng sản lượng lâu dài vì trong các mô
hình này, tăng trưởng dài hạn chỉ chịu tác động bởi tiến bộ kỹ thuật, mà biến này lại được giả
định là biến ngoại sinh. Tuy nhiên, tiết kiệm thấp hơn sẽ dẫn đến tỷ lệ vốn/lao động thấp hơn và
điều này lại gây ra sự giảm sút năng suất biên của vốn, dẫn đến một tỷ lệ lãi suất thực tế cao
hơn. Tỷ lệ vốn/lao động thấp cũng sẽ dẫn đến giảm năng suất lao động và do đó cuối cùng làm
cho mức lương thực tế thấp hơn.

Trái ngược với lập luận của mô hình tân cổ điển về những ảnh hưởng của thâm hụt ngân
sách, mô hình tăng trưởng nội sinh giả định tiến bộ kỹ thuật là biến nội sinh (Barro và Sala-i-
Martin, 1995). Những mô hình này dựa trên một định nghĩa rộng hơn về vốn, kết hợp với
những ngoại tác tích cực của tích lũy vốn (ví dụ, vừa học vừa làm hoặc tiến bộ kỹ thuật được
thể hiện trong công nghệ của vốn mới). Kết quả, trong nhiều mô hình tăng trưởng nội sinh, giả
định năng suất biên của vốn giảm dần được thay thế bằng năng suất biên không đổi. Điều này
4 | P a g e

cho phép những thay đổi trong tốc độ tăng trưởng được quyết định bởi những thay đổi trong tiết
kiệm quốc gia trong dài hạn.

2.3 Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây


Tác động của chính sách tài khóa đối với tăng trưởng kinh tế là một chủ đề gây tranh cãi
từ lâu trong các lý thuyết kinh tế, nghiên cứu thực nghiệm, và hoạch định chính sách kinh tế.
Lý thuyết truyền thống cho rằng, giả thiết các yếu tố khác không thay đổi, một sự giảm sút tiết
kiệm của chính phủ gây ra lãi suất tăng, đầu tư giảm, và tăng trưởng kinh tế chậm lại. Có một
số bằng chứng thực nghiệm từ dữ liệu mảng và dữ liệu chuỗi thời gian đã phân tích những tác
động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm. Tác hại của thâm hụt ngân
đến tăng trưởng kinh tế đã được kiểm chứng thực nghiệm trong một vài nghiên cứu, chẳng hạn
như Rubin và cộng sự (2004), Gale và Orszag (2002), Fischer (1993), Easterly và Rebelo
(1993), Easterly và cộng sự (1994)., Bleaney cộng sự (2001) và Borcherding cộng sự (2004).
Roy và Berg (2009) đã tìm thấy kết quả không rõ ràng.

Fischer (1993) đã kết luận trong nghiên cứu của mình rằng thâm hụt ngân sách cao và
tăng trưởng có tương quan nghịch. Vì kết quả của thâm hụt ngân sách là lạm phát và thị trường
ngoại hối bị bóp méo, sẽ ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế. Gale và Orszag (2002) kết luận
rằng, thâm hụt ngân sách vẫn có khả năng làm giảm tăng trưởng kinh tế vì "sự giảm sút trong
đầu tư nước ngoài quốc gia ròng do đó làm giảm vốn thuộc sở hữu quốc gia, và làm giảm thu
nhập quốc gia trong tương lai".

Borcherding và cộng sự (2004) đã tìm thấy một hiệu ứng tăng trưởng âm trong quy mô
chính phủ trong 20 nước OECD trong giai đoạn 1970-1997. Easterly và Rebelo (1992) cũng
phát hiện một kết quả phù hợp về mối quan hệ nghịch biến giữa tăng trưởng và thâm hụt ngân
sách. Ngoài ra, Rubin và cộng sự (2004) đã cung cấp điều tra bổ sung về tác động tăng trưởng
âm của sự tăng lên trong thâm hụt ngân sách do giá tài sản giảm, giảm tài sản quốc gia, lo ngại
lạm phát, giảm tính linh hoạt tài chính do phải đối phó với những cú sốc kinh tế vĩ mô và suy
giảm niềm tin nhà đầu tư.

Ghosh và Hendrik (2009) đã tìm thấy kết quả ngược lại bằng cách sử dụng dữ liệu chuỗi
thời gian từ 1973-2004 trong nền kinh tế Mỹ. Kết quả của họ chỉ ra rằng, giả định các yếu tố
khác không thay đổi, tăng thâm hụt ngân sách làm giảm tăng trưởng. Tuy nhiên, sự thâm hụt tài

khoản vãng lai kép, cho thấy mô hình có xu hướng theo sau thâm hụt ngân sách là tăng trưởng
tăng. Do đó, mối quan hệ tổng thể giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế là không rõ
ràng.

3. Mô hình lý thuyết thâm hụt ngân sách, tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế:
Như đã thảo luận trong lý thuyết tăng trưởng nội sinh ở trên, chính sách tài khóa có tác
động đáng kể cả về mức độ lẫn tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng bình quân đầu người. Để liên
kết khung lý thuyết với phương pháp luận của bài nghiên cứu này, tiếp theo chúng tôi sẽ phân
tích thâm hụt ngân sách tác động như thế nào đến tiết kiệm trong nước và tăng trưởng kinh tế.
Chúng tôi sử dụng ví dụ phổ biến nhất về hàm sản xuất Cobb Douglas như Barro (1990), Barro
và Sala-i-Martin (1992, 1995) đã thảo luận trong các bài nghiên cứu của họ.

Họ giả định chính phủ cung cấp hàng hóa và dịch vụ (g) như là yếu tố đầu vào để cho
5 | P a g e

thấy tác động tích cực của chi tiêu chính phủ và những ảnh hưởng bất lợi liên quan đến các
khoản thuế gây biến dạng. Hàm sản xuất, tính trên đầu người được cho như sau:

Trong đó α ϵ [0;1] và y là sản lượng bình quân đầu người, A là năng suất toàn bộ nhân tố, k là
vốn tư nhân bình quân đầu người và g là hàng hóa và dịch vụ chính phủ cung cấp. Bây giờ
chúng ta có thể có hai giả định để liên kết hàm sản xuất ở trên với bài nghiên cứu này. Đầu tiên,
ngân sách chính phủ cân bằng là kết quả của việc áp đặt thuế không gây biến dạng lên sản
lượng ở một tỷ lệ nhất định () và các khoản thuế khoán (L), ràng buộc ngân sách có thể trở
thành:

Trong đó n là số lượng nhà sản xuất trong nền kinh tế, C là chi tiêu của chính phủ, giả
định là không hiệu quả. Mặc dù về mặt lý thuyết, sản lượng đầu ra liên kết với tác động khuyến
khích của thuế đến đầu tư tư nhân nhưng thuế khoán thì không (Barro, 1990). Theo Barro
(1990) và Barro và Sala-i-Martin (1992) tỷ lệ tăng trưởng dài hạn () được tính dựa trên một
hàm hữu dụng xác định và mô hình được thể hiện như sau:


Trong đó, λ và µ đại diện cho các tham số mà chúng tôi đã giả định trong hàm hữu dụng.
Phương trình (3) cho thấy tỷ lệ tăng trưởng () là một hàm giảm của thuế suất gây biến dạng
() và là hàm tăng của chi tiêu hiệu quả của chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ (g). Trong
phương trình (3) ở trên, tiêu dùng chính phủ không hiệu quả (C) và các loại thuế không gây
biến dạng (L) được giả định là không có vai trò gì.

Thứ hai, việc nới lỏng giả định về ràng buộc cân bằng ngân sách bao gồm thâm hụt ngân
sách và phân tích ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế. Phương trình (4) được suy ra từ
phương trình (2) bao gồm cả thâm hụt ngân sách theo nghiên cứu thực nghiệm của Kneller
cùng cộng sự (1999) và Bleaney cùng cộng sự (2000):

Trong đó d là viết tắt của thâm hụt ngân sách. Cả Amanja và Morrisey (2005) và
Matthew (2009) đều dự đoán tăng trưởng trong các nghiên cứu của họ theo bài nghiên cứu của
Kneller và cộng sự (1999) và phương trình được thể hiện như sau:

Trong đó y
t
là tốc độ tăng trưởng của sản lượng đầu ra, X là một vector của các biến tài
chính, Z là vector của các biến phi tài chính và 
jt
là giới hạn sai số nhiễu trắng (white noise
6 | P a g e

error terms). Về lý thuyết, nếu ràng buộc ngân sách được xác định đầy đủ và tất cả các yếu tố
được bao gồm trong đó thì trong trường hợp này chúng ta có một ngân sách cân bằng và vector
của biến tài chính bằng không.

Nhưng nếu một thành phần của X bị bỏ qua (ví dụ x
m

) thì cộng tuyến hoàn hảo (xem
Kneller cùng cộng sự, 1999) sẽ không tồn tại cũng như chi tiêu sẽ không cân bằng với doanh
thu. Sau khi bỏ qua thành phần đó, phương trình (5) sẽ trở thành:

Cả Amanja và Morrisey (2005) và Matthew (2009) đã kiểm tra giả thiết không với điều kiện (y
j
– y
m
) = 0 thay vì giả thuyết không thông thường là y
j
= 0. Theo đó, hệ số của biến tài chính giải
thích là "ảnh hưởng của một sự thay đổi đơn vị trong các biến có liên quan được bù đắp bởi
một thay đổi đơn vị trong thành phần bị bỏ qua từ hồi quy "(xem Kneller cùng cộng sự, 1999:
175).
4. Mô tả dữ liệu:
Các dữ liệu được sử dụng cho hồi quy bắt đầu từ năm 1990-2008, trong đó thành phần
mô tả chúng tôi sử dụng từ năm 1988-2008. Dưới đây chúng tôi mô tả các biến sử dụng trong
bài nghiên cứu cùng với nguồn của chúng. Ngoại trừ một số biến, đa số các biến được lấy từ cơ
sở dữ liệu Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu. Mô tả như sau:
GR: Tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và được sử dụng thay thế cho tăng trưởng
kinh tế. Tỷ lệ phần trăm tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm tính bằng cách chia
GDP cho dân số vào giữa năm. Nguồn: Ngân hàng Thế giới.
FD: đại diện cho thâm hụt (thặng dư) là chênh lệch giữa tổng thu nhập và chi tiêu của chính
phủ.
TAX: doanh thu thuế tính theo % trên GDP được sử dụng để đánh giá những ảnh hưởng của
thâm hụt tài chính lên tăng trưởng kinh tế cũng như tiết kiệm trong nước. Nguồn: Báo cáo
Triển vọng kinh tế của Ngân hàng Thế giới.
FDEV: tăng trưởng tài chính và tín dụng đối với khu vực tư nhân được sử dụng thay thế như là
một phần của GDP.
TO: mở cửa thương mại, là [(xuất khẩu + nhập khẩu) / GDP] được sử dụng thay thế cho mức

độ mở cửa thương mại. Nguồn: Ngân hàng Thế giới.
D: tổng nợ quốc gia. Nguồn: Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu
INV: Tổng vốn cố định(Gross Fixed Capital Formation) (trong nước). Nguồn: Ngân hàng thế
giới.
7 | P a g e

EXP: Chi tiêu của chính phủ. Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế, Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu.
INF: Lạm phát: là chỉ số giá tiêu dùng. Nguồn: Ngân hàng Thế giới.
RIR: Tỷ lệ lãi suất thực, là lãi suất cho vay được điều chỉnh theo lạm phát được đo bằng chỉ số
giảm phát GDP. Nguồn: Ngân hàng Thế giới.
SAV: tiết kiệm trong nước: bao gồm tiết kiệm của chính phủ, tiết kiệm của doanh nghiệp và hộ
gia đình và được tính theo tỷ lệ phần trăm của GDP. Nguồn: Ngân hàng Thế giới.
5. Phương pháp
Để phân tích những tác động sau cùng của thâm hụt ngân sách đến sự tăng trưởng,
chúng tôi sử dụng mô hình mô tả dưới đây, tương tự như Kneller và cộng sự (1999) đã sử dụng.
Chúng tôi sử dụng cả các biến tài chính và phi tài chính. Thâm hụt ngân sách, lạm phát, lãi suất
và thuế là các biến chính; các biến tài chính và phi tài chính còn lại được xem như là biến kiểm
soát trong đó bao gồm mức độ mở cửa thương mại, tăng trưởng tài chính, đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chi tiêu chính phủ (đầu tư) và tiết kiệm trong nước.
Trong đó, GR
t
đại diện cho tỷ lệ tăng trưởng sản lượng bình quân đầu người, X
jt
là vector
của các biến tài chính, Z
jt
là vector của các biến phi tài chính và 
jt
là sai số.


Trong đó γ, α
1
, α
2
,
α
3
, α
4
, α
5
, α
6
, α
7
, α
8

và α
9
là các hệ số được ước tính và π
i
là số
hạng chỉ các nước không đồng nhất, có thể bao gồm tất cả các yếu tố không quan sát được liên
tục trong thời gian đó có ảnh hưởng đến tăng trưởng. Số hạng ν
i
, là hiệu ứng thời gian cụ thể.
Những ảnh hưởng của biến tài chính đến tiết kiệm trong nước được phân tích bằng cách sử dụng
mô hình dưới đây.


Trong đó SAV
it
là tỷ lệ tiết kiệm trong nước trên GDP. Chúng tôi ước tính các hệ số bằng
cách sử dụng hình thức động của phương pháp GMM cho mảng dữ liệu từ năm 1990-2008 cho
ba quốc gia mới nổi bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi.
6. Kết quả thực nghiệm
6.1 Mô tả và phân tích tương quan
Một trong những kết quả bất ngờ thu được trong bảng dưới đây, cho thấy rằng tất cả ba
nước đều thâm hụt trong hơn hai thập kỷ. Hơn nữa, nền kinh tế Ấn Độ đi kèm với thâm hụt ngân
sách cao nhất so với Trung Quốc và Nam Phi. Các dữ liệu trung bình về tỷ lệ tăng trưởng GDP
8 | P a g e

bình quân đầu người của Trung Quốc cao hơn so với hai quốc gia kia. Tỷ lệ tăng trưởng GDP
bình quân đầu người của Trung Quốc là 6,97% trong khoảng thời gian 1988-1992 và tăng lên
đến 10.25% và 11.02% trong giai đoạn 1993-1997 và 2003-2007. Tuy nhiên, sự tăng trưởng
trong giai đoạn 1998-2002 giảm 2,87% so với cùng kỳ 5 năm trước. Sự sụt giảm này có thể liên
quan đến sự gia tăng thâm hụt ngân sách trung bình 60% so với giai đoạn trước. Mặc dù sự phát
triển của Ấn Độ trong ba thời kỳ đầu tiên (tức là 1988/92, 1993/97 và 1998/02) là không đáng
kể như Trung Quốc, nhưng trong khoảng thời gian cuối 2003-2007 đã đạt được tốc độ tăng
trưởng ấn tượng bằng 101% so với giai đoạn trước đó. Nam Phi cho thấy tăng trưởng tương đối
ổn định trong giai đoạn 1993-2002. Nhưng trong giai đoạn 2003/2007 tăng 6,89 lần so với tốc
độ tăng trưởng báo cáo vào năm 1998/2002. Về mặt tiết kiệm trong nước, Trung Quốc đã cho
thấy có sự ổn định gia tăng, ngoại trừ giai đoạn tăng trưởng giảm (tức là 1998/2002). Tương tự,
Ấn Độ cũng báo cáo sự gia tăng tương đối ổn định trong tiết kiệm nội địa. Ở Nam Phi thì tiết
kiệm trong nước suy giảm liên tục qua từng thời kỳ.
Bảng

1. Kết quả dữ liệu



Period Countries FD GR SAV D EXP


1988-92 China -2.17 6.97 37.87 6.06 19.83
India -7.60 3.44 22.50 73.37 24.30
South Af. -3.16 -1.53 19.66 34.40 26.56
1993-97 China -1.94 10.25 42.76
6.47 13.57
India -6.74 4.24 22.69
68.29 23.47
South Af. -5.20 0.68 16.12
48.32 27.64
1998-02 China -3.11 7.38 39.43
15.66 17.11
India -8.97 3.59 23.18
72.11 25.51
South Af. -1.74 0.52 15.70
45.06 25.34
2003-07 China -1.02 11.02 47.61
18.24 18.63
India -6.30 7.49 31.04
78.00 25.21
South Af. -0.80 3.58 14.74
34.02 25.58
* Trung bình 5 năm của thâm hụt ngân sách, tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người, tiết kiệm
trong nước, nợ quốc gia và chi tiêu của chính phủ
9 | P a g e


Bảng 2. Kết quả thống kê

GR GR(-1) D FD FDEV INF RIR SAV TAX TO Panel
A: Means, Standard deviation, Maximum and Minimum

Mean
4.91
4.74
4
1
.
4
9
-3.90
86.03
97.51
4.80
28.19
13.14 42.94
Medians
4.42
4.40
39.45
-3.11
100.14
97.45
4.83
23.72
9.37 41.96
Stand. D
4.27
4.29

25.53
2.91
42.89
79.11
3.74
11.97
7.56 14.71
Max.
13.61
13.61
81.24
0.90
162.46
241.44
13.07
51.76
26.04 74.68
Min.
-4.16
-4.16
4.98
-9.48
22.77
3.68
-7.98
14.27
2.50 17.18
Panel B: Correlations .

GR

GR(-1)
D
FD
FDEV
INF
RIR
SAV
TAX

TO
GR
1.00










GR(-1)
D
0.87
-0.43
1.00
-0.40

1.00









FD
0.28
0.27
-0.80
1.00







FDEV
0.02
0.00
-0.67
0.81
1.00







INF
0.50
0.51
-0.89

0.80
0.74
1.00




RIR
-0.58
-0.57
0.55
-0.40
-0.14
-0.44
1.00




SAV
0.84
0.83
-0.54

0.28
0.00
0.59
-0.60
1.00



TAX
-0.68
-0.64
0.14
0.27
0.51
-0.09
0.36
-0.77
1.00


TO
0.20
0.23
-0.46
0.76
0.80
0.65
-0.23
0.15
0.46

1.00


Bảng trên chỉ ra rằng tăng trưởng có mối tương quan thuận với các biến, chẳng hạn như
FD, FDEV, INF, SAV và TO. Kết quả của FD và INF không xảy ra như mong đợi của lý thuyết
tăng trưởng chuẩn tắc. Bởi vì hai biến này cản trở sự tăng trưởng kinh tế và chúng là đặc điểm
của tăng trưởng kinh tế không lành mạnh khi chúng vượt qua mức bền vững. Trong khi các
biến RIR, TAX và D cho thấy mối tương quan nghịch với sự phát triển như mong đợi. Biến phụ
thuộc thứ hai là tiết kiệm tương quan thuận có ý nghĩa đáng kể với tăng trưởng kinh tế. Hơn
nữa, tiết kiệm cho thấy mức ý nghĩa đáng kể và mối tương quan nghịch với D, RIR và TAX
như mong đợi.
6.2 Phân tích hồi quy
6.2.1 Các tính chất của dữ liệu
Trước khi bắt đầu phân tích hồi quy của nghiên cứu, chúng tôi kiểm tra tính cố định của
các biến bằng cách sử dụng phương pháp kiểm tra nghiệm đơn vị bảng (the panel unit root
test method), (xem Bảng 7 trong phụ lục). Đối với các biến không cố định, sự khác biệt đầu
tiên và thứ hai, chúng tôi đã tiến hành các bảng thử nghiệm đồng liên kết để đảm bảo sự tồn tại
của mối quan hệ lâu dài. Chúng tôi sử dụng Levin, Lin and Chu (LLC); Im, Pesaran and Shin
(IPS); ADF-Fisher Chi – bình phương và PP-Fisher Chi – bình phương cho một thử nghiệm
nghiệm đơn vị bảng. Levin, Lin and Chu (2002) là một trong những thử nghiệm nghiệm đơn vị
đầu tiên phát triển cho dữ liệu bảng và gợi ý rằng thử nghiệm nghiệm đơn vị riêng có quyền
giới hạn chống lại giả thuyết thay thế, đặc biệt là trong mẫu nhỏ. Im, Pesaran và Shin (2003) sử
dụng khung hợp lý trong đó đề xuất phương pháp thử nghiệm mới linh hoạt hơn và tính toán
đơn giản hơn cho các bảng (được gọi là Thống kê t-bar), tính đến chuỗi cố định và không cố
định đồng thời.


10 | P a g e

6.2.1.1 Thử nghiệm nghiệm đơn vị bảng.

Bảng 7 dưới đây cho thấy kết quả thử nghiệm nghiệm đơn vị sử dụng Levin, Lin and
Chu, Im, Pesaran and Shin, ADF-Fisher Chi – bình phương và PP-Fisher Chi – bình phương.
Kết quả cho thấy tất cả các biến thì cố định ít nhất là trong một phương pháp thử nghiệm. Tất
cả các biến là cố định trong thử nghiệm nghiệm đơn vị riêng (theo Im, Pesaran và Shin W-stat;
ADF - Fisher Chi-bình phương và PP - Fisher Chi-bình phương) và thử nghiệm nghiệm đơn vị
chung (theo Levin, Lin and Chu) trừ FDEV và D là không cố định trong thử nghiệm nghiệm
đơn vị chung. Khi một số biến đã được tìm thấy không có mức cố định, chúng tôi đã thử
nghiệm chúng tại sự khác biệt đầu tiên và thứ hai. Vì vậy, kết quả tổng thể cho thấy nên tiếp tục
sang bước tiếp theo đó là ước tính. Tuy nhiên, để đảm bảo mối quan hệ lâu dài giữa các biến,
chúng tôi đã thử nghiệm đồng liên kết trong bảng 3.

Bảng 3: Thử nghiệm đồng liên kết bảng

Các biến
Tren
d

hướn
ghườ
n
Các giả thuyết thay
thế
Thống kê
Xác suất

MÔ HÌNH 1:
GR ,FD,
INF, RIR,
TAX
and D

Hệ số chặn
và xu hướng
riêng
Common AR Coefs
V
2.97
0.00**
Rho
0.85
0.2
8
PP
-5.94
0.00**
ADF
-4.20
0.00**
Individual AR Coefs
Rho
1.50
0.13
PP
-6.26
0.00**
ADF
-4.25
0.00**
Hệ số chặn
riêng
Common AR Coefs

V
1.32
0.1
7
Rho
0.77
0.3
0
PP
-3.70
0.00**
ADF
-5.32
0.00**
Individual AR Coefs
Rho
1.50
0.1
3
PP
-3.96
0.00**
ADF
-5.90
0.00**
Không có hệ số
chặn hay xu
hướng
Commons AR Coefs
V

-0.09
0.4
0
Rho
1.40
0.1
5
PP
1.10
0.2
2
ADF
-1.89
0.07*
Individual AR Coefs
Rho
2.32
0.03**
PP
1.94
0.06*
ADF
-1.91
0.06*


MÔ HÌNH 2:
SAV, FD,
INF, RIR,
TAX and

D
Hệ số chặn
và xu hướng
riêng
Common AR Coefs
V
0.46
0.3
6
Rho
2.24
0.03**
PP
-4.95
0.00**
ADF
-2.30
0.03**
Individual AR Coefs
Rho
2.96
0.00**
PP
-5.13
0.00**
ADF
-2.14
0.04**
Hệ số chặn
riêng

Common AR Coefs
V
0.02
0.4
0
Rho
1.51
0.1
3
PP
-2.62
0.01**
ADF
-1.46
0.1
4
Individual AR Coefs
Rho
2.32
0.03**
PP
-2.65
0.01**
ADF
-1.27
0.1
8
Không có hệ số
chặn hay xu
hướng

Common AR Coefs
V
-2.03
0.05*
Rho
1.75
0.09*
PP
0.22
0.3
9
ADF
-0.23
0.3
9
Individual AR Coefs
Rho
2.74
0.00**
PP
0.81
0.2
9
11 | P a g e

ADF
0.23
0.3
9
Variables

Tren
d
Alternative
hypothesis
Statistics
Probability

MODEL 1
GR ,FD,
INF, RIR,
TAX
and D
Individual
intercept and
individual
trend
Common AR Coefs
V
2.97
0.00**
Rho
0.85
0.2
8
PP
-5.94
0.00**
ADF
-4.20
0.00**

Individual AR Coefs
Rho
1.50
0.13
PP
-6.26
0.00**
ADF
-4.25
0.00**
Individual
intercept
Common AR Coefs
V
1.32
0.1
7
Rho
0.77
0.3
0
PP
-3.70
0.00**
ADF
-5.32
0.00**

3
Null Hypothesis: No cointegration -Automatic lag length selection based on SIC.

12 | P a g e




Individual AR Coefs
Rho
1.50
0.1
3
PP
-3.96
0.00**
ADF
-5.90
0.00**
No intercept or
trend
Commons AR Coefs
V
-0.09
0.4
0
Rho
1.40
0.1
5
PP
1.10
0.2

2
ADF
-1.89
0.07*
Individual AR Coefs
Rho
2.32
0.03**
PP
1.94
0.06*
ADF
-1.91
0.06*


MODEL 2
SAV, FD,
INF, RIR,
TAX and
D


Individual
intercept and
individual
trend
Common AR Coefs
V
0.46

0.3
6
Rho
2.24
0.03**
PP
-4.95
0.00**
ADF
-2.30
0.03**
Individual AR Coefs
Rho
2.96
0.00**
PP
-5.13
0.00**
ADF
-2.14
0.04**
Individual
intercept
Common AR Coefs
V
0.02
0.4
0
Rho
1.51

0.1
3
PP
-2.62
0.01**
ADF
-1.46
0.1
4
Individual AR Coefs
Rho
2.32
0.03**
PP
-2.65
0.01**
ADF
-1.27
0.1
8
No intercept or
trend
Common AR Coefs
V
-2.03
0.05*
Rho
1.75
0.09*
PP

0.22
0.3
9
ADF
-0.23
0.3
9
Individual AR Coefs
Rho
2.74
0.00**
PP
0.81
0.2
9
ADF
0.23
0.3
9

6.2.1.2 Bảng thử nghiệm đồng liên kết

Bảng thử nghiệm đồng liên kết tiến hành sử dụng Pedroni (1999,2004) cho phép tính
chặn không đồng nhất và các hệ số xu hướng thông qua dữ liệu chéo, với các phương pháp
khác nhau để xây dựng số liệu thống kê để kiểm tra giả thiết không (H
0
) của không đồng liên
kết. Có hai giả thiết để lựa chọn, thay thế đồng nhất, được gọi là thử nghiệm cùng chiều ( the
within-dimension test) hay thử nghiệm thống kê bảng, và thay thế không đồng nhất, được gọi là
thử nghiệm khoảng (the between-dimension) hay thử nghiệm thống kê nhóm. Đối với giả thiết

không của số liệu thống kê cùng chiều cho các bảng thử nghiệm không tích hợp là:
Vì không đòi hỏi các yêu tố ngoại sinh đối với các biến hồi quy của các hồi quy đồng
liên kết và hợp nhất chỉ có các thông tin liên quan đến sự tồn tại có thể có của các mối quan hệ
đồng liên kết, thử nghiệm đồng liên kết Pedroni lắt léo hơn so với các phương pháp khác.
Bảng kết quả thử nghiệm đồng liên kết cho thấy có tồn tại đồng liên kết giữa các biến
giải thích và biến phụ thuộc. Như bảng 3 đã chỉ ra, hệ số chặn riêng và giả định xu hướng riêng
trong tất cả các trường hợp ngoại trừ những thống kê Rho trong mô hình một, và thống kê V
trong mô hình hai, bác bỏ giả thiết không không đồng liên kết tại mức ý nghĩa 5% và 10%.
13 | P a g e

Điều này có nghĩa là các biến có mối quan hệ lâu dài và đã được chứng minh để tiếp tục bước
tiếp theo trong phần hồi quy của nghiên cứu.
6.2.2 Các kết quả hồi quy
Trong phần này, chúng tôi đã ước lượng bằng cách phân loại các biến giải thích tài chính
và các biến phi tài chính. Bảng 4 bao gồm các kết quả hồi quy cho sự tăng trưởng biến phụ
thuộc bằng cách sử dụng GMM động, ước lượng ảnh hưởng cố định và ảnh hưởng ngẫu nhiên.
Trong bảng này tất cả các biến giải thích được sử dụng bao gồm cả độ trễ của biến phụ thuộc.
Trong bảng 5, chúng tôi đã sử dụng hồi quy tương tự cho tiết kiệm xem xét các biến tăng
trưởng kinh tế là một trong những biến giải thích. Bảng 6 báo cáo kết quả hồi quy không bao
gồm các biến phi tài chính để đánh giá liệu một biến tài chính duy nhất có giải thích hầu hết
được những tác động của thâm hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm như lý thuyết
tăng trưởng và tiết kiệm đã lập luận.


Bảng 4. Kết quả hồi quy cho tăng trưởng biến phụ thuộc (GR)

Bảng 5. Kết quả hồi quy cho tiết kiệm trong nước (% GDP)

*** Mức ý nghĩa 1%; ** Mức ý nghĩa 5%; * Mức ý nghĩa 10%.
14 | P a g e


Biến phụ thuộc trong các hồi quy là tiết kiệm trong nước so với GDP. Khoảng thời gian từ năm
1990 đến năm 2008. Tất cả các biến giải thích được sử dụng trong các hồi quy là tỷ lệ phần
trăm của GDP. Việc lập dự toán kết quả cố định sử dụng dữ liệu chéo cố định (tác động cố định
quốc gia) và hiệu chỉnh cho tự tương quan của các sai số. Bảng GMM (Generalized Method of
Moments) được áp dụng cho mẫu để hạn chế số lượng các điều kiện thời điểm.
6.3 Thảo luận
Thâm hụt ngân sách tăng lên đã được coi là một trong những trở ngại chính về tăng
trưởng kinh tế trong nền kinh tế đang phát triển. Fischer (1993), cũng đã lập luận rằng thâm hụt
ngân sách lớn chỉ đơn giản là một chỉ số bất ổn kinh tế vĩ mô nói chung gây tổn hại đến tăng
trưởng kinh tế. Trái với các lý thuyết kinh tế chuẩn tắc và nhiều nghiên cứu thực nghiệm, kết
quả hồi quy của chúng tôi về thâm hụt ngân sách cho kết quả độc đáo. Như đã thể hiện trong
bảng 4, 5 và 6, các hệ số về kết quả thâm hụt ngân sách tương quan thuận có ý nghĩa đến tăng
trưởng kinh tế và tiết kiệm. Về cơ bản kết quả hồi quy của chúng tôi không phải là đầu tiên khi
nó cho thấy tương quan thuận giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế.
Tương tự như vậy kết quả hồi quy cho lạm phát cũng lặp lại những gì chúng ta đã quan
sát thấy trong các trường hợp thâm hụt. Tuy nhiên, kết quả là không đáng kể, ngoại trừ bảng 6
trong trường hợp tiết kiệm. Mặc dù nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng lạm phát và
tăng trưởng kinh tế có mối tương quan nghịch, (1991) ước tính cả của Fischer, Sala-I Martin
(1991) đã tìm thấy một liên kết không đáng kể giữa tăng trưởng và lạm phát. Trong thực tế,
mức độ lạm phát (tức là thấp, trung bình và cao) có ý nghĩa quan trọng tới giảm tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế. Tuyên bố này được hỗ trợ bởi nghiên cứu của Clark (1993). Ông đã nghiên cứu
rằng các quốc gia lạm phát thấp và trung bình không có mối quan hệ phù hợp và có ý nghĩa
giữa tăng trưởng và lạm phát. Hơn nữa, Levine và Zervos (1993) kết luận rằng những thay đổi
biên trong tỷ lệ lạm phát trung bình có thể không tương quan nghịch với tốc độ tăng trưởng. Hệ
số biến thuế trong kết quả hồi quy của chúng tôi là đáng kể và tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh
tế và tiết kiệm, phù hợp với lý thuyết kinh tế. Một số nghiên cứu thực nghiệm cũng khẳng định
rằng mức thuế suất cận biên cao sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế. Trong số đó, Padovano và
Galli (2001, 2002) đảm bảo rằng các tác động tiêu cực của thuế suất cận biên cao có tác động
tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.









15 | P a g e

Bảng 6. Hồi quy chỉ sử dụng các biến tài chính cho cả tăng trưởng và tiết kiệm


*** Mức ý nghĩa 1%; ** Mức ý nghĩa 5%; * Mức ý nghĩa 10%.
Biến phụ thuộc trong các hồi quy là tiết kiệm trong nước so với GDP. Khoảng thời gian
từ năm 1990 đến năm 2008. Tất cả các biến giải thích được sử dụng trong các hồi quy là tỷ lệ
phần trăm của GDP. Việc lập dự toán kết quả cố định sử dụng dữ liệu chéo cố định (tác động
cố định quốc gia) và hiệu chỉnh cho tự tương quan của các sai số. Bảng GMM được áp dụng
cho mẫu để hạn chế số lượng các điều kiện thời điểm.
Như dự kiến, mở cửa thương mại tương quan thuận có ý nghĩa đối với tăng trưởng và
tiết kiệm. Mặc dù nhiều nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ thuận mạnh mẽ giữa sự mở cửa
và tăng trưởng của nền kinh tế, nhưng lý thuyết lại hỗ trợ mối quan hệ thuận và mạnh mẽ giữa
mở cửa thương mại và tăng trưởng kinh tế. Kết quả trong bảng 4 cho thấy 1% tăng lên đối với
các thay thế của mở cửa thương mại có thể tăng 0,09% trong tăng trưởng kinh tế và tăng 0,08%
trong tiết kiệm quốc gia. Hệ số của biến tăng trưởng tài chính cho thấy mối tương quan thuận
và có ý nghĩa ở mức 10% đối với tăng trưởng kinh tế. Kết quả này được ủng hộ với kết quả của
Goldsmith (1969) và Mckinnon (1973), La Porta và cộng sự (1998) và Levine và cộng sự
(2000). Tuy nhiên, tăng trưởng tài chính thể hiện một mối quan hệ nghịch đáng kể với tiết
kiệm. Thực tế là trong một số nghiên cứu, tăng trưởng tài chính có kết quả không rõ ràng với
tiết kiệm. Một số cho rằng sự tồn tại của hệ thống tài chính vững mạnh và tiến bộ sẽ khuyến

khích tham gia tín dụng và gia tăng mức độ tiêu thụ, kết quả là làm giảm lượng tiết kiệm. Một
số khác cho rằng, tăng trưởng tài chính sẽ khuyến khích tiết kiệm một phần thu nhập của họ và
hưởng lãi suất và do đó nó sẽ góp phần tiết kiệm hơn.
Mức lãi suất thực tương quan nghịch và đáng kể với tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm.
Lãi suất thực cao hơn sẽ làm tăng động cơ để tiết kiệm và tiêu dùng ít hơn. Điều này là do tiêu
dùng trong tương lai rẻ hơn so với mức tiêu dùng hiện tại (tức tác động thay thế). Tuy nhiên,
những người có tiền tiết kiệm sẽ có thêm thu nhập từ lợi nhuận cao hơn, do đó có thể làm tăng
chi tiêu của họ (tức tác động thu nhập).

16 | P a g e

7. Kết luận và gợi ý chính sách
Phúc lợi của thế hệ kế tiếp được xác định bởi sự tăng trưởng kinh tế bền vững và chính
sách kinh tế vĩ mô hợp lý. Tăng trưởng kinh tế là một yếu tố quyết định quan trọng của đời
sống xã hội khi nó được thực hiện với tỷ lệ lạm phát và thất nghiệp thấp và ổn định.
Mục tiêu của nghiên cứu này là chỉ ra thâm hụt ngân sách cản trở tăng trưởng kinh tế
bền vững ở các nước đang phát triển như thế nào. Kết quả dự phòng hữu ích những gì sắp xảy
ra để có thể hiểu và thực hiện biện pháp phòng ngừa. Kết quả hồi quy của chúng tôi về thâm
hụt ngân sách cho thấy kết quả duy nhất. Như đã thể hiện trong bảng 3, 4 và 5, các hệ số về kết
quả thâm hụt ngân sách rõ ràng và có ý nghĩa liên quan đến tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm. Về
cơ bản kết quả hồi quy của chúng tôi không phải là đầu tiên khi nó cho thấy tương quan thuận
giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế.
Biến lãi suất thực tế tương quan nghịch và đáng kể với tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm,
điều này hỗ trợ lập luận lý thuyết chuẩn. Trong khi đó, kết quả hồi quy cho lạm phát cũng lặp
lại những gì chúng ta đã quan sát thấy trong các trường hợp thâm hụt. Tuy nhiên, kết quả là
không đáng kể, ngoại trừ bảng 5 trong trường hợp tiết kiệm. Mặc dù nhiều nghiên cứu thực
nghiệm đã khảo sát rằng lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối tương quan nghịch, cả ước tính
của Fischer (1991), Sala-I Martin (1991) đã tìm thấy một liên kết không đáng kể giữa tăng
trưởng và lạm phát.
Do đó chúng ta có thể kết luận rằng, thâm hụt ngân sách sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng

kinh tế và tiết kiệm thông qua các trung gian thâm hụt tài chính. Như chúng ta đã thấy cả thuế
và lãi suất thể hiện một mối quan hệ nghịch có ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm
ngoại trừ kết quả của nợ và lạm phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Arrow, K., Kurtz ,M., (1970), Public investment, the rate of return and optimal fiscal
policy. The John Hopkins Press, Baltimore.
2. Barro, R., (1990) Government spending in a simple model of endogenous growth.
Journal of Political Economy 98(1), 103–117.
3. Barro, R.J., Sala-I-Martin, X. (1992), „Public Finance in Models of Economic Growth‟,
Review of Economic Studies, 59, 645-661.
4. Barro, R.J., Sala-I-Martin, X. (1995), Economic Growth, Columbus: McGraw-Hill.
5. Bernheim, B.D. (1987) “Ricardian Equivalence: An Evaluation of Theory and
Evidence.” NBER Working Paper No. 2330. Cambridge, MA: National Bureau of
Economic Research.
6. Bernheim, B.D. (1989) “A Neoclassical Perspective on Budget Deficits.” Journal of
Economic Perspectives, 3(2), 55–72.
7. Bleaney, M., Gemmell, N., Kneller, R. (2001). „Testing the endogenous growth model:
public expenditure, taxation and growth over the long-run‟, Canadian Journal of
Economics, 34, 36-57.
8. Borcherding, T.E., Ferris, J. S., Garzoni, A. (2004) “Changes in the Real Size of
Government Since 1970", in Juergen Backhaus and Richard Wagner (eds.), Kluwer
Handbook in Public Finance New York: Kluwer Academic Press, 77-108.
17 | P a g e

9. Easterly, W., Rodriguez, C.A., Schmidt-Hebbel, K. (1994) "Public Sector Deficits and
Macroeconomic Performance" , WB publication.
10. Easterly, W., Rebelo, S. (1992): “Fiscal Policy and Economic Growth”, Journal of
Monetary Economics, 32(3), 417-58.
11. Easterly, W., Rebelo, S. (1993) Fiscal Policy and Economic Growth: an Empirical
Investigation. Journal of Monetary Economics, 32, 417-57.

12. Engen, E., Skinner, J. (1996), “Taxation and economic growth”, National Tax Journal,
49, 617-41
13. Fischer, S., (1993) "The Role of Macroeconomic Factors in Growth," Journal of
Monetary Economics, 32, 485-512.
14. Folster, S. Henrekson, M. (2001), „Growth Effects of Government Expenditure and
Taxation in rich Countries‟, European Journal of Political Economy, 45, 1501–1520.
15. Fu, D., Taylor, L.L., Yucel, M.K. (2003), “Fiscal policy and growth”, Research
Department Working Paper 0301, Federal Reserve Bank of Dallas.
16. Gale, W.G., Orszag, P.R. (2002) “The Economic Effects of Long–Term Fiscal
Discipline”, Discipline, Tax Policy Center Discussion Paper.
17. Ghosh, R., Hendrik, Van den B., (2009) ''Budget deficits and U.S. economic growth'',
Economics Bulletin, 29(4), 3015-3030.
18. Im K.S., Pesaran, M.H., Shin, Y. (2003), "Testing for Unit Roots in Heterogeneous
Panels", Journal. of Econometrics, 115, 53-74.
19. Kneller, R., Bleaney, M.F., Gemmel, N. (1999), “Fiscal policy and growth: Evidence
from the OECD countries”, Journal of Public Economics, 74, 171-190.
20. Levin, A., Lin, Chien-Fu A., Chu, Chia-Shang J. (2002) “Unit Root Tests in Panel Data:
Asymptotic and Finite-Sample Properties,” Journal of Econometrics, 108(1), 1-24.
21. Lucas, Robert E., Jr., (1988), On the mechanics of economic development, Journal of
Monetary Economics, 22, 3-42.
22. Marshall, A., (1996) Official papers of Alfred Marshall: a supplement, New York:
Cambridge University Press for the Royal Economic Society.
23. M‟Amanja, D., Morrisey, O., (2005), Fiscal policy and economic growth in Kenya,
CREDIT Research Paper, No. 05/06, Centre for Research in Economic Development
and International Trade, University of Nottingham.
24. McCartney, M. (2009) India - the political economy of growth, stagnation and the state,
1951-2007 / by Matthew McCartney. Oxon: Routledge, p.278.
25. Padovano, F., Galli, E. (2001), “Tax Rates and Economic Growth in the OECD
Countries: 1951- 1990″, Economic Inquiry, 39(1), 44-57.
26. Padovano F., Galli, E. (2002) “A Comparative Test of Alternative Theories of the

Determinants of Public Deficits”, Public Choice, 113, 37-58.
27. Romer, P.M., (1986) Increasing returns and long-run growth, Journal of Political
Economy, 94, 1002- 1037.
28. Roy, A.G., Berg, H.Van den (2009) ''Budget deficits and U.S. economic growth'',
Economics Bulletin, 29(4), 3015-3030.
29. Rubin, R.E., Orszag, P.R., Sinai, A. (2004) Sustained Budget Deficits: Longer-Run U.S.
Economic Performance and the Risk of Financial and Fiscal Disarray. Paper presented at the
AEA-NAEFA Joint Session, Allied Social Science Associations Annual Meetings, The Andrew
18 | P a g e

Brimmer Policy Forum, “National Economic and Financial Policies for Growth and Stability,”
San Diego, January 5.
30. Solow, R.M., (1956) “A Contribution to the Theory of Economic Growth”, The
Quarterly Journal of Economics, 70(1), 65-94.
31. Swan, T. (1956) “Economic Growth and Capital Accumulation”, Economic Record, 32,
344-361.
32. Trostel, P.A., (1993), “The Effect of Taxation on Human Capital”, Journal of Political
Economy,
101(2), 327-350.

PHỤ LỤC

19 | P a g e


20 | P a g e


21 | P a g e



×