Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MAY MẶC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 64 trang )

Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ GIẢI PHÁP CỦA LẠM PHÁT ĐẾN
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
MAY MẶC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM.
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp gắn liền với sự tăng lên đồng loạt
của giá cả và sự mất giá của tiền tệ, một phạm trù kinh tế vĩ mô chứa đựng nội hàm
phức tạp, là một căn bệnh tiềm ẩn đối với các nước có nền kinh tế phát triển theo cơ
chế thị trường, nó xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng các dấu hiệu mất cân đối: giữa
cung cầu hàng hoá, cung cầu tiền tệ.
Lạm phát mỗi lần xuất hiện đều mang theo sức mạnh tàn phá tiềm ẩn, làm rối
loạn nền kinh tế - xã hội, làm giảm sút mức sống của người dân và có thể nếu ở một
mức nào đó thì lạm phát gây ra rối ren chính trị xã hội. Ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm
soát lạm phát là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia trên
thế giới. Thực tế đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế, nhiều quốc gia
đã từng đối mặt với lạm phát và kiềm chế nó thành công. Nhưng không phải lúc nào
lạm phát cũng gây ra những tác động tiêu cực đến nền kinh tế mà nó cũng có những
tác động tích cực khi tốc độ tăng của chỉ số giá tiêu dùng ở mức 1 con số và trong tầm
kiểm soát của chính phủ. Chỉ số giá tiêu dùng đã tăng mạnh lên 2 con số và diễn biến
hết sức căng thẳng đến 8 tháng đầu năm 2008 buộc Chính phủ phải thực thi các giải
pháp thắt chặt nghiêm ngặt. Song do tác động của các giải pháp kiềm chế lạm phát
cùng với tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cuối năm 2008 và năm 2009 chỉ
số giá tiêu dùng lại được duy trì ở mức một con số và thậm chí có tháng chỉ số giá tiêu
dùng còn giảm đi so với tháng trước đó tức là có dấu hiệu giảm phát, ảnh hưởng đến
mục tiêu tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Song tác động của các gói kích thích kinh tế
trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu cộng với những biến động bất thường của
thời tiết, giá cả thế giới leo thang, giá vàng và đô la mỹ tăng mạnh đã đẩy chỉ số giá
tiêu dùng của Việt Nam tăng vọt vào cuối năm 2010 và chưa có dầu hiệu dừng lại, gây
tâm lý bất ổn trong dân chúng, áp lực lại một lần nữa đè nặng trên vai chính phủ trong
việc điều hành nên kinh tế và đe dọa đời sống nhân dân.


Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
1
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Ngành Dệt- May Việt Nam là một ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn, giá
trị xuất khẩu hàng năm luôn đạt mức cao. Trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam, Dệt-May là ngành có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai sau ngành Dầu khí.
Đến nay, ngành dệt may được coi là một trong những ngành có lợi thế nhất của Việt
Nam bởi nó sử dụng nhiều lao động và mang về nguồn ngoại tệ rất lớn cho Việt Nam.
Nhưng tình hình kinh tế với nhiều biến động như hiện nay, ngành Dệt- May nói
chung và ngành May mặc nói riêng gặp rất nhiều khó khăn. Tổng cục thống kê Việt
Nam cho biết tháng 1/2009 đạt 550 triệu đôla Mỹ, giảm 33,2% so với cùng kỳ năm
ngoái. Do kinh tế thế giới suy thoái, sản lượng và giá cả của ngành dệt may có thể
giảm tới 20%. Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu cụ thể sang thị trường Mỹ tăng mạnh
nhưng ngay sau đó đã có sự sụt giảm đáng kể. Xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ
tháng 5 năm 2009 tăng 10,68% so với tháng 4, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may của nước ta sang thị trường này đạt 1,8 tỷ USD, giảm 5,47% so với cùng kỳ
năm 2008. Đầu năm 2009, đã có nhiều bằng chứng cho thấy ngành dệt may đang có
chiều hướng đi xuống do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và bị
ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ bị suy yếu, ngành May mặc của Việt Nam gặp rất nhiều
khó khăn trong các đơn đặt hàng mới và tạo công ăn việc làm cho người lao động, đặc
biệt là các doanh nghiệp may mặc trên điạ bàn tỉnh Hà Nam.
Đánh giá về năm 2010, các thành viên hội đồng đều thống nhất nhận định: Việt
Nam đã thành công trong việc đạt được một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô năm 2010 mà Quốc
hội đã đề ra, nhưng mục tiêu kiềm chế lạm phát chưa thực hiện được, cán cân thanh toán
vẫn thâm hụt (mặc dù mức độ thâm hụt có giảm rõ rệt so với năm trước). Tuy nhiên, các
thành viên đều cho rằng 2010 là năm nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phục hồi.
Các thành viên hội đồng cũng dành thời gian tập trung phân tích sâu về các
nguyên nhân khách quan và chủ quan của việc tỷ lệ lạm phát tăng khá cao trong cả
năm 2010 (tăng 11,75%), đặc biệt trong những tháng cuối năm. Đến quý III/2010, về
cơ bản, chúng ta đã kiềm chế được lạm phát nhưng sang quý IV/2010, lạm phát tăng

cao ngoài khả năng dự đoán.
Năm 2010, ngành dệt may đạt kim ngạch xuất khẩu 11,2 tỷ USD, tăng 23,2% so
với năm 2009, trong bối cảnh số lượng đơn hàng xuất khẩu cũng rõ rệt, đồng thời lần đầu
tiên lọt vào top 5 thế giới về kim ngạch xuất khẩu. Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng nhận
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
2
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
định, năm 2011 may mặc xuất khẩu sẽ có nhiều hứa hẹn. Theo phân tích của các chuyên gia
trong ngành, ngay cả thời gian vừa qua châu Âu (một thị trường lớn nhập khẩu hàng may
mặc của Việt Nam) bị khủng hoảng nợ công nhưng cũng không ảnh hưởng nhiều đến việc
xuất khẩu hàng của các DN, bởi phần lớn sản phẩm may mặc xuất sang thị trường này
thuộc dòng hàng có giá trung bình. Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang hồi phục dần và mức
tiêu dùng cũng đã có dấu hiệu tăng, đây là chiều hướng tốt cho sản xuất xuất khẩu. Tuy
nhiên, những khó khăn của các DN may mặc đang phải đối mặt đó là nguồn lao động bị
thiếu hụt.
Do những tác động của lạm phát đến nền kinh tế đặc biệt là hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp may mặc. Trong thời gian thực tập, em nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề lạm phát của nước ta hiện nay và ảnh hưởng của nó
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp may mặc, và dưới sự giúp đỡ
của các thầy cô ở bộ môn vĩ mô định hướng đề tài, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp
nhằm hạn chế tác động của lạm phát đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp may mặc trên địa bàn tỉnh Hà Nam’’.
1.2. Xác lập và tuyên bố trong đề tài.
Qua đề tài này, em muốn tìm hiểu rõ hơn về tình hình lạm phát ở Việt Nam trong
thời gian gần đây và tác động của lạm phát đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp may mặc nói chung và các doanh nghiệp may mặc trên địa bàn tỉnh Hà
Nam nói riêng. Từ đó đưa ra giải pháp nhằm hạn chế tác động của lạm phát đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp may mặc.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu.
Hệ thống hóa lý luận về lạm phát, phân tích và đánh giá thực trạng tình hình

lạm phát trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2010, những tác động của nó đến nền
kinh tế - xã hội, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp may mặc.
Đề ra những biện pháp nhằm hạn chế lạm phát và tái lạm phát cao. Góp phần
vào việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội, từ đó góp phần vào việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng tiến nhanh, mạnh và vững chắc. Cụ thể tìm hiểu rõ
hơn về tình trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp May mặc trên địa bàn tỉnh
Hà Nam, những giải pháp của ngành, doanh nghiệp và chính phủ trước sự biến đổi bất
thường của lạm phát hiện nay.
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
3
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
1.4. Phạm vi nghiên cứu.
- Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu giải pháp đưa ra nhằm hạn
chế những tác động của lạm phát đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp May mặc.
- Giới hạn về không gian: Đề tài này phân tích tình hình lạm phát, tác động của
lạm phát và nền kinh tế thế giới đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành Dệt may
và của các doanh nghiệp May mặc trên địa bàn Hà Nam.
- Giới hạn về thời gian: Do khả năng có hạn nên trong đề tài này em xin phép
trình bày số liệu trong thời gian 4 năm 2007- 2010.
1.5. Kết cấu của luận văn.
Chương I: Tổng quan nghiên cứu về giải pháp của lạm phát đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp May mặc trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Chương II: Một số lý luận cơ bản về lạm phát tác động đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp May mặc trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Chương III: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng vấn đề
nghiên cứu về giải pháp nhằm hạn chế tác động của lạm phát đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp May mặc trên địa bàn tỉnh
Hà Nam.
Chương IV: Các kết luận và đề xuất của đề tài nghiên cứu

Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
4
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
CHƯƠNG II
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP MAY MẶC TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM.
2.1 Một số khái niệm cơ bản về lạm phát
2.1.1 Quan điểm và khái niệm về lạm phát
Lạm phát được định nghĩa là một quá trình giá tăng liên tục, tức là mức giá
chung tăng lên hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá. Nhưng điều này chưa nói
lên nguyên nhân và hậu quả của lạm phát. Chỉ có thể kết luận là lạm phát khi giá cả
chung tăng lên. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát.
- Học thuyết cơ cấu về lạm phát nói rằng: Lạm phát xuất hiện là do xung đột về
phân phối được báo hiệu bởi những dịch chuyển tăng giá và một hệ thống các qui luật
hình thành giá làm gia tăng thêm xung đột nêu trên thành một làn sóng tăng giá mạnh
mẽ thông qua cơ chế lan truyền.
- Học thuyết của các nhà tiền tệ cho rằng: Lạm phát là một hiện tượng thuần tuý
tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế.
- Trong bộ tư bản của mình Marx viết: “ Việc phát hành tiền giấy phải được
giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của
mình”. Điều này có nghĩa là khi số tiền giấy do nhà nước phát hành vào trong lưu
thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và
tình trạng lạm phát xuất hiện.
- Định nghĩa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và sử dụng rộng
rãi trong thị trường: “Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian”.
Nó được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát, chỉ số điều chỉnh GDP( D
GDP
).
2.1.2 Thước đo lạm phát

Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định,
các nhà thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ lạm phát là chỉ tiêu phản ánh
tỷ lệ tăng thêm hay giảm bớt của giá cả ở một thời điểm nào đó so với thời điểm trước.
Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công thức sau:
Tỷ lệ lạm phát Mức giá thời kỳ (t) − Mức giá thời kỳ (t-1)
thời kỳ (t ) = *100 %
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
5
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Mức giá thời kỳ (t-1)
Hai thước đo thông dụng để phản ánh tổng quát là chỉ số giá tiêu dùng ( CPI) và
chỉ số điều chỉnh (GDP).
- Chỉ số giá tiêu dùng ( CPI) biểu thị biến động về mức giá chung của một rổ
hàng hóa và dịch vụ cố định dùng cho tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và tính theo
công thức:

0
0 0
i i
t
i i
CPI
q p
q p
=


Ý nghĩa: CPI là một chỉ số có ý nghĩa quan trọng nhằm giúp theo dõi mức
tăng, giảm giá của hàng hóa tiêu dùng có ảnh hưởng đến đời sống cũng như tâm lý của
dân chúng. Bởi với việc phản ánh mức độ lạm phát, hay mức độ tăng giá cả tiêu dùng,

CPI là căn cứ quan trọng đánh giá năng lực điều tiết của chính phủ trong vận hành của
nền kinh tế. Do đó, việc tìm hiểu CPI một cách chuẩn xác và áp dụng một cách khoa
học trong phân tích kinh tế là vô cùng cần thiết không chỉ đối với các nhà hoạch định
chính sách, các chuyên gia kinh tế mà còn bổ ích với tất cả những ai muốn tham gia thị
trường hoặc quan tâm tới các vấn đề kinh tế.
CPI thường được sử dụng để điều chỉnh thu nhập của người dân và các hoạt
động kinh tế khác. Các thông tin về hoạt động bán lẻ, thu nhập theo giờ và theo tuần,
tổng thu nhập và tổng sản phẩm quốc dân được gắn kết với CPI để lý giải các chỉ số có
liên quan trong thời kì không có ảnh hưởng của lạm phát.
CPI là chỉ số đo lường sự thay đổi trong chi phí sinh hoạt được biết đến nhiều
nhất. CPI được sử dụng để điều chỉnh tiền lương, phúc lợi xã hội, lương hưu, thuế và
các chỉ số kinh tế khác nữa. Nó cũng cung cấp cho các nhà đầu tư các thông tin về
những biến động có thể xảy ra trên thị trường tài chính - nơi mà cổ phiếu có mối quan
hệ cả trực tiếp và gián tiếp đối với CPI, giúp các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết
định đầu tư phù hợp và bảo vệ mình bằng cách mua các công cụ đầu tư như TIPS.
- Chỉ số diều chỉnh GDP ( D
GDP
) đo lường mức giá trung bình của tất cả mọi
hàng hóa và dịch vụ được tính vào GDP và được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa
và GDP thực tế theo công thức:
0
i i
t t
i i
t
GDP
q p
q p
=



Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
6
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Trong đó, q
i
là lượng hàng hóa, p
i
là giá các mặt hàng, t là năm hiện hành, 0 là
năm gốc.
Ý nghĩa: Chỉ số điều chỉnh GDP phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá
của năm cơ sở. Chỉ số điều chỉnh GDP ở thời kỳ sau phản ánh sự gia tăng của GDP
danh nghĩa, nó chỉ cho biết sự thay đổi của sản lượng do giá thay đổi chứ không cho
biết sự gia tăng so với năm gốc của GDP thực tế.
2.2 Một số lý thuyết của lạm phát tác động đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
2.2.1. Phân loại lạm phát.
Dựa vào tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế thường chia làm 3 loại: lạm phát vừa
phải, lạm phát phi mã, siêu lạm phát.
- Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát 1con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%
một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối, trong thời kỳ này
nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định
biểu hiện ở: giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua
bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn.
Có thể nói lạm phát vừa phải tạo sự an tâm cho người lao động chỉ trông chờ
vào thu nhập, các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng
đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
- Lạm phát phi mã: Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2
hoặc 3 con số một năm. Ở mức phi mã làm cho giá cả tăng lên nhanh chóng, gây ra
biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ

hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình
thường, loại lạm phát này có thể làm biến dạng nền kinh tế.
- Siêu lạm phát: Xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao, vượt xa
lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh
kinh khủng, giá cả tăng nhanh, tiền lương thực tế bị giảm mạnh. Đó là loại lạm phát 4
con số, tỷ lệ lạm phát lên đến hàng ngàn lần phần trăm.
2.2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát
2.2.2.1. Lạm phát cầu kéo( lạm phát do cầu)
Lạm phát do cầu kéo thực chất là do sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu
hàng hoá và dịch vụ. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
7
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
một lượng cung hạn chế về hàng hóa có thể sản xuất được trong điều kiện thị trường
lao động đã đạt cân bằng.
Tổng cầu AD= C + I + G + X − M.
Đó là do các thành phần chi tiêu gia tăng ( bao gồm các yếu tố về C, I, G, X)
làm cho tổng cầu AD tăng, sản lượng tăng ít, giá tăng nhiều. Kết quả gây ra lạm phát
cầu kéo ( hình 2.1).
Mô hình:
Ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng ở E( P; Y = Y
*
).
Khi chính phủ sử dụng CSTK mở rộng hoặc do đầu tư tăng mạnh → AD tăng,
đường tổng cầu dịch chuyển từ AD → AD
1
.
Trạng thái cân bằng mới được xác định tại E
1
( P

1
; Y
1
).
Nền kinh tế có tăng trưởng ( Y
1
> Y = Y
*
), nhưng tốc độ tăng giá ( P
1
> P ) hay
lạm phát lớn hơn tốc độ tăng trưởng → cầu kéo giá.
Hình 2.1: Lạm phát do cầu kéo
2.2.2.2. Lạm phát chi phí đẩy ( lạm phát do cung )
Lạm phát chi phí đẩy xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn
bộ nền kinh tế. Khi giá đầu vào tăng làm cho tổng cung AS giảm và dẫn đến giá tăng
gây ra lạm phát. ( hình 2.2).
Mô hình:
Ban đầu nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng ở E( P; Y = Y
*
).
Giả sử chi phí đầu vào tăng → AS giảm, đường tổng cung dịch chuyển từ AS
→ AS
1
.
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
8
Y Y= Y* Y
1


P

P
1
AD
E
E
1
AD
1
0
P
AS
L
AS
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Trạng thái cân bằng mới được xác định tại E
1
( P
1
; Y
1
).
Nền kinh tế suy thoái ( Y
1
< Y = Y
*
), nhưng tốc độ tăng giá ( P
1
> P ) nhưng

không có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp.
Hình 2.2: Lạm phát do chi phí đẩy
2.2.2.3. Lạm phát cơ cấu.
Theo trường phái này, nguyên nhân của lạm phát là do sự mất cân đối về cơ cấu
kinh tế, mâu thuẫn về phân phối gây ra tăng giá. Cơ chế lan truyền đã tạo nên căng
thẳng thêm các mâu thuẫn đó và làm cho lạm phát tăng cao. Có một số nhà kinh tế
theo trường phái cơ cấu cho rằng: Lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi muốn tăng
trưởng cao nhưng nó lại tồn tại nhiều khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém. Lạm phát do
mất cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ không bình thường trong các cân đối lớn
của nền kinh tế như công nghiệp – nông nghiệp, công nghiệp nặng – công nghiệp nhẹ,
sản xuất – dịch vụ. Những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế, xã hội do tăng trưởng
kinh tế thường dẫn đến giá tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được hoàn chỉnh, các
nguồn vật lực có giới hạn, các quan hệ không được đặt trong một sự cân đối hợp lý,
năng lực sản xuất không được khai thác hết, trạng thái vừa thiếu vừa thừa xuất hiện.
Cụ thể tình trạng mất cân đối thường xuất hiện là:
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
Y Y= Y*Y
1

P

P
1
AD
E
0
P

AS
L

AS
1
AS
9
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
- Mất cân đối giữa cung cầu lương thực, thực phẩm.
- Ngoại tệ có hạn do nhập nhiều hơn xuất.
- Ngân sách bị thâm hụt và bị hạn chế do thu được ít nhưng nhu cầu chi cao.
2.2.2.4. Lạm phát tiền tệ.
Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của
hiện tượng lạm phát. Tuy nhiên nhiều tác giả khác, ví dụ như Friedman đã đi xa hơn
và đề ra một hình thái mạnh hơn của chủ nghĩa tiền tệ. Ông đã chỉ ra trực tiếp mối
quan hệ nhân quả trực tiếp giữa cung tiền và lạm phát:‘‘ Lạm phát ở đâu và bao giờ
cũng là hiện tượng tiền tệ và nó chỉ có thể xuất hiện một khi cung tiền tăng nhanh
hơn sản lượng’’. Kết luận này dựa trên hai điều. Thứ nhất, các nhà tiền tệ cho rằng lạm
phát gây ra bởi sự dư thừa tổng cầu so với tổng cung. Thứ hai, nó giả sử rằng mối quan
hệ nhân quả bắt nguồn từ tác động của cung ứng tiền đến mức giá, chứ không phải
ngược lại là giá cả tăng lên làm tăng lượng tiền cung ứng.
Giả sử Y là mức sản lượng mà nền kinh tế tạo ra trong một năm và P là giá của
một đơn vị sản lượng điển hình, khi đó số đồng được trao đổi trong năm bằng P* Y.
Nếu chúng ta ký hiệu V là tốc độ chu chuyển, tức là số lần trung bình mà một tờ giấy
bạc điển hình được suử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ trong một năm, và M là
cung tiền, thì số đơn vị tiền tệ trao đổi trong năm cần phải bằng M* V. Do vậy ta có
đồng nhất thức:
M* V= P* Y
Đó là phuơng trình số lượng, bởi vì nó phản ánh mối quan hệ giữa lượng tiền
cung ứng (M) và GDP danh nghĩa (P* Y). Phuơng trình số lượng cho thấy sự gia tăng
lượng tiền trong nền kinh tế phải được phản ánh ở một trong ba biến số khác: mức giá
phải tăng, sản lượng phải tăng, hoặc tốc độ chu chuyển tiền tệ phải giảm.
Nhìn chung tốc độ chu chuyển tiền tệ tương đối ổn định theo thời gian. Khi đó,

lạm phát (P tăng) chỉ có thể xảy ra khi lượng tiền cung ứng (M) tăng nhanh hơn sản
lượng (Y): tốc độ tăng cung tiền càng cao thì tỷ lệ lạm phát càng cao ( khi các nhân tố
khác không thay đổi). Đồng thời, các biện pháp chính sách mà một nhà nước cần thực
hiện để giảm lạm phát chính là cắt giảm tốc độ cung ứng tiền tệ. Như vậy theo quan
điểm này, chính sách tiền tệ sẽ là chính sách then chốt nhằm kiểm soát lạm phát; và
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
10
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
chính sách tài khóa cũng có thể ảnh hưởng đến lạm phát bởi vì thâm hụt ngân sách của
chính phủ có xu hướng làm tăng cung tiền.
2.2.2.5: Các nguyên nhân khác gây ra lạm phát:
- Nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, sản xuất sút kém, ngân sách quốc gia bị thâm
hụt nghiêm trọng, nguồn dự trữ không đủ bù đắp, nhà nước quyết định phát hành thêm tiền
để khắc phục làm cho lượng tiền trong lưu thông dư thừa và đẩy giá cả lên cao.
- Hệ thống chính trị bị khủng hoảng do những tác động từ bên trong hoặc bên
ngoài, làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ của Nhà nước bị xói mòn từ
đó làm cho uy tín và sức mua của đồng tiền bị giảm sút.
- Lạm phát xuất hiện từ nguyên nhân chủ quan. Đó là việc Nhà nước chủ động
sử dụng lạm phát như là một công cụ để thực thi chính kinh tế của mình.
Thông thường lạm phát xuất hiện là do các nguyên nhân khách quan, tuy vậy có
những trường hợp chính phủ chủ động sử dụng các công cụ tài chính của mình làm
xuất hiện lạm phát. Vì không phải lạm phát xảy ra là có ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển của nền kinh tế, mà biết xác định tỷ lệ lạm phát hợp lý, vừa phải sẽ có tác động
tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế.
2.3. Một số nghiên cứu có liên quan
Qua tìm hiểu và thu thập trên sách báo, internet, thư viện , một số nghiên cứu
có liên quan đến đề tài có thể kể đến như:
* Những giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
ngành May mặc Việt Nam của Phạm Thị Thu Phương- Đại Học Quốc Gia Tp Hồ Chí
Minh. Thư viện quốc gia: LA04.0867. Nội dung chính của bài luận án này là: Làm

sáng tỏ cơ sở khoa học về phát triển và nâng cao hiệu quả ngành May mặc trong quá
trình công nghiệp hóa ở Việt Nam. Phân tích các yếu tố chủ yếu thuộc môi trường kinh
doanh ảnh hưởng đến ngành may, những giải pháp chiến lược nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh ngành May Việt Nam đến năm 2010.
* Một số cơ sở định hướng chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của ngành
May Việt Nam đến năm 2010 của Võ Phước Tấn. Thư viện quốc gia: LA04.11107.
Nội dung tóm tắt: Tổng quan về ngành May Việt Nam, vị trí, lịch sử và sự phân bố sản
xuất trong nước vào ngành may Việt Nam trong nền kinh tế quốc dân. Một số cơ sở
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
11
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
chủ yếu để định hướng chiến lược phát triển ngành may và các giải pháp, kiến nghị
nhằm thực hiện định hướng chiến lược phát triển ngành May Việt Nam đến năm 2010.
* Lạm phát và hành trình chống lạm phát ở Việt Nam của TS. Lê Quốc Lý, XB
2005. Đây là cuốn sách hay với nội dung chủ yếu đề cập đến thực trạng và giải pháp
chống lạm phát ở Việt Nam. Ngoài ra, tác giả nêu kinh nghiệm chống lạm phát ở một
số nước Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, Campuchia.
* Lạm phát và một số biện pháp kiềm chế lạm phát trong tình hình kinh tế xã
hội Việt Nam của Phạm Minh Tuấn. Nội dung tóm tắt: Tổng quan về lạm phát. Phân
tích diễn biến và nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.
* Nhận diện lạm phát ở Việt Nam và đối sách, đăng trên tạp chí nghiên cứu
kinh tế, số 1 năm 2009. Bài viết khắc họa rõ nét toàn cảnh lạm phát Việt Nam năm
2008. Từ đó đưa ra những giải pháp, chính sách cần triển khai phát triển nền kinh tế,
xã hội an toàn, bền vững trong những năm tới, cũng như ngăn ngừa những nguy cơ
lạm phát trở lại.
2.4. Phân định nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài
2.4.1. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế
2.4.1.1. Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế , xã hội.
- Lạm phát có thể làm tăng trưởng kinh tế do phân phối lại thu nhập từ khu vực

tư nhân sang khu vực nhà nước. Thậm chí nếu dự báo và điều chỉnh một cách hoàn
toàn được lạm phát thì lạm phát giống như tăng thuế đối với khu vực tư nhân để tăng
thu nhập cho khu vực nhà nước và tăng nguồn cho đầu tư thực tế. Kết quả là làm tăng
tổng đầu tư và cuối cùng làm cho tăng trưởng kinh tế được nâng lên.
- Một số nhà kinh tế cho rằng: Lạm phát làm mức lãi suất thực tế giảm, tạo ra
sự mất cân bằng ở thị trường vốn. Điều này làm cho cung nguồn vốn đầu tư giảm và
kết quả làm cho đầu tư tư nhân bị hạn chế do cung nguồn vay bị giới hạn. Do đó, lạm
phát đưa đến giảm lãi suất thực dương và mất cân bằng ở thị trường vốn, kết quả là
làm đầu tư và tăng trưởng kinh tế giảm.
- Đầu tư tư nhân bị giảm do lạm phát là chuyển nguồn lực từ khu vực tư nhân
sang khu vực nhà nước. Tăng đầu tư của nhà nước có thể đẩy đầu tư của tư nhân ra
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
12
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
ngoài nếu nó sử dụng các nguồn lực khan hiếm mà những nguồn lực này có khi lại có
sẵn trong khu vực tư nhân và có thể tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh tốt.
Nếu lạm phát cao và luôn luôn biến đổi, thì đầu tư của khu vực ngoài quốc
doanh sẽ dồn sang đầu tư thu lợi nhuận nhanh và giảm đầu tư dài hạn. Mặt khác khi
lạm phát cao, vốn trong nước thừa nhưng có ít đầu tư dài hạn vì sợ rủi ro.
- Khi lạm phát vừa phải xảy ra, nó làm cho giá cả hàng hoá tăng nhẹ, các doanh
nghiệp có cơ hội thu lợi nhuận lớn hơn từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, kích
thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh. Làm GDP trong nền kinh tế
tăng, lạm phát vừa phải làm cho đồng nội tệ mất giá nhẹ so với đồng ngoại tệ. Đây là
một lợi thế để doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, tăng thu ngoại hối, khuyến
khích sản xuất trong nước phát triển.
2.4.1.2: Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế xã hội.
- Nếu lạm phát ở mức có thể tiên đoán được thì có thể tránh được những hậu quả
xấu. Còn lạm phát không thể tiên đoán được thì hậu quả sẽ khó có thể lường trước được.
- Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế: Khi lạm phát xảy ra nó làm
lệch lạc cơ cấu giá cả, kéo theo là nguồn tài nguyên, vốn và nguồn nhân lực không

được phân bổ một cách có hiệu quả, kết cục làm cho tăng trưởng chậm lại.
- Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài
hạn: Nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắn hoặc không thể dự đoán được mức giá
cả trong tương lai, kéo theo là không thể biết được lãi suất thực thì không ai trong số
họ dám liều lĩnh đầu tư, nhất là các dự án đàu tư dài hạn mặc dù các điều kiện đầu tư
khác là khá hấp dẫn và ưu đãi. Tính không chắc chắn của mức độ lạm phát sẽ đẩy lãi
suất thực lên cao bởi chủ nợ muốn có sự đảm bảo cho sự rủi ro lớn. Mức lãi suất thực
cao này sẽ kìm hãm đầu tư và làm chậm tốc độ tăng trưởng.
- Lạm phát cao khuyến khích người dân quan tâm đến lợi ích trước mắt. Khi có
lạm phát cao xảy ra ở một nước, thay cho việc ký thác tiền trong ngân hàng để tìm
kiếm lợi nhuận, dân chúng có thể đổ xô đi mua hàng để dự trữ vì kỳ vọng giá còn tăng
nữa. Điều này vô hình làm tăng cầu hàng hoá một cách giả tạo và như vậy càng làm
cho lạm phát có nguy cơ bùng nổ đến mức độ cao hơn
- Lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của quốc
gia. Chính phủ của các nước đã từng trải qua lạm phát cao đều cho rằng không kiểm soát
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
13
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
được lạm phát là điều đáng sợ nhất. Toàn bộ hoạt động kinh tế bị méo mó, biến dạng
nghiêm trọng, gây tâm lý xã hội phức tạp và gây lãng phí ghê gớm trong sản xuất.
- Lạm phát cao làm giảm các nguồn thu từ thuế cho ngân sách nhà nước. Những
tác động làm giảm này xét trên cả hai phương diện trực tiếp và gián tiếp. Một mặt lạm
phát cao dẫn đến sản xuất bị đình đốn làm cho nguồn thu thuế bị giảm sút cả về mặt
quy mô và chất lượng. Mặt khác, lạm phát cao đồng nghĩa với sự mất giá của đồng
tiền do vậy, với cùng một số lượng tiền thu từ thuế thì giá trị nguồn thu thực tế của nó
giảm xuống khi có lạm phát cao.
- Khi lạm phát ở mức độ quá cao ( lạm phát phi mã hay siêu lạm phát) thì lại có
ảnh hưởng xấu đến các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân
Trong lĩnh vực sản xuất: Lạm phát làm cho giá cả vật tư, nguyên vật liệu, hàng
hoá tăng dẫn đến lợi nhuận ngày càng giảm sút và không chính xác. Vì mục tiêu của

các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận do vậy khi lợi nhuận của doanh nghiệp bị
giảm đi các doanh nghiệp sẽ thu hẹp quy mô sản xuất lại, từ đó làm gia tăng tình trạng
phát triển không đều, mất cân đối giữa các ngành sản xuất.
Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá: Khi lạm phát xảy ra mọi người sẽ thay vì
gửi tiền để thu lợi họ sẽ dùng số tiền đó để mua hàng hoá dự trữ bởi họ nghĩ rằng giá
của hàng hoá còn tăng nữa, từ đó tạo nên nhu cầu giả tạo làm sự mất cân đối giữa cung
và cầu ngày càng gia tăng, đồng thời làm cho quá trình lưu thông bị rối loạn.
Trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát phá vỡ chức năng của tiền tệ, làm
cho sức mua của đồng tiền giảm sút một cách nhanh chóng, hoạt động của hệ thống
ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng, ảnh hưởng lớn đến vai trò điều hoà lưu
thông tiền tệ của ngân hàng.
Trong lĩnh vực tài chính Nhà nước: Lạm phát làm cho thu ngân sách Nhà nước
ngày càng bị thu hẹp dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách Nhà nước
Đối với tiêu dùng và đời sống của người lao động: Lạm phát làm tăng giá của các
hàng hoá, dịch vụ nên làm cho tiêu dùng thực tế của người dân giảm sút, đời sống dân cư
trở nên khó khăn, tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng do quy mô sản xuất ngày càng
bị thu hẹp và suy cho cùng người lao động là người phải gánh chịu hậu quả nhiều nhất.
2.4.2. Tác động của lạm phát đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
14
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Lạm phát tác động đến sản xuất kinh doanh, cụ thể làm rối loạn chức năng
thước đo giá trị của tiền nên đồng thời làm biến dạng các yếu tố và tín hiệu thị trường.
Các hoạt động kinh tế – xã hội, đặc biệt là các hoạt động sản xuất kinh doanh không
thể tiến hành bình thường được. Các nhà kinh doanh không tính toán được lỗ lãi,
không ai dám đầu tư nhất là đầu tư dài hạn vì sợ mất vốn. Các nhà đầu tư nước ngoài
và trong nước đều lo sợ khiến cho nền kinh tế khó tăng trưởng, thất nghiệp sẽ nhiều
hơn và khó giải quyết hơn.
Lạm phát làm giảm doanh thu của các doanh nghiệp. Lạm phát làm suy giảm
lòng tin vào triển vọng kinh doanh, nhiều doanh nghiệp cho rằng lạm phát ảnh hưởng

đến chiến lược kinh doanh của họ dẫn đến doanh thu giảm. Trong cuộc khảo sát do
Công ty Dịch vụ thông tin tài chính WVB Việt Nam và Công ty cổ phần Đầu tư và Tư
vấn tài chính Dầu khí ( PVFC Invest ) tiến hành từ ngày 15/ 12/ 2010 đến đầu tháng 1/
2011 tại 233 doanh nghiệp thuộc 11 lĩnh vực ngành nghề chủ chốt của Việt Nam ( hơn
75% trong số đó là các doanh nghiệp đại diện cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ ) đã
rút ra kết luận trên. Cụ thể, chỉ còn 68,24% doanh nghiệp được hỏi tin rằng doanh thu
của doanh nghiệp mình sẽ tăng trong vòng 12 tháng tới; 27,9% các doanh nghiệp cho
rằng doanh thu của doanh nghiệp sẽ giữ nguyên; 3,86% các doanh nghiệp còn lại lo
ngại doanh thu sẽ giảm
Lạm phát tác động đến các loại chi phí khác nhau của doanh nghiệp ở mức độ
nào? Và doanh nghiệp có thể tăng giá sản phẩm lên bao nhiêu trong thời kì lạm phát? Để
trả lời những câu hỏi trên, có 4 yếu tố cần phải xem xét. Đó là: các điều khoản trong hợp
đồng của công ty, mối quan hệ với nhà cung cấp và khách hàng, mức độ ảnh hưởng của
lạm phát đối với nhà cung cấp và khách hàng, và cuối cùng là mức độ cạnh tranh.
Trong bối cảnh lạm phát gia tăng, các hoạt động kinh doanh sẽ khó dự báo hơn
vì sự biến động giá cả đầu vào kinh doanh. Bên cạnh đó, có một thời gian chừng một
tháng, đồng nội tệ lên giá so với USD, gây ra hiệu ứng kép đối với việc tăng giá hàng
XK. Hiệu ứng này là nghi vấn đối với việc hạn chế năng lực XK của hầu hết các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mặc dù chúng ta cũng chưa có nghiên cứu hoặc thực chứng
để “quy kết” trách nhiệm hoàn toàn cho lạm phát, nhưng tác động có thể quan sát rõ.
Bên cạnh đó, hàng nhập khẩu cũng tăng mạnh, và là mối đe dọa thường trực với hàng
hóa tiêu thụ nội địa, đặc biệt với doanh nghiệp theo xu hướng “thay thế nhập khẩu”.
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
15
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Lạm phát giảm lợi nhuận thu được trên thực tế trong khi các nhà quản lý cứ ngỡ
rằng công ty mình đang phát triển. Mức độ ảnh hưởng của lạm phát đến lợi nhuận của
công ty lớn hay nhỏ phụ thuộc vào hai yếu tố. Một là khả năng hạn chế sự tăng giá từ
phía nhà cung cấp. Hai là khả năng định giá sản phẩm cao hơn mà khách hàng vẫn chấp
nhận. Lạm phát cũng khiến mức đầu tư giảm và ảnh hưởng đến phân bổ tài nguyên. Giá

trị thị trường suy giảm, cổ phần hầu như không sinh lãi trong thời kì lạm phát.
Đồng thời, cũng như bất kì mối đe dọa kinh tế nào khác, lạm phát chính là "lửa thử
vàng" dành cho các doanh nghiệp. Những công ty muốn vượt qua các ảnh hưởng tiêu cực
của lạm phát có thể lợi dụng giai đoạn này để đánh bại các đối thủ yếu hơn và nâng lợi thế
cạnh tranh của mình. Quá trình chuẩn bị hoàn thành càng sớm thì công ty càng có khả
năng hạn chế tác động của lạm phát đến các hoạt động kinh doanh của mình. Và càng đợi
lâu thì việc đối phó hiệu quả với lạm phát càng khó khăn hơn.
Lạm phát cũng tác động đến lao động. Một vấn đề cũng trực tiếp tác động tới
DN, mặc dù không nhất thiết là trong hoạt động ngoại thương là chi phí lao động tăng
rất mạnh. Trước tình hình kinh tế biến động phức tạp, lạm phát diễn biến bất thường,
kế hoạch về tuyển dụng lao động cũng gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp phải đối
mặt với việc làm thế nào để giữ chân người lao động.
2.4.3. Tác động của lạm phát đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp may mặc trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Dệt may là một trong 3 lĩnh vực công nghiệp chủ đạo của tỉnh Hà Nam. Hà
Nam có 06 nhà máy may và 01 nhà máy dệt len do 04 công ty quản lý với số lượng
máy may khoảng 4.500 máy. Hiện nay, nguồn lao động kỹ thuật cho ngành may còn
rất dồi dào. Định hướng của tỉnh là tiếp tục phát triển ngành may để thu hút lao động
địa phương và tăng kim ngạch xuất khẩu bằng cách nâng công suất đã có của các
doanh nghiệp lên gấp đôi và xây dựng thêm 02 nhà máy, vốn đầu tư cho mỗi nhà máy
khoảng 2 - 3 triệu USD.
Những công ty trong ngành dệt may như Dệt Hà Nam với những chiến lược
phát triển thương hiệu đúng đắn thông qua việc đầu tư cho cơ sở vật chất và con người
một cách bền vững sẽ góp phần nâng tầm lĩnh vực công nghiệp dệt may của Việt Nam
so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hàng may mặc là mặt hàng mới và phát triển nhanh ở Hà Nam. Hiện nay trên
địa bàn tỉnh đã có 4 doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc xuất khẩu (3 doanh nghiệp
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
16
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế

địa phương, 1 doanh nghiệp TW). Giá trị hàng may mặc xuất khẩu tăng nhanh hàng
năm. Hiện nay, một số doanh nghiệp đang triển khai các dự án may xuất khẩu như:
Công ty đầu tư Hà Nam, công ty Việt Anh… Theo như các doanh nghiệp may mặc
trên địa bàn tỉnh, đa số các doanh nghiệp may mặc hiện chỉ thực hiện gia công theo
đơn đặt hàng. Việc đảm bảo đúng giao hàng theo hợp đồng là hết sức quan trọng, đồng
thời, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu nên cần đảm bảo chất lượng sản phẩm cao. Lạm
phát ảnh hưởng đến tổng quỹ lương của doanh nghiệp, các doanh nghiệp may mặc Hà
Nam phải chi trả nhiều hơn trong việc trả lương cho nhân viên, lạm phát tăng khiến
sức ép bị nghỉ việc cũng tăng.
Nhưng bên cạnh thuận lợi về nhân công thì ngành dệt may từ cuối năm 2010
bước sang năm 2011 đã gặp phải thách thức về giá cả nguyên liệu đầu vào do giá
nguyên liệu thế giới bất ổn. Giá bông nhập vào từ 3,18 USD/kg tăng lên 4,8 USD/kg,
có thời điểm tăng mạnh nhất là 5,2 USD/kg bông. Bên cạnh đó là lạm phát, tỷ giá biến
động mạnh khiến doanh nghiệp gặp rủi ro và thiệt hại lớn khi đơn giá hợp đồng xuất
khẩu sản phẩm đã được ký kết với khách hàng không tăng. Mặt khác, việc cung cấp
điện cho các vùng ven đô hoặc khu vực nông thôn, nơi tập trung nhiều nhà máy, xí
nghiệp lại thất thường. Điện phục vụ cho sản xuất không được duy trì, bình ổn như
khu vực thành thị nên các doanh nghiệp như dệt may gặp rất nhiều khó khăn và dự báo
khó có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng 20%. Mức lạm phát năm 2010 lên tới
11,75% không những đã và đang làm cho đời sống của những người làm công ăn
lương gặp vô vàn khốn khó mà còn gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
17
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
CHƯƠNG III
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỀ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ
TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT ĐẾN HOẠT ĐỘNG
SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
MAY MẶC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ NAM.

3.1 Phương pháp hệ nghiên cứu
3.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu.
Thu thập dữ liệu là một giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá
trình nghiên cứu các hiện tượng kinh tế xã hội. Tuy nhiên việc thu thập dữ liệu lại
thường tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí; do đó cần phải nắm chắc các phương
pháp thu thập dữ liệu để từ đó chọn ra các phương pháp thích hợp với hiện tượng, làm
cơ sở để lập kế hoạch thu thập dữ liệu một cách khoa học, nhằm để đạt được hiệu quả
cao nhất của giai đoạn quan trọng này.
* Phương pháp sử dụng phiếu điều tra trắc nghiệm.
+ Nội dung của các câu hỏi của phiếu điều tra phỏng vấn xoay quanh vấn đề
ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp May
mặc trên địa bàn tỉnh Hà Nam .
+ Cách tiến hành: mẫu phiếu điều tra được đưa cho nhân viên của hai công ty
May, đó là Công ty dệt Hà Nam và công ty TNHH dệt may Hoàng Dũng. Số lượng
phiếu phát ra là 20 phiếu, thu về 20 phiếu, 20/ 20 phiếu hợp lệ.
+ Ưu, nhược điểm của phương pháp: thu thập được nhiều thông tin hơn và đảm
bảo độ tin cậy cao nhưng tốn nhiều thời gian, công sức thu thập, xử lý.
* Phương pháp phỏng vấn các chuyên gia.
+ Nội dung của các câu hỏi xoay quanh về tình hình kinh doanh của doanh
nghiệp trước những tác động của lạm phát, những biện pháp của các doanh nghiệp
nhằm phát triển sản xuất kinh doanh của mình.
+ Cách tiến hành: mời các chuyên gia là những trưởng, phó phòng kinh doanh tư vấn.
+ Ưu, nhược điểm: giúp ta hiểu rõ được sâu hơn tình hình kinh doanh của
doanh nghiệp nhưng vẫn còn chưa có sự hiểu biết sâu về những ảnh hưởng của lạm
phát đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
18
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
* Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp
+ Cách thu thập: sử dụng các nguồn dữ liệu trên internet, tạp chí và đặc biệt là

bằng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của hai công ty là công ty dệt Hà Nam và
công ty TNHH dệt may Hoàng Dũng.
+ Cách xử lý dữ liệu: từ những kết quả thu được ta chỉ chọn lọc lấy những số
liệu cần thiết phục vụ cho phân tích của đề tài.
3.1.2. Phương pháp xử lý, phân tích, tổng hợp số liệu.
Sau khi thu thập dữ liệu, tổng hợp và chọn lọc được những dữ liệu phù hợp, bắt
đầu tiến hành phân tích dữ liệu bằng cách sử dụng các phương pháp như sau:
Phương pháp thống kê, so sánh.
Phương pháp minh họa: bằng các biểu đồ, đồ thị.
Sử dụng phần mềm SPSS: Là một hệ thống phần mềm thống kê toàn diện được
thiết kế để thực hiện tất cả các bước trong phân tích thống kê, mô tả, xử lý dữ liệu
được thu thập trực tiếp từ các phiếu điều tra.
3.2. Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng của nhân tố môi trường
3.2.1. Tình hình chung của kinh tế thế giới trong thời gian gần đây.
Bước sang năm 2010, tuy ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế đã tạm lắng nhưng
vẫn còn tiểm ẩn nhiều biến động, điển hình là khủng hoảng nợ công của Hi Lạp, các
nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Ý và Bồ Đào Nha cũng đang đứng trước nguy cơ
tương tự và bong bóng tài sản ở Trung Quốc.
“Thời kỳ “đen tối” nhất của kinh tế thế giới gần như đã lùi lại đằng sau. Mặc dù còn
nhiều lo ngại, nhưng sự hồi phục kinh tế đang được hỗ trợ bởi chính sách tiền tệ và tài khoá
thông thoáng hơn. Chiến lược “hiện thực hoá lợi nhuận” đã và đang được áp dụng sớm ở
các nền kinh tế phát triển là một trong những rủi ro cho nền kinh tế toàn cầu.
Mặc dù thời kỳ đen tối nhất đã lùi lại đằng sau, nhưng nhà đầu tư vẫn còn lo ngại.
Điều này thể hiện ở việc: tăng trưởng kinh tế chậm ở Mỹ; sức cầu từ doanh nghiệp tăng
trưởng mạnh hơn và yếu hơn từ các hộ gia đình; tăng trưởng kinh tế Mỹ không còn được
hỗ trợ bởi việc điều chỉnh hàng tồn kho, chu kỳ kinh doanh có xu hướng dài hơn chu kỳ
hàng tồn kho và GDP được kéo bởi việc đầu tư vào nhà ở trong ngắn hạn
Các điều kiện thuận lợi được duy trì, đặc biệt với các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển. Chính sách tiền tệ thông thoáng hơn ở các nước phát triển có khả năng
lan rộng ra toàn cầu và bù đắp cho chính sách thắt chặt ở các nền kinh tế mới nổi và

đang phát triển.
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
19
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Mặc dù các nền kinh tế Châu Âu bắt đầu thắt chặt chính sách tài khoá, các nền
kinh tế mới nổi và đang phát triển vẫn cần tiếp tục dùng nguồn lực trong nước đầu tư
vào cơ sở hạ tầng. Sự phát triển của tầng lớp trung lưu và thượng lưu ở các nền kinh tế
thứ 3 cũng là một yếu tố tích cực.
Tốc độ tăng trưởng tại các nền kinh tế thứ cấp cao hơn ở các nền kinh tế cao
cấp. Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển tiếp tục đóng vai trò quan trọng hơn.
Sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu càng thuận lợi hơn với khu vực đồng tiền chung Châu
Âu. Tuy nhiên, việc“hiện thực hoá lợi nhuận” sớm làm giảm tính thanh khoản là một
rủi ro với sự hồi phục kinh tế toàn cầu”.
3.2.2 Thực trạng tình hình lạm phát ở Việt Nam
Qua vài năm gần đây tỷ lệ lạm phát ở nước ta diễn biến ngày càng phức tạp.
Sau đây bảng tỷ giá lạm phát của Việt Nam trong một số năm gần đây.
Bảng 3.1: Lạm phát ở Việt Nam qua các năm
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
CPI(%) 3.0 9.5 8.4 6.6 12.63 19.89 6.52 11.75
Nguồn: Tổng cục thống

Từ bảng dữ liệu ta có biểu đồ thể hiện sự biến động của tỷ lệ lạm phát ở nước ta:
Hình 3.1: Biểu đồ thể hiện sự biến động của tỷ lệ lạm phát qua các năm
Nhìn qua bảng tỷ lệ lạm phát trên, tình hình lạm phát ở nước ta trong những
năm gần đây có diễn biến phức tạp.
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
20
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Hình 3.2: Chỉ số giá tiêu dùng các năm
Nguồn: Tổng cục thống kê

* Năm 2007.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2007 là 8,48% . Theo số liệu của
Tổng cục Thống kê Việt Nam, năm 2007 đã ghi nhận cán cân vãng lai thâm hụt ở mức
đáng lo ngại, ước khoảng 9,3% - 9,7% GDP. Tổng kim ngạch nhập khẩu tăng gần
40%, trong đó máy móc thiết bị tăng 56,5% do nhu cầu đầu tư của các dự án lớn trong
nước. Mức tăng nhập khẩu cũng cao tương tự đối với nhóm hàng nguyên nhiên vật
liệu dùng trong sản xuất hàng may mặc và giày dép xuất khẩu, hoá chất, sản xuất thức
ăn giá súc… ước tăng khoảng 40%.
Sự mở rộng mạnh mẽ nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư nhân và công cộng là nhân tố
làm cho tổng cầu tăng nóng. Tổng đầu tư của toàn xã hội năm 2007 khoảng 493,6
nghìn tỷ đồng, chiếm 43% GDP với số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được phê duyệt
đạt 21,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt 6,4 tỷ USD, cao hơn 77% so với năm 2006.
Tổng cầu tăng nóng vượt quá khả năng của một nền kinh tế còn tồn tại nhiều vấn đề"
thắt cổ chai" liên quan tới hạ tầng kinh tế, xã hội và pháp luật đã làm gia tăng áp lực
lạm phát. Lạm phát năm 2007 ở mức cao 12,63%. Trong rổ 10 nhóm mặt hàng được
đưa ra tính chỉ số giá tiêu dùng, giá cả 10 nhóm này đều tăng; đặc biệt, nhóm hàng ăn
và dịch vụ ăn uống (tăng tới 4,24%), nhóm phương tiện đi lại - bưu điện ( tăng mạnh
nhất với 4,38% do tác động của tăng giá xăng). Các nhóm mặt hàng khác có mức tăng
từ 0,08-1,61%. Theo Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng 12 tăng tới 2,91%,
không những cao nhất so với các tháng trong năm nay ( kể cả tháng 2 là tháng có Tết
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
21
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Nguyên Đán cũng chỉ tăng 2,17%), mà còn tăng cao nhất so với tốc độ tăng trong
tháng 12 của mười mấy năm qua.Trong 11 nhóm hàng hóa, dịch vụ, nhóm thực phẩm
(chiếm tỷ trọng lớn nhất trong "rổ" hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng) giá tăng cao nhất
(tháng 12 tăng tới 4,69%, cả năm tăng tới 21,16%). Nhóm lương thực (nhóm chiếm tỷ
trọng lớn thứ hai trong "rổ" hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng) có giá tăng cao thứ ba (tháng
12 tăng 2,98%, cả năm tăng 15,4%). Giá nhà ở và vật liệu xây dựng (gồm tiền thuê
nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng) tháng 12 tăng 3,28%, cả năm tăng tới

17,12% (cao thứ hai sau nhóm thực phẩm).
* Năm 2008.
Một đặc trưng của năm 2008 là tình trạng bất ổn kinh tế vĩ mô. Lạm phát leo
thang; thâm hụt thương mại hàng hóa và thâm hụt cán cân vãng lai lớn, rủi ro hệ thống
tài chính ngân hàng tăng. Tình hình kinh tế vĩ mô đã trở nên ổn định hơn từ tháng
8/2008. Đặc biệt lạm phát giảm nhanh trong quí IV/2008, dẫn đến lạm phát cả năm
còn gần 20%, tuy vẫn cao song đã thấp hơn nhiều mức tháng 8/2008.
Thương mại quốc tế năm 2008 có bước chuyển biến mới. Tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa đạt 62,7 tỷ USD, tăng 29,1%; tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt
80,7 tỷ USD, tăng 28,6% so với năm 2007. Nước ta đã trở thành một nền kinh tế có độ
mở cao xét theo tỷ trọng xuất nhập khẩu trên GDP (160,7% GDP và 177,5% GDP nếu
tính cả thương mại dịch vụ). Tuy nhiên, thương mại dịch vụ chưa thật phát triển, năm
2008 chỉ bằng 10,5% thương mại hàng hóa, mức thấp hơn nhiều tỷ lệ trên 20% của thế
giới. Cũng đã bắt đầu xuất hiện xu thế đa dạng hóa mặt hàng để đối phó với rủi ro trên
thị trường thế giới. Tuy nhiên, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào các nhóm
hàng khoáng sản và nông - lâm - thủy sản thô, sơ chế; hàng công nghiệp chế biến chủ
yếu vẫn là gia công lắp ráp.
Tốc độ tăng trưởng giảm đồng nghĩa với tình trạng doanh nghiệp phải thu hẹp
quy mô sản xuất, cắt giảm lao động. Vào tháng 7/2008, tổng số người thất nghiệp ở
thành thị tăng 2,7% so với năm 2007, đưa tỷ lệ thất nghiệp của khu vực thành thị lên
4,7% so với 4,6% năm 2007. Con số người thất nghiệp, mất việc làm và phải giảm giờ
làm còn tăng cao hơn nữa trong nửa cuối năm 2008. Hơn nữa, lạm phát cao càng làm
giảm thu nhập thực của đa số dân cư và có tác động rất xấu đến nhóm người nghèo,
thu nhập thấp.
Trong một số ngành cụ thể nhất là công nghiệp, xây dựng đã có sự suy giảm
mạnh. Giá trị sản xuất công nghiệp 2008 dự kiến chỉ ở mức 16,2% và giá trị gia tăng
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
22
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
chỉ còn 9,4 - 9,6%. Đáng chú ý, giá trị gia tăng trong ngành xây dựng còn bị giảm nên

giá trị gia tăng chung của công nghiệp và xây dựng cả năm 2008 chỉ ở mức 7,3 –
7,5%. Đây được đánh giá là mức thấp nhất trong vòng 17 năm qua.
Giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp, khác
thường so với xu hướng tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I ( 2,64% )
và liên tục tăng lên trong quý II ( 2,75% ), đỉnh cao là tháng 5 trong quý II vì do giá
lương thực cao bất thường, giá gạo trong nước tăng 200% so với năm trước, quý III
( 0,96% ), CPI giảm nhẹ nhưng vẫn ở mức cao, nhưng các tháng quý IV liên tục giảm (
so với tháng trước, tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm
0,68%), nên giá tiêu dùng trong tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng
19,89% và chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%.
* Năm 2009:
Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều
hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm
2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này
nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều. Trong 11
nhóm mặt hàng tính chỉ số giá tiêu dùng, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (nhóm có
quyền số cao nhất) tăng lên mức 2,06%, được xem là nguyên nhân chính ảnh hưởng
đến tốc độ tăng giá chung trong tháng 12. Trong đó, nhóm nhỏ hàng lương thực tăng
tới 6,88%; thực phẩm tăng 0,89% và ăn uống ngoài gia đình tăng 0,69%.
Bên cạnh đó, nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng cũng tăng mạnh tới 1,4% do giá sắt
thép, vật liệu xây dựng tiếp tục xu hướng tăng và thị trường bước vào mùa hoàn thiện
công trình xây dựng. Các nhóm hàng đồ uống, thuốc lá tăng 0,97%; nhóm may mặc,
mũ nón, giày dép tăng 0,81%
Duy nhất trong 11 nhóm mặt hàng tính CPI, nhóm bưu chính viễn thông giảm
0,11% so với tháng 11.Tính chung cả năm, giá các mặt hàng ăn và dịch vụ ăn uống
tăng 8,71%; đồ uống - thuốc lá tăng 9,56% và may mặc - giày dép 8,87%
* Năm 2010:
Ngày 30-12, Bộ Công thương đã thông báo kết quả hoạt động xuất khẩu năm
2010 với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 71,63 tỷ USD, tăng 25,5% so với mức thực
hiện năm 2009, đồng thời là mức tăng trưởng cao, vượt xa chỉ tiêu Quốc hội đề ra.

Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục tiêu
này có thể không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.35%. Ngoài ra,
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
23
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
nền kinh tế hiện nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong
những tháng sắp tới.
Dẫn đầu về mức tăng giá tiếp tục là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống; đặc biệt,
lương thực tăng 4,67%, thực phẩm tăng 3,28%, ăn uống ngoài gia đình tăng 1,86%.
Tiếp theo là nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng với mức tăng 2,53%.
Các nhóm hàng hóa có mức tăng hơn 1% gồm: May mặc, mũ nón, giày dép
tăng 1,81%; đồ uống, thuốc lá tăng 1,3%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,06%. Các
nhóm còn lại có mức tăng dưới 1% gồm: Thiết bị và đồ dùng gia đình; Văn hóa giải trí
và du lịch; Giao thông; Thuốc và dịch vụ y tế. Giáo dục là nhóm tăng thấp nhất.
3.2.3. Tổng quan tình hình của ngành dệt may Việt Nam trong thời gian gần đây:
Là mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu, mặt hàng dệt may của nước ta đang dần chiếm
lĩnh các thị trường quốc tế. Số liệu thống kê hải quan nhiều năm qua cho thấy, chu kỳ
xuất khẩu của hàng dệt may thường bắt đầu tăng trưởng vào quý 2 và đạt mức cao nhất
vào quý 3. Với kim ngạch xuất khẩu đạt 4,8 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2010, tăng
17,2% so với cùng kỳ năm trước, dệt may tiếp tục vượt qua dầu thô khẳng định vị trí
dẫn đầu trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Dệt may Việt Nam
trong những năm gần đây có kim ngạch xuất khẩu khá cao, góp phần không nhỏ vào
kim ngạch xuất khẩu của cả nước, giúp tăng trưởng GDP và tạo công ăn việc làm cho
hang triệu lao động phổ thông và trình độ lao động không cao, từng bước đưa nước ta
trở thành một trong 10 quốc gia có ngành dệt may phát triển nhất thế giới.
Dưới đây là bảng kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam từ năm
2003-2011( dự kiến ).
Bảng 3.2: Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
từ năm 2003-2011( ƯT ).
( Đơn vị tính: tỷ USD )

Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Giá trị 3,609 4,368 4,838 5,83 7,78 9,1 9,2 11,2 13
Nguồn: Tổng cục thống kê: www.vinatex.com.vn
Từ bảng số liệu trên ta có biểu đồ kim ngạch xuất khẩu dệt may của nước ta:
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4
24
Trường Đại học Thương Mại Khoa: Kinh tế
Hình 3.3: Kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam.
Trong số các thị trường truyền thống, Hoa Kỳ vẫn duy trì ngôi vị thị trường
xuất khẩu hàng đầu của dệt may Việt Nam và đạt 2,217 tỷ USD trong 5 tháng đầu
năm, tăng 23,8% so với cùng kỳ 2009 (tăng 426 triệu USD về số tuyệt đối); tiếp đến là
thị trường Nhật Bản cũng tăng khoảng 12%. Bên cạnh các thị trường truyền thống,
thời gian qua, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường mới như Đài
Loan, Hàn Quốc và các thị trường khu vực ASEAN đều có mức tăng đáng kể. Với
mức tăng trưởng này, sản phẩm dệt may của Việt Nam hiện chiếm khoảng 2,7% thị
phần sản phẩm dệt may trên thị trường thế giới. Riêng tại thị trường Mỹ và Nhật Bản,
Việt Nam chỉ đứng thứ hai sau Trung Quốc với thị phần tương ứng là 7,4% và 4%.
Một số thị trường mới mở như Châu Phi- mặc dù có nhu cầu lớn, nhưng hàng dệt may
Việt Nam chưa thâm nhập được bao nhiêu do rủi ro về thanh khoản, hệ thống thanh
toán qua ngân hàng chưa đủ độ tin cậy, chi phí đi lại tốn kém.
3.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến ngành dệt may
* Ảnh hưởng của môi trường vĩ mô đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp may mặc:
Môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế liên quan đến các vấn đề như các vấn đề về tăng trưởng, thu
nhập quốc dân, thất nghiệp… ảnh hưởng một cách gián tiếp cho việc mở rộng thị
trường tiêu thụ cho các sản phẩm. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã tạm lắng, nhiều
ngành sản xuất đang trên đà hồi phục. Tuy nhiên, các DN may mặc xuất khẩu vẫn tiếp
tục chịu nhiều tác động bất lợi.
Luận văn tốt nghiệp Nguyễn Thị Huệ - K43F4

25

×