Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Bài giảng tổ chức và định mức lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.73 KB, 104 trang )

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC VÀ ĐỊNH MỨC LAO ĐỘNG
1.1 Tổ chức lao động
1.1.1 Khái niệm về tổ chức lao động
Lao động trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng là hoạt động có
mục đích của con người và đều diễn ra dưới sự kết hợp của 3 yếu tố: Công cụ lao
động, đối tượng lao động và người lao động
Sự phát triển của xã hội loài người dẫn đến sản xuất không còn là một quá
trình riêng lẻ mà mang tính tổng thể, xã hội, quá trình sản xuất chỉ có hiệu quả cao
nếu con người biết kế hợp tối ưu 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, tức là biết
tổ chức tốt cho quá trình lao động của con người.
Tổ chức lao động là tổ chức quá trình hoạt động của con người tác động lên
đối tượng lao động trong sự kết hợp 3 yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất
Tổ chức lao động là công cụ không tách rời của quá trình sản xuất, phải căn
cứ vào mục đích của quá trình sản xuất và hướng đến thực hiện mục đích của quá
trình sản xuất.
Với các yếu tố của quá trình sản xuất gồm có: Lao động, đối tượng lao động
và công cụ lao động đã có thì yếu tố quyết định năng suất, chất lượng và hiệu quả
của quá trình sản xuất là tổ chức lao động. Song ngày nay với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ đặc biệt là của khoa học tổ chức và của quản trị nhân
lực thì việc ứng dụng các thành quả của khoa học công nghệ vào tổ chức lao động
đem lại kết quả cao hơn nhiều so với tổ chức lao động nói chung.
Tổ chức lao động khoa học không khác so với tổ chức lao động nói chung ở
phương pháp, cách thức giải quyết các vấn đề thực tiễn của tổ chức lao động, của
quá trình sản xuất; do đó khi nói đến tổ chức lao động ngày nay về thực chất là tổ
chức lao động khoa học tức là tổ chức lao động được ứng dụng thành tựu của khoa
học công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình lao động, sản xuất.
1.1.2 Mục đích và nhiệm vụ của tổ chức lao động
a, Mục đích tổ chức lao động:
1
Mục đích tổ chức lao động là nhằm đạt kết quả lao động cao đồng thời đảm
bảo tính khoa học, sự an toàn, phát triển toàn diện người lao động góp phần củng cố


mối quan hệ lao động của con người trong lao động.
Mục đích trên xuất phát và dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn từ mục đích
của nền sản xuất và vai trò của con người trong quá trình sản xuất vì xét đến cùng
mục đích của nền sản xuất là phục vụ con người, thỏa mãn nhu cầu phát triển của
con người, sau nữa con người là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất do đó mọi
biện pháp cải tiến, hoàn thiện tổ chức lao động quá trình sản xuất đều phải hướng
đến tạo điều kiện cho người lao động hiệu quả hơn, đảm bảo an toàn và phát triển
của bản thân người lao động
b, Nhiệm vụ của tổ chức lao động
Với mục đích trên trong điều kiện kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì tổ
chức lao động phải thực hiện các nhiệm vụ về mặt kinh tế, tâm sinh lý và xã hội
- Về kinh tế: Tổ chức lao động phải đảm bảo kết hợp yếu tố kĩ thuật công
nghệ với con người trong quá trình sản xuất để khai thác, phát huy các tiềm năng
của lao động và các yếu tố nguồn lực khác nhằm không ngừng nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả của sản xuất. tạo tiền đề để người lao động sản xuất mở rộng
sức lao động, phát triển toàn diện.
- Về tâm sinh lý: Nhiệm vụ của tổ chức lao động là phải tạo cho người lao
động được làm việc trong môi trường và điều kiện tốt bao gồm các yếu tố môi
trường tự nhiên, môi trường văn hóa – xã hội, nhân khẩu học tạo sự hấp dẫn trong
công việc tạo động lực phấn đấu trong lao động với những điều kiện về sức khỏe,
sự an toàn và vệ sinh lao động và những điều kiện vật chất thuận lợi cho lao động,
sự bình đẳng dân chủ được tôn trọng và quan tâm
- Về xã hội: Nhiệm vụ của tổ chức lao động là tạo điều kiện được phát triển
toàn diện cả về thể lực, trí lực và tâm lực, biến lao động không chỉ là phương tiện để
con người sống và phát triển mà còn trở thành nhu cầu sống thông qua giáo dục,
động viên con người trong lao động. tạo nhận thức đúng đắn của con người và sự
hấp dẫn của công việc
Các nhiệm vụ trên đây đều nhằm hướng đến thực hiện mục đích của tổ chức
lao động và có mối quan hệ khăng khít tạo tiền đề, bổ sung cho nhau trong đó
2

nhiệm vụ kinh tế tạo tiền đề để thực hiện các mục tiêu tâm sinh lý và xã hội, đồng
thời việc thực hiện tốt các nhiệm vụ về tâm sinh lý và xã hội sẽ thúc đẩy việc thực
hiện nhiệm vụ kinh tế.
1.1.3 Các nguyên tắc của tổ chức lao động
Xuất phát từ bản chất, mục đích và vai trò của tổ chức lao động, khi thực
hiên tổ chức lao động phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
a, Nguyên tắc khoa học: Đây là nguyên tắc đòi hỏi các biện pháp tổ chức lao
dộng phải được thiết kế và áp dụng trên cơ sở vận dụng các kiến thức, nguyên lý
khoa học, đáp ứng được các yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường, các nguyên
lý của quản trị nói chung, quản trị nhân lực nói riêng và các môn khoa học có liên
quan khác cũng như quan điểm, đường lối và các qui định pháp luật đối với người
lao động của Đảng và Nhà nước, qua đó khai thác tối đa các nguồn tiềm năng của
người lao động, nguồn lực lao động thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của quốc
gia, tổ chức và doanh nghiệp và thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu phát triển tự do,
toàn diện của người lao động.
b, Nguyên tắc tác động tương hỗ: Khi nghiên cứu và thiết kế tổ chức lao
động, các vấn đề phải được xem xét trong mối quan hệ tác động tương hỗ, hữu cơ
qua lại lẫn nhau, quan hệ giữa các khâu công việc, nhiệm vụ trong một bộ phận,
quan hệ giữa các bộ phận với nhau và với tổng thể toàn tổ chức/ doanh nghiệp; phải
nghiên cứu nhiều mặt cả kinh tế lẫn xã hội, cái chung với cái riêng của cá nhân, từ
đó tạo nên sức mạnh tổng hợp, tính khối của mọi bộ phận và toàn bộ tổ chức/ doanh
nghiệp.
c, Nguyên tắc đồng bộ: Nguyên tắc này đòi hỏi khi thực hiện các biện pháp
tổ chức lao động phải giải quyết, sự phối hợp đồng bộ các vấn đề liên quan bao gồm
các công việc, các nhiệm vụ, các bộ phận, các cấp quản trị có liên quan vì lao động
ở mỗi khâu, mỗi công việc, mỗi nhiệm vụ có mối liên hệ mật thiết đến các công
việc/ nhiệm vụ, các khâu của quá trình sản xuất, đòi hỏi phải có sự đồng bộ về tổ
chức, vận hành, phải phối hợp giữa các cá nhân, bộ phận và các cấp quản lý mới
đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra bình thường, không bị ách tắc,
d, Nguyên tắc kế hoạch: Nguyên tắc này thể hiện trên 2 mặt

3
Một là: Các biện pháp tổ chức lao động phải được kế hoạch hóa chặt chẽ,
trên cơ sở những phương pháp khoa học, từ việc xác định mục tiêu của tổ chức lao
động khoa học đến việc tổ chức điều hành và giám sát việc xây dựng và thực hiện
các biện pháp tổ chức lao động. Phải được kế hoạch hóa nghiêm túc theo các yêu
cầu của công tác kế hoạch
Hai là: Tổ chức lao động khoa học phải gắn với mục tiêu và yêu cầu của kế
hoạch của tổ chức/ doanh nghiệp. tổ chức lao động là một nội quy, một bộ phận
trong kế hoạch hoạt động của tổ chức/ doanh nghiệp nên nó phải đảm bảo thực hiện
được kế hoạch hoạt động đã đặt ra với việc khai thác có hiệu quả nguồn nhân lực
hiện có, và sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng với các kế hoạch khác.
e) Nguyên tắc huy động tối đa sự tự giác, tính sáng tạo của người lao động
trong xây dựng và thực hiện các biện pháp tổ chức lao động, nguyên tắc này dựa
trên cơ sở người lao động là người hiểu rõ công việc, nhiệm vụ và họ cũng là người
trực tiếp thực hiện các công việc, nhiệm vụ, việc khuyến khích người lao động tham
gia vào quá trình xây dựng và thực hiện các biện pháp tổ chức lao động vừa đảm
bảo phát huy được sự sáng tạo của người lao động vừa đảm bảo tính khả thi cao và
tạo tâm lý tích cực cho họ trong thực thi công việc, nhiệm vụ qua đó thúc đẩy năng
suất và hiệu quả công việc
f, Nguyên tắc tiết kiệm, đảm bảo thực hiện các quy định của pháp luật đối với
người lao động. Nguyên tắc này dựa trên và đòi hỏi phải thực hiện trên thực tế đó là
nguồn nhân lực là nguồn lực quý hiếm, phải sử dụng tiết kiệm và hiệu quả, đồng
thời đây là nguồn lực đặc biệt cho nên tổ chức lao động phải đảm bảo các mục tiêu
an toàn, vệ sinh lao động, đảm bảo công ăn việc làm, thực hiện trách nhiệm xã hội
đầy đủ với người lao động, đảm bảo cho người lao động được phát triển tự do, toàn
diện
1.1.4 Các hình thức tổ chức lao động
Với sự phát triển của công nghiệp, tổ chức lao động ra đời từ thế kỷ 19
(1880), đối lập với phương pháp của thợ thủ công, đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng
loạt, qui mô lớn của công nghiệp với chi phí thấp. Các công trình nghiên cứu về tổ

chức lao động khoa học được quan tâm như F.W Taylor (1856-1915) và tiếp sau
cùng cả F và C Gilbeth; C Bedaux, H.B Maynard và H.L Gant
4
a, Tổ chức lao động của Taylor F.W
Tổ chức lao động khoa học dựa vào nguyên tắc
- Chuyên môn hóa, tức là mỗi người luôn chỉ thực hiện một công việc (theo
quan điểm của CN Mác Lê Nin chuyên môn hóa giúp nâng cao năng suất lao động,
do người lao động chuyên môn hóa công việc
- Sự phân đoạn quá trình sản xuất thành các nhiệm vụ, những động tác/ thao
tác đơn giản, dễ thực hiện
- Cá nhân hóa: Mỗi vị trí công tác được tổ chức sao cho tương đối độc lập, ít
quan hệ với những chỗ làm việc khác để tăng nhịp độ sản xuất, vì khi bị lệ thuộc
trong quá trình sản xuất thì người lao động khó tự mình độc lập hành động để nâng
cao năng suất
- Định mức thời gian bắt buộc để hoàn thành một nhiệm vụ công việc: Điều
không bắt buộc người lao động phải rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng được
yêu cầu chủ doanh nghiệp mới tồn tại trong điều kiện chủ yếu sản xuất
- Tách bạch việc thực hiện với việc kiểm tra: Tức là người thực hiện nhiệm
vụ, công việc trong quá trình sản xuất/ lao động và người kiểm tra giám sát họ là
những người khác nhau: Đảm bảo tính khách quan trong đánh giá hoàn thành công
việc, tránh tình trạng mẹ hát, con khen hay,… Điều này là đòi hỏi người lao động
phải phấn đấu tốt để hoàn thành nhiệm vụ.
- Tách biệt giữa thiết kế, phối hợp và thực hiện: Tức là tách bạch giữa người
quản lý (làm nhiệm vụ thiết kế phối hợp) với nhân viên thực hiện ( tác nghiệp).
Nguyên tắc tổ chức lao động theo Taylor giúp người lao động tinh thông
nghề nghiệp, cắt giảm được những động tác thừa, nâng cao năng suất lao động và
hạ giá thành. Điều hạn chế của nguyên tắc tổ chức lao động theo Taylor là coi người
lao động như cái đinh vít của một cỗ máy, hoạt động như một rô bốt trong khi
người lao động là con người có đời sống tinh thần, văn hóa, có tâm tư nguyện vọng,
tâm lý cần phải được quan tâm, động viên và khích lệ, tạo động cơ trong lao động.

b, Tổ chức lao động của những người kế tục Taylor
Tiêu biểu trong số này là Gantt G.L, Bedaux, Maynard
*) Gantt và nguyên tắc chia nhỏ công việc:
5
Gantt G.C là cộng sự của Taylor, theo đuổi ý tưởng là chia nhỏ nhiệm vụ
thành các công việc nhỏ đến mức có thể giao cho bất kỳ người lao động nào có trình
độ trung bình, ông hợp lý hóa lao động theo dây chuyền để khai thác tối đa sức lao
động. Nguyên tắc của Gantt G.C cho phép khai thác tối đa lao động của doanh
nghiệp, kể cả doanh nghiệp có những lao động ở trình độ thấp và được các doanh
nghiệp loại này ứng dụng thành công, ngay cả Henry Ford – Ông chủ của ngành
công nghiệp ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ đã sớm áp dụng nguyên tắc này thành công.
*) Gillberth và nguyên tắc chuẩn hóa các dãy thao tác thực thi công việc
Gillberth nghiên cứu hoạt động của người lao động và nhận thấy tất cả các
hoạt động của người lao động có thể chia thành một số động tác cơ bản, từ đó phát
hiện ra những động tác thiếu và động tác thừa, từ đó Gillberth loại bỏ những động
tác thừa, chuẩn hóa các thao tác thành chuỗi trong quá trình hoạt động của người
lao động qua đó tiết kiệm thời gian, hao phí lao động và nâng cao năng suất, điều
này rất có ích trong rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp của người lao động, nhất là
trong các ngành công nghiệp hoạt động theo dây chuyền đòi hỏi độ chính xác cao
của các bộ phận, mắt xích trong dây chuyền.
*) Bedaux và bấm giờ
Bấm giờ để xác định thời gian chuẩn cho việc hoàn thành một công việc để
từ đó xác định hướng và thưởng phạt nếu hoàn thành công việc nhanh hay chậm.
Việc xác định thời gian hoàn thành công việc giúp định mức lao động hợp lý và
thúc đẩy sự phấn đấu, rèn luyện kĩ năng tay nghề của người lao động, rút ngắn thời
gian hoàn thành công việc, nâng cao năng suất, hiệu quả công việc tuy vậy điều đó
cũng có thể gây căng thẳng về mặt tâm lý, đối với người lao động có thể dẫn tới sự
chống đối.
*) Maynard và bảng thời gian
Việc bấm giờ người lao động dẫn đến sự chống đối và Maynard xây dựng

bảng thời gian (Method time measurement) bảng này cho mỗi động tác cơ bản một
thời gian chuẩn để hoàn thành từ đó cộng thời gian hoàn thành các thao tác cho việc
hoàn thành công việc từ đó không cần phải có những người bấm giờ tại nơi làm
việc dẫn đến những ức chế tâm lý của người lao động.
6
Taylor và những người kế tục Taylor đã thúc đẩy phát triển sản xuất hàng
loạt tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp và tổ hợp công nghiệp lớn song nói
chung nó khó được người lao động tiếp nhận vì sự căng thẳng về tâm lý, tính đơn
điệu, người lao động kém hứng thú vì hạn chế sự sáng tạo trong lao động, sự căng
thẳng, nhịp độ làm việc cao cũng dẫn đến tai nạn lao động và gia tăng sự vắng mặt,
mâu thuẫn nội bộ tăng dẫn đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm không
được như mong muốn của Taylor và những cộng sự, tổ chức lao động theo Taylor
và cộng sự như đã nói ở trên đã coi con người như một đinh vít trong cỗ máy, một
rô bốt vô tri vô giác, họ quên đi hiệu quả hoạt động, phụ thuộc vào yếu tố con người
trong hoạt động sản xuất
Cùng với sự phát triển của công nghệ, con người và quản lý đã xuất hiện các
hình thức lao động mới trong đó đáng kể là trường phái lao động con người mà tiêu
biểu là Elton Mayo và F Hezberg và các nhà nghiên cứu sau này đã phát triển các
hình thức tổ chức lao động như đổi chỗ làm việc và mở rộng nhiệm vụ, làm phong
phú nhiệm vụ, tổ chức nhóm bán tự quản và tổ chức hướng vào các nhóm.
c, Những hình thức mới của tổ chức lao động
*) Đổi chỗ làm việc và mở rộng nhiệm vụ
- Đổi chỗ làm việc mục đích là làm tránh sự nhàm chán và căng thẳng, đơn
điệu đồng thời tạo điều kiện để nhân viên hiểu rõ, đầy đủ hơn nhiệm vụ liên quan
đến nhóm làm việc để phối hợp tốt hơn trong công việc, nâng cao trình độ nghề
nghiệp, đồng thời qua đó cũng phát hiện được khả năng, tố chất của một người phù
hợp với công việc qua đó phát triển nghề nghiệp.
- Mở rộng nhiệm vụ là việc đưa thêm các công việc có liên quan đến các
công việc mà nhân viên đang làm để chu kỳ hoạt động của nhân viên được kéo dài,
tránh sự căng thẳng, mệt mỏi do công việc, nhiệm vụ được triển khai có chu kỳ

ngắn.
Mặc dù có những ưu điểm song nhìn chung theo G.Elgozy sự mở rộng nhiệm
vụ hay đổi chỗ công việc nhìn chung cũng chỉ là “Một thứ chủ nghĩa Taylor đa
dạng hóa”, nó làm giảm không nhiều sự đơn điệu, nhàm chán và không tạo động cơ
cho người lao động, Một người làm tuyển dụng nhân lực quản trị cũng không hứng
thú nhiều lắm tuyển dụng nhân viên khi chúng vẫn diễn ra thường xuyên. Tuy nhiên
7
đối với doanh nghiệp thì đổi chỗ nhiệm vụ và mở rộng công việc lại rất tốt trong
việc bố trí lao động thay thế những người vắng mặt hay bỏ đi và linh hoạt hơn trong
bố trí công việc trong điều kiện kỹ thuật, công nghệ thay đổi nhanh.
*) Làm phong phú nhiệm vụ
Làm phong phú nhiệm vụ là hình thức đưa vào những công việc hấp dẫn
hơn, lành nghề hơn, nâng cao trách nhiệm nhân viên với việc tạo động lực làm việc
cho họ. ví dụ thay vì chủ hay áp đặt thì nhà quản trị có thể giao cho nhân viên tự
xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai, tự đánh giá kết quả
*) Nhóm bán tự quản: Là hình thức tổ chức lao động theo đó việc mở rộng
nhiệm vụ, làm phong phú nhiệm vụ không chỉ bó hẹp cho một cá nhân người lao
động mà triển khai trong một đơn vị trong doanh nghiệp, theo đó lãnh đạo doanh
nghiệp giao việc thực hiện toàn bộ nhiệm vụ cho nhóm người lao động (trong bộ
phận) để họ tự tổ chức các hoạt động nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo sự phân
cấp ví dụ Sau khi xác định mục tiêu cho phòng kinh doanh, giám đốc doanh nghiệp
giao quyền tự chủ theo phân cấp quản lý để phòng kinh doanh tự tổ chức hoạt động
nhằm đạt được mục tiêu đã giao. Phòng kinh doanh lại đặt mục tiêu và giao nhiệm
vụ cho các nhóm trong phòng thực hiện, các nhóm tự tổ chức hành động và kiểm tra
giám sát các hành động của mình. *) Tổ chức hoạt động nhóm
+) Tập hợp các thành viên
Nhóm chính thức: Được thành lập theo quyết định của lãnh đạo cấp trên
Nhóm phi chính thức: Theo nhu cầu của các thành viên nhóm
+) Xác định mục tiêu hoạt động của nhóm
Nhóm chính thức: Do cấp trên xác định khi thành lập nhóm và mục tiêu

riêng của nhóm (do các thành viên nhóm thỏa thuận), song không được mâu thuẫn
với mục tiêu của lãnh đạo đã xây dựng
Nhóm phi chính thức: Do các thành viên nhóm thỏa thuận
+) Xác định nguyên tắc làm việc của nhóm:
Theo quy định chung: Phát huy được tính tự chủ sáng tạo, trách nhiệm của
thành viên; tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tính dân chủ, phân quyền mạnh mẽ, quản trị
nhóm theo mục tiêu
Đảm bảo sự phối hợp, hợp tác
8
Nguyên tắc riêng của nhóm (tự thỏa thuận)
+) Phân công công việc: Đảm bảo cân đối công việc các thành viên; theo
trình độ chuyên môn nghiệp vụ của thành viên; khả năng hoàn thành công việc
+) Xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc: Kết quả, hiệu
quả hoạt động, mức độ thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ của cá nhân, tinh thần,
thái độ trong hợp tác, kỷ luật lao động
Mô hình bán tự quản có ưu điểm là công việc được chia sẻ, công việc có ý
nghĩa, trách nhiệm cao hơn và hứng thú hơn khi họ được quyền tự chủ, tự do hành
động, trách nhiệm cao hơn trước cấp trên – song cấp trên phải kiểm soát việc thực
hiện mục tiêu qua tiến độ và tạo điều kiện các nguồn lực cho nhóm hoạt động,
không hoặc rất hạn chế can thiệp trực tiếp can thiệp vào hoạt động tác nghiệp
Tổ chức lao động theo nhóm tự quản là thành tựu của lý luận và thực tiễn
hoạt động quản trị tổ chức, được phát triển mạnh mẽ từ những năm 80 của thế kỷ 20
đến nay. Việc tổ chức lao động theo nhóm rất phù hợp với kinh tế thị trường đòi hỏi
sự dân chủ hóa cao, khai thác tối đa những tiềm năng, thế mạnh của người lao động,
tạo động lực mạnh mẽ cho người lao động và phù hợp với bối cảnh công nghệ cao
và kinh tế chuyển dần sang kinh tế tri thức.
1.1.5 Những nội dung cơ bản của tổ chức lao động
Tổ chức lao động trong doanh nghiệp phải đảm bảo tuân thủ các
nguyên tắc tổ chức lao dộng và bao gồm những nội dung cơ bản sau đây:
1.1.5.1 Tổ chức và phục vụ nơi làm việc:

- Nơi làm việc: là phần diện tích và không gian được trang bị các phương
tiện kỹ thuật cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ, công việc đã xác định
Trình độ tổ chức, phục vụ nơi làm việc ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, sự hứng
thú và năng suất lao động của người lao động
- Nhiệm vụ tổ chức và phục vụ nơi làm việc là:
+ Tạo điều kiện vật chất, kỹ thuật cần thiết để tiến hành các hoạt động của
nhân viên với năng suất cao, đảm bảo cho hoạt động được liên tục và nhịp nhàng.
+ Tạo những điều kiện thuận lợi nhất về môi trường, vệ sinh an toàn lao
động, tạo hứng thú cho những người lao động làm việc
+ Cho phép áp dụng các phương pháp và thao tác lao động tiên tiến
9
- Tổ chức nơi làm việc bao gồm các nội dung: Thiết kế nơi làm việc, trang bị
nơi làm việc, bố trí sắp xếp nơi làm việc theo một trật tự nhất định
+ Thiết kế nơi làm việc là việc xây dựng các thiết kế mẫu cho các nơi làm
việc tương ứng với các loại hình công việc, nhiệm vụ nhằm đảm bảo tính khoa học
và hiệu quả đối với hoạt động của người lao động
+ Trang bị nơi làm việc: Là trang bị, lắp đặt đầy đủ các loại thiết bị, máy
móc, phương tiện… cần thiết theo yêu cầu của hoạt động để thực hiện các nhiệm
vụ/ công việc của người lao động tương ứng với chức năng, nhiệm vụ mà họ đảm
nhận. Thiết bị phục vụ cho nơi làm việc gồm thiết bị chính và thiết bị phụ
+Bố trí nơi làm việc: là sắp xếp một cách hợp lý, có trật tư các phương tiện,
thiết bị, máy móc trong không gia nơi làm việc
+ Chỉ tiêu đánh giá trình độ tổ chức nơi làm việc:
• Đối với nhóm/ bộ phân
K
Nhóm/BF
NLV
=
N
LV

- N
LVK
N
LV
Trong đó N
LV
: là tổng số nơi làm việc của nhóm/ bộ phận
N
LVK
Tổng số nơi làm việc không đạt yêu cầu của nhóm/ bộ phân
Suy ra: K
Nhóm/BF
NLV
càng gần 1 thì trình độ tổ chức nơi làm việc của nhóm/ bộ phận
càng cao
• Đối với toàn bộ tổ chức, doanh nghiệp
K
NLV
toàn bộ

=

bphNhóm
NLV
K
/

N
LV
Trong đó


N
LV
: là toàn bộ nhóm/bộ phận làm việc của tổ chức, doanh nghiệp
Suy ra K
NLV
toàn bộ
càng lớn (càng gần tới 1) thì trình độ tổ chức nơi làm việc
của tổ chức, doanh nghiệp càng cao
- Tổ chức phục vụ nơi làm việc là cung cấp cho nơi làm việc các nhu cầu cần
thiết để quá trình lao động diễn ra tại nơi làm việc được bình thường, liên tục và
hiệu quả
+ Các nhu cầu cần thiết cho quá trình lao động là các nhu cầu đầu vào của
quá trình lao động như nguyên vật liệu, hàng hóa, năng lượng,… các dịch vụ khác
10
để đảm bảo cho quá trình lao động diễn ra bình thường, liên tục và theo kế hoạch đã
định
+ Để đảm bảo phục vụ cho nơi làm việc đồng bộ, hiệu quả thì tổ chức phục
vụ nơi làm việc phải thực hiện các nguyên tắc:
• Phục vụ theo yêu cầu của từng chức năng (sản xuất, thương mại, tài
chính, nhân lực, )
• Phục vụ phải theo kế hoạch đảm bảo nhịp nhàng, ăn khớp với yêu cầu
kế hoạch hành động của nơi làm việc
• Phải có dự trữ để dự phòng để tránh gián đoạn do thiếu nguồn cung
cấp
• Phục vụ phải đảm bảo tính đồng bộ trong cung ứng các yếu tố đầu vào
đáp ứng nhu cầu hoạt động của mỗi nơi làm việc và trong toàn đơn vị,
đó là do hoạt động của các cá nhân, bộ phận có môi liên quan với
nhau, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ
• Phục vụ phải đảm bảo chất lượng, độ tin cậy cao để hoạt động được

diễn ra liên tục, chất lượng đầu ra đảm bảo
• Phục vụ phải đảm bảo tính linh hoạt, hiệu quả chính là việc cung cấp
các yếu tố đầu vào để phục vụ quá trình lao động phải đảm bảo dễ
thay thế, khắc phục sự cố dẫn đến ngưng trệ quá trình lao động, đồng
thời phải tiết kiệm chi phí
1.1.5.2 Phân công và hiệp tác lao động
Phân công và hiệp tác lao động là nội dung quan trọng của tổ chức lao động,
qua phân công lao động các cơ cấu về lao động trong tổ chức, doanh nghiệp được
hình thành tạo ra bộ máy với các bộ phận cùng với các chức năng, nhiệm vụ của
mỗi bộ phận đảm bảo thực hiện mục tiêu của tổ chức, doanh nghiệp. Hiệp tác lao
động là sự liên kết, phối hợp, tương tác lẫn nhau giữa các cá nhân, bộ phận của tổ
chức, doanh nghiệp trong quá trình hoạt động nhằm hướng đến thực hiện mục tiêu
chung của tổ chức, doanh nghiệp và mục tiêu riêng của mỗi cá nhân, bộ phận được
ấn định bởi chức năng, nhiệm vụ được tổ chức giao phó.
- Phân công lao động là sự chia nhỏ các công việc để giao cho từng người
hay khoán người lao động thực hiện phù hợp với khả năng của họ (kiến thức, kĩ
11
năng, phẩm chất nghề nghiệp) theo đó khi phân công lao động phải đáp ứng các yêu
cầu như sau:
Yêu cầu đối với phân công lao động:
+ Đảm bảo phù hợp giữa nội dung và hình thức phân công lao động tương
ứng với trình độ phát triển của tổ chức, doanh nghiệp (cơ sở vật chất kĩ thuật, công
nghệ, nguồn nhân lực và tổ chức, quản lý doanh nghiệp)
+ Phải lấy yêu cầu về công việc làm tiêu chuẩn chọn người lao động có khả
năng, trình độ, phẩm chất phù hợp
+ Phải tính đến khả năng phát triển nghề nghiệp của người lao động
- Phân loại phân công lao động
+ Phân công lao động theo chức năng: là hình thức phân công lao động theo
nhóm các công việc, nhiệm vụ nhằm hoàn thành một chức năng nhất định (ví dụ
như sản xuất, thương mại, tài chính, nhân lực,…)

+ Phân công lao động theo công nghệ: là phân công lao động theo các loại
công việc có tính chất, quy trình công nghệ thực hiện chúng (ví dụ: Công nghệ cao,
thấp, công nghệ sản xuất, kinh doanh, marketing, bán hàng,…)
+ Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc là phân công lao
động theo tính chất phức tạp của công việc (lao động quản lý, thực hành, công nghệ
cao, công nghệ đơn giản,…)
Hệ số phân công lao động thể hiện mức độ chuyên môn hóa lao động
K
pc
= 1 - =

k
t
T
ca
x n
Trong đó:
T
ca
: Thời gian làm việc của một ca làm việc
n: Số người lao động của nhóm được phân tích
t
k
: Thời gian lao động của người lao động làm việc không đúng nhiệm vụ
được phân công
Như vậy nếu tỉ lệ
n x ca
t
t
k


(luôn < 1) càng nhỏ tức là thời gian người lao động
làm đúng công việc/ nhiệm vụ được giao càng cao thì tính chuyên môn hóa lao
động càng cao, tức là hệ số K
pc
càng gần tới 1 thì phân công chuyên môn hóa lao
12
động sẽ cao, mức cao nhất K
pc
= 1 là tất cả mọi người lao động đều làm đúng công
việc/ nhiệm vụ được phân công
- Hiệp tác lao động
Theo Marx “ Hình thức làm việc mà trong đó nhiều người làm việc bên cạnh
nhau một cách kế hoạch và trong sự tác động qua lại lẫn nhau trong một quá trình
sản xuất hoặc là trong những quá trình sản xuất khác nhau nhưng lại liên hệ với
nhau thì gọi là hiệp tác lao động”
Hiệp tác lao động là một đại lượng quan trọng của lao động tập thể, có kế
hoạch do tác động của phân công lao động chuyên môn hóa qua đó tạo ra một sức
mạnh tổng hợp, khai thác tối đa tiềm năng của người lao động, do đó đem lại năng
suất và hiệu quả cao hơn trong công việc nhiều so với lao động có tính chất cá nhân,
nó cũng làm tăng tính trách nhiệm, sự ganh đua (cạnh tranh) trong quá trình lao
động
+ Hiệp tác lao động có nhiều loại
• Hiệp tác các mặt không gian: Gồm hình thức hiệp tác giữa các nhóm/
bộ phận chuyên môn hóa trong một tổ chức, doanh nghiệp
• Hiệp tác về mặt thời gian: Là tổ chức các cá nhân làm việc từng ngày,
tận dụng năng lực của thiết bị và điều kiện thể lực, tâm lý người lao
động
Hệ số đo lượng sự hiệp tác lao động trong 1 tổ chức/ doanh nghiệp
K

ht
= 1-
T
LP
T
ca
Trong đó T
LP
– Thời gian lãng phí do phục vụ không tốt, do phối hợp thiếu
nhịp nhàng dẫn đến ngưng trệ hoạt động trong 1 ca làm việc đối với nơi làm việc
được chọn phân tích.
Nếu T
LP
càng nhỏ thì thời gian lãng phí càng ít tức là sự phối hợp, hợp tác
càng cao hay cách khác nếu K
ht
càng gần 1 thì sự hợp tác trong lao động càng cao.
1.1.5.3 Xác định định mức lao động khoa học, hợp lý
- Định mức lao động là cơ sở để tổ chức lao động khoa học; định mức lao
động khoa học, hợp lý là yếu tố đảm bảo tăng năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm và hiệu quả hoạt động, phù hợp với khả năng lao động của người lao động
13
- Định mức lao động là quy định về mức tiêu hao lao động sống cho một hay
một số người lao động có nghề nghiệp và trong đó chuyên môn thích hợp để hoàn
thành một công việc hay một đơn vị sản phẩm đáp ứng yêu cầu chất lượng trong
điều kiện và môi trường nhất định
- Thông thường, định mức lao động được tính theo thời gian, là mức thời
gian cần thiết được quy định để một hay một nhóm người lao động có trình độ lành
nghề nhất định hoàn thành một công việc hoặc là tính theo số lượng sản phẩm được
quy định đối với một người lao động hay nhóm người lao động có trình độ lành

nghề nhất định phải hoàn thành với chất lượng đảm bảo trong một đơn vị thời gian
- Do định mức lao động là khoa học, hợp lý thì việc đưa ra định mức lao
động phải dựa trên các cơ sở khoa học, phương pháp xác định khoa học, vào điều
kiện tổ chức kỹ thuật và môi trường làm việc, vào bản thân của người lao động (các
yếu tố về thể lực, trí lực và phẩm chất nghề nghiệp) đồng thời phải mang tính tiên
tiến, khả thi tức là định mức lao động phải chuẩn để người lao động phấn đấu để
hoàn thành công việc, nhưng không quá cao dẫn đến thiếu tính khả thi và cũng
không thấp dẫn đến sự nhàm chán, lãng phí nguồn lực.
1.1.5.4 Tạo điều kiện lao động thuận lợi và chế độ làm việc, nghỉ ngơi tích
cực
Quá trình lao động luôn diễn ra trong một môi trường nhất định với các nhân
tố ảnh hưởng khác nhau tác động đến quá trình lao động, chúng hợp thành các điều
kiện lao động. Các điều kiện của môi trường tác động đến khả năng làm việc của
người lao động.
- Các điều kiện lao động thường được chia thành 5 nhóm:
+ Điều kiện về tâm sinh lý: Theo đó tổ chức lao động phải đảm bảo giảm sự
căng thẳng về thể lực, thần kinh, sự nhàm chán, tính đơn điệu trong lao động
+ Điều kiện môi trường tự nhiên thuận lợi, đảm bảo yêu cầu về vệ sinh và
tiếng ồn, độ ô nhiễm, bức xạ.
+ Điều kiện về thẩm quyền: Đảm bảo các yếu tố thẩm quyền trong bố trí, sắp
xếp nơi làm việc, tạo độ hấp dẫn, giảm bớt sự căng thẳng, tạo tâm lý tích cực trong
lao động
14
+ Điều kiện tâm lý xã hội tại nơi làm việc: Bầu không khí, văn hóa trong
nhóm, bộ phận, tổ chức/ doanh nghiệp; các chế độ khuyến khích, thưởng phạt hợp
lý, khoa học, tạo thuận lợi cho sự cạnh tranh lành mạnh, phát huy tính chủ động,
sáng tạo của người lao động.
+ Các điều kiện, chế độ làm việc, nghỉ ngơi: Đảm bảo công việc hợp với các
điều kiện về khả năng chuyên môn, trình độ, tính khí, tâm lý, bố trí ca kíp và thời
gian làm việc, nghỉ ngơi giữa các ca, kíp, độ dài thời gian làm việc, nghỉ ngơi và

hình thức nghỉ ngơi, tích cực. chế độ làm việc nghỉ ngơi là trật tự luân phiên và độ
dài tời gian của các giai đonạ làm việc và nghỉ ngơi bao gồm:
• Chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong một ca
• Chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong một tuần
• Chế độ làm việc và nghỉ ngơi trong một năm
Nền sản xuất hiện đại đòi hỏi trình độ phân công, hiệp tác lao động cao với
trình độ và quy trình công nghệ phức tạp nên đòi hỏi chế độ làm việc và nghỉ
ngơi phải tính toán khoa học, kỹ lưỡng vì chế độ làm việc và nghỉ ngơi ảnh
hưởng đến tính đồng bộ, liên tục của quy trình sản xuất, đến sự mệt mỏi,
căng thẳng, sức khỏe, thể chất và tinh thần của người lao động do đó sẽ ảnh
hưởng lớn đến năng suất lao động
1.1.5.5 Hoàn thiện các hình thức kích thích lợi ích vật chất và tinh thân đối
với người lao động
Mục đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là làm thỏa mãn ngày càng đầy
đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của người lao động, đảm bảo
người lao động được phát triển tự do và toàn diện, muốn đạt được nó phải không
ngừng nâng cao năng suất lao động và hiệu quả của sản xuất mà một trong những
yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất, năng suất lao động là phải tạo ra
và sử dụng hợp lý các kích thích về lợi ích vật chất và tinh thần đối với người lao
động, đây là những động lực quan trọng, chủ yếu để kích thích sự say mê lao động,
sáng tạo trong lao động từ đó người lao động tạo ra một tỷ suất lao động, hiệu quả
sản xuất cao hơn và hệ quả là họ sẽ có thu nhập từ lao động cao hơn để thỏa mãn
các nhu cầu ngày càng tăng của chính bản thân người lao động, đồng thời cũng
đóng góp nhiều hơn cho tổ chức/ doanh nghiệp và xã hội.
15
Các biện pháp kích thích lợi ích vật chất và tinh thần đối với người lao động
phải được xây dựng dựa trên cơ sở quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với người lao động trên các lý thuyết khoa học về lao động, các quy
luật của kinh tế thị trường và phù hợp với các điều kiện thực tế của tổ chức/ doanh
nghiệp.

1.1.5.6 Tăng cường kỉ luật lao động
Tổ chức lao động dựa trên các nguyên lý khoa học về sự phân công, hợp tác
lao động và trên cơ sở của định mức lao động khoa học, hợp lý; để đảm bảo quá
trình lao động diễn ra bình thường, liên tục theo kế hoạch và sự đặt ra cần phải thực
hiện nghiêm túc sự phân công, phối hợp, hợp tác các định mức lao động được ban
hành.
Để đảm bảo kỷ luật lao động lãnh đạo tổ chức/ doanh nghiệp cần phải ban
hành các chuẩn mực, hành vi, nội quy, qui tắc và các quy định khác có liên quan
đến việc thực thi các quy định đối với lao động, từ chế độ giờ giấc làm việc, nghỉ
ngơi, chấp hành các quy định về vận hành thiết bị, công nghệ, các định mức kinh tế
- kỹ thuật, chất lượng sản phẩm vệ sinh an toàn lao động ý thức tiết kiệm và trách
nhiệm xã hội.
Việc ban hành đầy đủ các quy định trên, giáo dục ý thức tự nguyện, tự giác
thực hiện cùng với việc tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện và thưởng phạt
nghiêm minh sự tăng cường được kỉ luật lao động.
1.2 Định mức lao động
1.2.1 Khái niệm định mức lao động
Định mức lao động là lượng hao phí lao động được quy định để sản xuất một
đơn vị sản phẩm hoặc hoàn thành một khối lượng công việc đúng tiêu chuẩn chất
lượng trong điều kiện tổ chức và kỹ thuật nhất định.
Định mức lao động được biểu hiện bằng:
- Mức thời gian để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm (theo giờ, phút, giây,…)
hoặc số lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu chất lượng phải hoàn thành với một người
hay một nhóm người có trình độ lành nghề nhất định trong một đơn vị thời gian
trong điều kiện tổ chức và kỹ thuật nhất định.
- Định mức lao động bao hàm 2 vấn đề cơ bản:
16
+ Mức lao động là lượng lao động hao phí để sản xuất một đơn vị sản phẩm
hay khối lượng công việc theo tiêu chuẩn nhất định đáp ứng với điều kiện tổ chức
kỹ thuật nhất định

+ Quy định mức lao động phải dựa trên cơ sở nghiên cứu các điều kiện tổ
chức kĩ thuật thực hiện công việc, tổ chức lao động và tổ chức sản xuất một cách
khoa học có tính đến các yếu tố kinh tế, tâm sinh lý xã hội của người lao động.
Để xác định định mức lao động người ta thường chia nhỏ quá trình lao động
thành các bước công việc (nguyên công), tổ hợp thao tác, thao tác… từ đó xác định
định mức lao động đối với các yếu tố này và tổng hợp thành định mức lao động đối
với công việc
+ Bước công việc (nguyên công) là một phần của quá trình sản xuất do một
người lao động hay một nhóm người thực hiện liên tục một đơn vị công việc được
giao tại một nơi làm việc với một đối tượng lao động cụ thể, đặc trưng của bước
công việc là sự cố định của các yếu tố: người lao động, đối tượng lao động và nơi
làm việc cụ thể.
+ Thao tác là bộ phận của bước công việc (nguyên công) là tổng hợp các
động tác lao động thực hiện liên tục với một công cụ, thiết bị, đối tượng lao động
nhất định nhằm đạt được mục tiêu nhất định (của thao tác)
+ Tổ hợp thao tác: là tổng hợp các thao tác lao động của người lao động khi
thực hiện một phần của bước công việc
Trong sản xuất thương mại hay dịch vụ thì bước công việc (nguyên công) là
đối tượng trực tiếp để định mức lao động. Việc lấy các thao tác hay tổ hợp thao tác
làm đối tượng lao động để xác định định mức là rất khó khăn vì nó quá chi tiết, khó
khăn cho việc quản lý định mức lao động và kém hiệu quả ngược lại lấy cả quy
trình sản xuất làm đối tượng lao động để xác định định mức lao động cũng không
được vì định mức của quy trình sản xuất phải xác định từ định mức của các yếu tố
cấu thành là nguyên công.
1.2.2 Vai trò của định mức lao động
a, Định mức lao động là cơ sở để tổ chức lao động xã hội
17
- Định mức lao động là cơ sở để xác định nhu cầu lao động trong tổ chức/
doanh nghiệp về số lượng, chất lượng và cơ cấu đối với mỗi khâu, mỗi bộ phận và
toàn bộ tổ chức/ doanh nghiệp.

- Định mức lao động giúp loại bỏ được những lãng phí trong quá trình lao
động cả về người lao động, thời gian lãng phí trong quá trình lao động do loại bỏ
được những động tác thừa, do sự phối hợp nhịp nhàng ăn khớp giữa các khâu, công
việc, nghiệp vụ trong quá trình hoạt động.
- Định mức lao động mang tính tiên tiến cho nên đòi hỏi người lao động phải
phấn đấu, nỗ lực nâng cao hoạt động chuyên môn, thể chất, phẩm chất nghề nghiệp
để đạt được mức này tạo sự cạnh tranh trong lao động từ đó nâng cao hiệu quả hoạt
động của tổ chức/ doanh nghiệp.
- Định mức lao động tạo cơ sở khoa học cho phân công và hiệp tác lao động,
giúp bố trí, phân công sử dụng lao động hợp lý; tăng cường kỷ luật lao động và
đánh giá kết quả hoạt động của người lao động.
b, Định mức lao động là biện pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm
- Định mức lao động được xây dựng, tính toán trên cơ sở trung bình tiên tiến,
đảm bảo kích thích người lao động (vì phải phấn đấu mới đạt), khai thác tối đa tiềm
năng lao động khi tính đến các yếu tố thể lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp và các yếu tố tâm lý, xã hội của người lao động găn với môi trường, hoàn
cảnh cụ thể
- Định mức lao động tính đến hao phí lao động để hoàn thành một khối
lượng sản phẩm nhất định găn với yêu cầu chất lượng sản phẩm, do giảm thiểu lãng
phí thời gian lao động do đó góp phần nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành và
đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Định mức lao động nghiên cứu các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, công nghệ
và con người trong lao động nên góp phần huy động và khai thác tối đa các nguồn
lực cho hoạt động của tổ chức/ doanh nghiệp từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của
tổ chức/ doanh nghiệp
c, Định mức lao động hợp lý làm cơ sở khoa học, thực tiễn cho các chiến
lược, kế hoạch của tổ chức/ doanh nghiệp
18
- Các mục tiêu, biện pháp, các chỉ tiêu của kế hoạch được hình thành trên cơ

sở các định mức kinh tế, kỹ thuật và lao động – việc xác định chính xác các định
mức này, trong đó có định mức lao động sẽ góp phần đảm bảo các chiến lược, kế
hoạch, khai thác tối đa các nguồn lực, đảm bảo hiệu quả và tính khả thi cao vì các
định mức lao động đã cân nhắc, tính toán nhằm đảm bảo phát huy tối đa yếu tố con
người trong hoạt động gắn với việc huy động và sử dụng các nguồn lực khác.
- Định mức lao động cho phép tổ chức/ doanh nghiệp xác định đầy đủ, chính
xác về số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động, gắn với yêu cầu chuyên môn, bậc
trình độ trong điều kiện tổ chức kỹ thuật cụ thể là công cụ quan trọng để xác định
các chiến lược, kế hoạch của tổ chức/ doanh nghiệp
d, Định mức lao động là cơ sở để đánh giá, đãi ngộ
- Định mức lao động phản ánh mức hao phí lao động của người lao động và
là cơ sở để đánh giá kết quả lao động của người lao động thông qua đó thấy được
năng lực, trình độ của người lao động, thấy được năng suất, chất lượng và hiệu quả
công việc mà họ tạo ra do đó là cơ sở cho đãi ngộ nhân lực.
- Định mức lao động phản ánh mức hao phí lao động trong hoạt động của
người lao động, tính đến hao phí sức lực cơ bắp, trí lực, thần kinh tâm lý từ đó khi
xác định mức tiền công phải dựa trên cơ sở tính toán những hao phí này của người
lao động.
1.2.3 Nguyên tắc xây dựng định mức lao động
Khi xây dựng và điều chỉnh định mức lao động phải tuân thủ các nguyên tắc
sau đây:
- Định mức lao động tổng hợp cho đơn vị sản phẩm, kể cả sản phẩm quy đổi
phải được hình thành từ định mức nguyên công và từ định mức biên chế của bộ
phận cơ sở và bộ phận quản lý
- Quá trình tính toán định mức lao động phải căn cứ vào các tiêu chuẩn kỹ
thuật quy định cho sản phẩm, quy trình công nghệ, chế độ làm việc của thiết bị,
kinh nghiệm tiên tiến, các quy định của nhà nước đối với lao động.
- Mức lao động quy định phải là mức trung bình tiên tiến
- Khi thay đổi công nghệ kĩ thuật sản xuất, điều kiện làm việc nói chung phải
điều chỉnh định mức lao động cho phù hợp

19
- Mức lao động mới áp dụng hoặc điều chỉnh phải được áp dụng thử 3 tháng
rồi sau đó mới hoàn thiện và ban hành chính thức.
- Tổ chức/ doanh nghiệp cần phải có hội đồng định mức lao động để tổ chức
xây dựng hoặc rà soát, điều chỉnh định mức lao động. Thành phần hội đồng gồm
giám đốc (thủ trưởng cơ quan), một số thành viên đủ chuyên môn, nghiệp vụ do
giám đốc lựa chọn (trong đó có thành viên của bộ phận, tổ chức, nhân sự phụ trách
mảng này), đại diện ban chấp hành công đoàn.
1.2.4 Phân loại mức lao động
Các mức lao động được sử dụng trong thực tế được phân loại theo các tiêu
thức khác nhau tùy thuộc mục đích sử dụng các định mức lao động trong tổ chức/
doanh nghiệp
a, Theo phương pháp định mức: Mức lao động được chia thành
+ Mức phân tích khảo sát
+ Mức phân tích tính toán theo các tiêu chuẩn định tính
+ Mức thống kê
+ Mức kinh nghiệm
+ Mức so sánh
+ Mức bình nghị
b, Theo đối tượng định mức: Mức lao động được chia thành
- Mức chi tiết: là mức lao động xây dựng cho một nguyên công hoặc bước
công việc
- Mức mở rộng: là mức lao động được xây dựng cho một quá trình tổng hợp
gồm nhiều nguyên công hay bước công việc
- Mức lao động cho một đơn vị sản phẩm: là tổng hao phí lao động cho một
đơn vị sản phẩm, bao gồm hao phí lao động công nghệ, lao động phục vụ, lao động
quản lý
c, Theo hình thức tổ chức lao động:
Mức lao động chia thành: Mức lao động cá nhân và mức lao động tập thể
+ Mức lao động cá nhân là mức lao động được xây dựng cho nguyên công

hay bước công việc… được giao cho từng cá nhân thực hiện trong điều kiện tổ chức
kỹ thuật nhất định
20
+ Mức lao động tập thể: là mức lao động xây dựng cho các công việc, nhiệm
vụ giao cho một tập thể lao động (bộ phận, nhóm, tổ, đội) thực hiện trong điều kiện
tổ chức kỹ thuật nhất định
d, Theo phạm vi áp dụng: Mức lao động được chia thành mức lao động
thống nhất, mức cơ sở và mức mẫu
- Mức lao động cơ sở là mức lao động do các tổ chức/ doanh nghiệp tự xây
dựng và áp dụng trong điều kiện tổ chức kỹ thuật, đặc thù hoạt động của tổ chức/
doanh nghiệp cụ thể
- Mức lao động thống nhất là mức lao động được xây dựng cho các quá trình
sản xuất, được mẫu hóa hoặc cho các quá trình sản xuất có điều kiện lao động giống
nhau. Mức lao động thống nhất được chia thành mức thống nhất ngành và nhà nước
(liên ngành)
+ Mức lao động thống nhất ngành là mức lao động thống nhất được xây
dựng và áp dụng cho một ngành
+ Mức lao động thống nhất liên ngành được xây dựng và áp dụng cho các
công việc có cùng điều kiện tổ chức - kĩ thuật ở tất cả các đơn vị sản xuất, kinh
doanh trong toàn bộ nền kinh tế, ở tất cả các ngành
+ Mức mẫu: là mức được xây dựng cho các quá trình công nghệ mẫu trong
điều kiện tổ chức – kỹ thuật mẫu khi trình độ tổ chức – kĩ thuật này chỉ đạt ở một số
tổ chức, doanh nghiệp, mức mẫu do đó chỉ là mức có tính chất hướng dẫn, khuyến
khích áp dụng (vì không phải tất cả các tổ chức/ doanh nghiệp đều có các điều kiện
tổ chức – kỹ thuật như mức mẫu)
e, Theo hình thức phản ánh chi phí lao động
Mức lao động được thể hiện qua mức thời gian, mức sản lượng, mức phục
vụ, mức thời gian phục vụ, mức biên chế và mức nghiệp vụ
- Mức thời gian: là chi phí thời gian lao động để hoàn thành một đơn vị sản
phẩm hay một nguyên công, một chi tiết sản phẩm, một bước công việc… gắn với

tiêu chuẩn chất lượng nhất định do một người lao động hay nhóm người lao động có
trình độ thành thạo nghề nghiệp nhất định trong điều kiện tổ chức – kỹ thuật xác
định. Một trong những dạng biến thể của mức thời gian là mức thời gian phục vụ.
21
- Mức thời gian phục vụ: Là lượng thời gian ấn định cho một người lao động
hay nhóm người lao động có trình độ nghề nghiệp nhất định phục vụ một đơn vị,
thiết bị, đơn vị diện tích kinh doanh…. Trong điều kiện tổ chức – kỹ thuật nhất định
- Tổng hợp quy trình sản xuất do thực hiện một loại công việc với người lao
động không đổi trong quá trình lao động thì xác định mức sản lượng.
Mức sản lượng: là lượng sản phẩm hoặc khối lượng công việc quy định cho
một hay một nhóm người lao động có trình độ thành thạo nghề nghiệp xác định,
phải hoàn thành trong một đơn vị thời gian gắn với tiêu chuẩn chất lượng quy định
trong điều kiện tổ chức kỹ thuật nhất định
Quan hệ mức sản lượng và mức thời gian được thể hiện qua công thức

M
SL
=
T
M
tg
Trong đó:
M
SL:
Mức sản lượng
M
tg:
Mức thời gian
T: Thời gian và định mức sản lượng
- Mức phục vụ là số lượng các đơn vị thiết bị, diện tích kinh doanh, nơi làm

việc số lượng nhân viên… qui định phục vụ cho một hay một nhóm người lao động
có trình độ lành nghề tương ứng phải phục vụ trong tổ chức – kỹ thuật xác định.
Mức phục vụ tỉ lệ nghịch với mức thời gian phục vụ, khi một nhóm người lao động
phục vụ đối tượng lao động thực hiện nguyên công hay bước công việc, công
việc… rất đa dạng, không ổn định về thời gian và chu kỳ thực hiện thì sử dụng mức
biên chế.
- Mức biên chế: là số lượng người lao động có nghề nghiệp và tay nghề
chuyên môn kỹ thuật xác định, được quy định để thực hiện công việc cụ thể, không
ổn định về tính chất và độ lặp lại của nguyên công, hay phục vụ cho một đối tượng
nhất định. Mức biên chế được áp dụng trong điều kiện phải hoàn thành công việc
đòi hỏi phải phối hợp hành động của nhiều người, không thể tách bạch từng người,
không thể xác định được mức thời gian, mức phục vụ,… ví dụ như công việc văn
22
phòng, quản lý, nghiên cứu khoa học,… là những công việc phải xác định mức biên
chế
- Nhiệm vụ định mức là khối lượng công việc xác định cho người lao động
hoặc một nhóm người lao động phải thực hiện trong 1 chu kỳ thời gian nhất định.
23
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
2.1. Phân công lao động và hợp tác (hiệp tác) lao động trong doanh nghiệp
2.1.1. Phân công lao động
- Phân công lao động là sự chia nhỏ các công việc để giao cho từng người
hay khoán người lao động thực hiện phù hợp với khả năng của họ (kiến thức, kĩ
năng, phẩm chất nghề nghiệp) theo đó khi phân công lao động phải đáp ứng các yêu
cầu như sau:
Yêu cầu đối với phân công lao động:
+ Đảm bảo phù hợp giữa nội dung và hình thức phân công lao động tương
ứng với trình độ phát triển của tổ chức, doanh nghiệp (cơ sở vật chất kĩ thuật, công
nghệ, nguồn nhân lực và tổ chức, quản lý doanh nghiệp)
+ Phải lấy yêu cầu về công việc làm tiêu chuẩn chọn người lao động có khả

năng, trình độ, phẩm chất phù hợp
+ Phải tính đến khả năng phát triển nghề nghiệp của người lao động
- Phân loại phân công lao động
+ Phân công lao động theo chức năng: là hình thức phân công lao động theo
nhóm các công việc, nhiệm vụ nhằm hoàn thành một chức năng nhất định (ví dụ
như sản xuất, thương mại, tài chính, nhân lực,…)
+ Phân công lao động theo công nghệ: là phân công lao động theo các loại
công việc có tính chất, quy trình công nghệ thực hiện chúng (ví dụ: Công nghệ cao,
thấp, công nghệ sản xuất, kinh doanh, marketing, bán hàng,…)
+ Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc là phân công lao
động theo tính chất phức tạp của công việc (lao động quản lý, thực hành, công nghệ
cao, công nghệ đơn giản,…)
Hệ số phân công lao động thể hiện mức độ chuyên môn hóa lao động
K
pc
= 1 - =

k
t
T
ca
x n
Trong đó:
T
ca
: Thời gian làm việc của một ca làm việc
n: Số người lao động của nhóm được phân tích
24
t
k

: Thời gian lao động của người lao động làm việc không đúng nhiệm vụ
được phân công
Như vậy nếu tỉ lệ
n x ca
t
t
k

(luôn < 1) càng nhỏ tức là thời gian người lao động
làm đúng công việc/ nhiệm vụ được giao càng cao thì tính chuyên môn hóa lao
động càng cao, tức là hệ số K
pc
càng gần tới 1 thì phân công chuyên môn hóa lao
động sẽ cao, mức cao nhất K
pc
= 1 là tất cả mọi người lao động đều làm đúng công
việc/ nhiệm vụ được phân công
2.1.2. Hiệp tác lao động
Theo Marx “ Hình thức làm việc mà trong đó nhiều người làm việc bên cạnh
nhau một cách kế hoạch và trong sự tác động qua lại lẫn nhau trong một quá trình
sản xuất hoặc là trong những quá trình sản xuất khác nhau nhưng lại liên hệ với
nhau thì gọi là hiệp tác lao động”
Hiệp tác lao động là một đại lượng quan trọng của lao động tập thể, có kế
hoạch do tác động của phân công lao động chuyên môn hóa qua đó tạo ra một sức
mạnh tổng hợp, khai thác tối đa tiềm năng của người lao động, do đó đem lại năng
suất và hiệu quả cao hơn trong công việc nhiều so với lao động có tính chất cá nhân,
nó cũng làm tăng tính trách nhiệm, sự ganh đua (cạnh tranh) trong quá trình lao
động
+ Hiệp tác lao động có nhiều loại
• Hiệp tác các mặt không gian: Gồm hình thức hiệp tác giữa các nhóm/

bộ phận chuyên môn hóa trong một tổ chức, doanh nghiệp
• Hiệp tác về mặt thời gian: Là tổ chức các cá nhân làm việc từng ngày,
tận dụng năng lực của thiết bị và điều kiện thể lực, tâm lý người lao
động
Hệ số đo lượng sự hiệp tác lao động trong 1 tổ chức/ doanh nghiệp
K
ht
= 1- =
T
LP
T
ca
Trong đó T
LP
– Thời gian lãng phí do phục vụ không tốt, do phối hợp thiếu
nhịp nhàng dẫn đến ngưng trệ hoạt động trong 1 ca làm việc đối với nơi làm việc
được chọn phân tích.
25

×