Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 1
CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG
TẠI CÁC QUỐC GIA XUẤT KHẨU DẦU MỎ
Amany A.El Anshasy
Phân môn: Kinh tế học và Tài chính
Đại học United Arab Emirates, UAE
&
Phân môn: Tài chính công
Đại học Alexandria, Ai Cập
TÓM TẮT
Nghiên cứu này chứng minh rằng, chính sách chi tiêu chính phủ và sản lượng
dầu mỏ khai thác quyết định mức tăng trưởng. Sử dụng kỹ thuật phân tích dữ liệu bảng
GMM (Generalizes Method of Moments) và phương pháp dự toán trung bình gộp
PMG (Pooled Mean- Group estimator) đối với các nước xuất khẩu dầu mỏ, chúng tôi
phát hiện ra sự bất ổn của giá dầu ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng thông qua chính
sách tài khóa. Đặc biệt, doanh thu từ dầu có thể gây cản trở tăng trưởng ít nhất ở ba
khía cạnh: (i) làm suy yếu hệ thống thuế nội địa, (ii) làm giảm nguồn vốn xã hội trên
nguồn vốn công mới, (iii) tăng cường áp lực chi tiêu công từ các khoản thặng dư. Việc
thực hiện chính sách tài khoá siết chặt cho các nước xuất khẩu dầu mỏ là thực sự cần
thiết, đảm bảo bởi sự khích lệ mang tính chính trị để độc lập chi tiêu công với chu kỳ
dầu mỏ. Đầu tư các khoản thặng dư hoặc thanh toán nợ công trong bối cảnh có nguồn
lợi dầu mỏ sẽ làm giảm bớt áp lực tìm kiếm các khoản vay giá rẻ và gia tăng lợi ích xã
hội từ việc bong bóng thu nhập dầu mỏ bùng nổ.
1. GIỚI THIỆU:
Từ những năm 1970, giá dầu ngày càng khó dự đoán. Chính sách tài khóa trong
nền kinh tế xuất khẩu dầu mỏ giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý nguồn thu luôn
biến động từ dầu mỏ. Một khía cạnh đáng quan tâm trong tài chính công ở các nước
xuất khẩu dầu mỏ là tính đồng chu kỳ mạnh trong chi tiêu của chính phủ, và sự cân
bằng hoạt động phi dầu mỏ trong mối quan hệ với sự biến động giá dầu (Villafuerte et
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 2
al., 2010; El Anshasy & Bradley, 2011). Chi tiêu chính phủ thường đóng vai trò như
cơ chế truyền tải những cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ mô (Husain et al, 2008;
Pieschacon, 2009).
Trong khi đó, minh chứng rõ rằng những nước xuất khẩu dầu đã trải qua thời kỳ
kinh tế kém phát triển trong một vài thập kỷ qua, một trong mười hiện tượng được ám
chỉ là “lời nguyền tài nguyên” (the resource curse). Từ những nghiên cứu mang tính
chất sơ khai của Sachs và Warner (1995), một lý thuyết đang nổi lên để nhận dạng các
khía cạnh mà qua đó sự gia tăng thâm hụt ngân sách có thể xảy ra. Bài nghiên cứu này
đưa ra những câu hỏi: bản chất đặc biệt của chính sách tài khóa trong các nước xuất
khẩu dầu mỏ có làm tăng gia tăng thâm hụt ngân sách hay không?
Đặc biệt, chúng tôi nghiên cứu tác động tăng trưởng lên chi tiêu chính phủ qua
mức doanh thu dầu mỏ thay đổi, khi kiểm soát ảnh hưởng của sự biến động giá dầu
trong nhóm các nước xuất khẩu dầu bằng những cách khác nhau. Nghiên cứu này có
hai tiền đề cơ sở, điều mà không được chú ý trong phạm vi những nước xuất khẩu dầu
mỏ. Thứ nhất, chính sách chi tiêu công không tách biệt với quyết định tài trợ. Do đó,
việc nhấn mạnh ảnh hưởng của tăng trưởng lên một mặt của ngân sách có thể là sai
lầm, vì sự thật là mỗi sự gia tăng trong chi tiêu có thể được tài trợ bởi tăng doanh thu
hoặc tăng thêm nợ của cá nhân (Bleaney et al, 2001). Thứ hai, sự hỗn hợp trong điều
chỉnh tài khóa có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng dài hạn (Alesina & Perotti
1996). Những thông lệ trong sử dụng thước đo tổng chi tiêu đã bỏ qua tác động quan
trọng của phân phối ngân sách công giữa những mục tiêu sử dụng khác nhau. Điều này
có thể là một vấn đề quan tâm lớn, đặc biệt trong hoàn cảnh những nền kinh tế đang
phát triển giàu tài nguyên.
Trong nghiên cứu này, tác động của chính sách tài khóa đối với tăng trưởng
không chỉ qua quy mô chính phủ, mà còn qua hai khía cạnh khác: Thứ nhất, các thành
phần của chi tiêu công, biểu hiện sự lựa chọn thế lực chính trị để phân phối thu nhập từ
khai thác tài nguyên cho những mục đích sử dụng khác nhau. Thứ hai, những phương
thức tài trợ cho chi tiêu phản ánh mức độ phụ thuộc của chính phủ vào thu nhập từ
khai thác tài nguyên. Kết luận chính chúng tôi đưa ra đó là: việc lựa chọn chính sách
tài khóa có thể chuyển lợi thế về dầu mỏ thành thảm họa trong vài nước này và thành
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 3
điều may mắn với các nước khác. Cũng vì lẽ vậy, chính sách tài khóa có thể làm giảm
tác động của cú sốc dầu mỏ bằng cách phục hồi tăng trưởng.
Trước tiên, chúng tôi sử dụng kỹ thuật GMM. Sau đó, chúng tôi kiểm tra kết
quả từ kỹ thuật đồng tích hợp bảng và dự đoán một mô hình điều chỉnh sai số áp dụng
ước lượng PMG - giải thích cho tính không đồng nhất bảng và hiệu chỉnh dữ liệu chéo.
Những phát hiện này nhắc tới những kết luận chính sách quan trọng: (i) việc tăng sức
mạnh của hệ thống thuế phi dầu mỏ là cần thiết để cải thiện kết quả tăng trưởng; (ii)
việc tăng cường chi tiêu vốn trong suốt giai đoạn khủng hoảng dầu mỏ sẽ phục hồi
tăng trưởng; (iii) ứng dụng tiêu chuẩn đầu tư công khắt khe hơn trong suốt thời kỳ
khủng hoảng là cần thiết để tăng hiệu quả của việc sử dụng vốn mới, đặc biệt là cơ sở
hạ tầng và dịch vụ công; (iv) thay đổi động cơ của thế lực chính trị (về quy tắc tài
khóa) là cần thiết để đảm bảo chi tiêu công cô lập với chu kỳ của dầu mỏ. Chỉ dưới
cam kết chính trị kiên định này, việc đầu tư một phần lợi thế (về dầu mỏ) vào quỹ đầu
tư hoặc sử dụng thặng dư để trả nợ, gia tăng lợi ích xã hội từ việc vỡ bong bóng doanh
thu và làm giảm bớt áp lực rent-seeking.
Bài nghiên cứu được bố cục như dưới đây: phần hai xem xét tính chất riêng biệt
của chính sách tài khóa trong các nước xuất khẩu dầu mỏ và những những quy tắc các
nước tuân theo trong mục tiêu tăng trưởng. Phần ba nêu phương pháp và dữ liệu thực
nghiệm được phác họa. Kết quả và thảo luận chính sách được đưa ra trong phần bốn.
Phần năm nêu kết luận.
2. CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ VÀ TĂNG TRƯỞNG TẠI CÁC QUỐC GIA
XUẤT KHẤU DẦU MỎ
Mô hình tăng trưởng nội sinh xuất phát từ mô hình Tân cổ điển – họ cho rằng
chính sách công có tác động đến tăng trưởng tạm thời. Trong mô hình Tân cổ điển tiêu
chuẩn, sự khác biệt chính sách tài khóa có thể chỉ giải thích sự khác biệt quan sát được
trong mức độ thu nhập chứ không phải trong tăng trưởng. Bài nghiên cứu của Barro
(1990) và Barro và Sala-i-Martin (1992) phát triển một mô hình tăng trưởng nội sinh,
theo đó nguồn vốn công có tác động lan tỏa đối với hiệu quả vốn tư nhân. Điều này
cho phép vốn công tác động lên tăng trưởng dài hạn; ngụ ý rằng sự khác nhau trong
các chính sách tài khóa giải thích một vài sự khác biệt có thể quan sát được trong tăng
trưởng dài hạn giữa các quốc gia.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 4
Trong các nước xuất khẩu dầu mỏ, sự phụ thuộc tài khóa vào dầu mỏ làm cho
việc quản lý tài khóa mang nhiều thách thức hơn. Có ít nhất ba đặc điểm tài khóa tiềm
ẩn khả năng dẫn đến làm giảm tốc độ tăng trưởng. Thứ nhất, tăng giá dầu dẫn tới làm
nhẹ bớt yêu cầu điều chỉnh chính sách tài khóa và giảm khích lệ trong thiết lập chính
sách tài khóa thận trọng. Ngoài ra, việc tích lũy thặng dư ngân sách trong giai đoạn
bong bóng dầu mỏ nổ ra là không phổ biến nên có áp lực tăng chi tiêu công (Talvi &
Vegh, 2005). Chính phủ các nước xuất khẩu dầu có khuynh hướng đối mặt với nhu cầu
gia tăng trong việc hiện đại hóa nền kinh tế để đáp ứng nguyện vọng của công chúng
và chia sẻ thu nhập từ khai thác tài nguyên với công chúng. Hậu quả trực tiếp là việc
dính líu vào những dự án công có uy tín, mở rộng việc làm công, và trải nghiệm chính
sách tài khóa theo chu kỳ.
Tornell và Lane (1999) giới thiệu một định nghĩa nền kinh tế mang bản chất
chính trị: “hiệu ứng lòng tham” (the voracity effect). Theo đó, doanh thu từ tài nguyên
tạo áp lực dẫn đến hành vi trục lợi, tham nhũng và phi hiệu quả. Dòng tiền to lớn đổ
vào ngân sách công sẽ khuyến khích giới chức chính trị đề xuất những dự án tốn kém.
Alesina et al. (2008) đưa ra một lý thuyết lựa chọn, lý thuyết phù hợp nhất với các
nước đang phát triển - những nước tồn tại tham nhũng - nhưng chính phủ vẫn còn có
trách nhiệm. Theo lý thuyết này, cử tri quan sát bong bóng nổ ra nhưng không thể biết
những kẻ tham nhũng đã nắm giữ bao nhiêu phần nguồn lợi. Vì vậy, để “starve the
Leviathan”, họ thường yêu cầu hàng hóa công nhiều hơn (hoặc thuế thấp hơn), bao
gồm chính sách tài khóa theo chu kỳ. Trái với lập luận trên, có ý kiến cho rằng, cái mà
phù hợp hơn trong bối cảnh không dân chủ, ủng hộ một thuyết thương mại là cần ổn
định chính trị và hoà bình trong xã hội. Trong một vài mô hình thì chính phủ trong các
nước xuất khẩu dầu mỏ cung cấp nhiều hàng hoá công, thuế thấp hơn, đổi lại thì trách
nhiệm giải trình và trách nhiệm pháp lý ít hơn. Điều này có hiệu quả là tăng chi tiêu
công của chính phủ đặc biệt là trong quá trình bong bóng thu nhập dầu mỏ bùng nổ
(Robinson et al.,2006; Aslaksen & Torvik, 2006; Schwarz, 2008).
Sự phân nhánh tăng trưởng của tăng chi tiêu trong thời kỳ bong bóng bùng nổ
có thể được truyền qua cơ chế “Dutch disease” - tình trạng suy giảm công nghiệp hoá
của nền kinh tế xảy ra khi việc khám phá và khai thác tài nguyên kéo theo nội tệ lên
giá, hàng công nghiệp sản xuất giảm sức cạnh tranh, nhập khẩu tăng và xuất khẩu
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 5
giảm, qua cơ chế này lợi thế dầu mỏ đưa đến kết quả là sự đánh giá cao tỷ giá hối đoái
thực. Chi tiêu chính phủ nhiều hơn trong những lĩnh vực phi thương mại (sức khỏe,
giáo dục, dịch vụ công) đẩy giá của hàng hóa này tương quan với lĩnh vực thương mại,
dịch chuyển nguồn lực từ khu vực thương mại phi dầu mỏ sang khu vực phi thương
mại. Phạm vi mà khu vực sản xuất lan tỏa tới khu vực khác, những biến động trong chi
tiêu chính phủ hàng hóa phi thương mại sẽ có tác động yếu dần lên tăng trưởng dài hạn
(Sachs & Warner, 1995).
Thứ hai, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, tăng mạnh chi tiêu công trong giai đoạn
bong bóng nổ ra là không hiệu quả hoặc mang đến hiệu quả rất thấp. Robinson và
Torvik (2005) mô phỏng tham nhũng nguồn lực ưu đãi trong những nước đang phát
triển qua việc xây dựng “white elephants” - dự án đầu tư với lợi ích xã hội âm. Sau cú
sốc dầu mỏ thứ nhất và thứ hai những năm 1970, 85%, 50% và 46% nguồn lợi từ dầu
mỏ thuộc về chính phủ Nigeria, Indonesia, Venezuela được dùng để tăng đầu tư công
nhưng không thu được kết quả tăng trưởng (Gelb et al., 1988). Bức tranh này thay đổi
nhẹ trong những năm 2000. Theo báo cáo của IMF về Trung đông và Trung Á, chỉ
những nước hợp tác vùng Vịnh lập kế hoạch đầu từ công vượt mức 800 tỷ đô trong
những năm 2007-2008, đưa ra câu hỏi về khả năng hấp thụ vốn hiệu quả của các
khoản đầu tư lớn.
Thứ ba, thu nhập từ dầu hoả và các chế phẩm của nó (gas, than đá,…) làm
giảm thu nhập nội địa, thu nhập phi dầu mỏ đặc biệt là thuế (Bornhorst et al, 2008).
Hơn nữa, các nước xuất khẩu dầu mỏ thường đối mặt với những ràng buộc cho vay
ngặt nghèo trong giai đoạn giá dầu thấp điều đó làm giảm khả năng duy trì mức chi
tiêu như trước và bị buộc phải cắt giảm chi tiêu. Cắt giảm chi tiêu thường có chi phí xã
hội cao xuất phát từ việc tái phân phối của cải, và việc cắt giảm cũng làm giảm hiệu
quả sử dụng vốn xã hội.
3. PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM VÀ DỮ LIỆU
Phương pháp bảng dữ liệu động GMM sử dụng độ trễ thích hợp của các biến
công cụ để tạo ra các công cụ nội bộ. Ngoài ra, nó khai thác dữ liệu chéo gộp và do đó
không hạn chế về độ dài của chuỗi thời gian trong bảng dữ liệu. Điều này cho phép sử
dụng một cấu trúc độ trễ phù hợp để khai thác đặc điểm của dữ liệu. Mặc dù có những
lợi thế, phương pháp này cũng tồn tại những hạn chế. Đầu tiên, nó chỉ cho phép những
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 6
hệ số chặn - không dốc - khác nhau giữa các nhóm. Như lập luận của Pesaran, Shin và
Smith (1997, 1999), giả định về tính đồng nhất của các tham số về độ dốc, có thể
không thích hợp khi thời gian của bảng dữ liệu không phải là ngắn. Thứ hai là tính phụ
thuộc của dữ liệu chéo thì không được xác định. Vì vậy, bài nghiên cứu này tiếp cận
theo cách phương pháp thứ hai.
Dự toán trung bình gộp - PMG của Pesaran, Shin và Smith (1997, 1999), bằng
cách sử dụng cả các nhóm cá nhân dữ liệu gộp, có lợi thế là cho phép tính không đồng
nhất trong các động lực ngắn hạn nhưng giả định đồng nhất trong thời gian dài. Ước
lượng PMG cho phép chúng ta: (i) ước lượng độ co giãn dài hạn của bảng dữ liệu, (ii)
ước lượng tốc độ điều chỉnh trở lại trạng thái cân bằng cho từng quốc gia, (iii) kiểm tra
tính vững của các kết quả cốt lõi GMM, xem xét tính không đồng nhất của dữ liệu
bảng và tính phụ thuộc lẫn nhau của dữ liệu chéo.
3.1. MÔ HÌNH BẢNG DỮ LIỆU ĐỘNG
Xem xét mô hình sau đây
Trong đó, y là tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người; V là véc tơ
bao gồm các biến liên quan đến giá dầu, F là vector bao gồm các biến chính sách tài
khóa; H là vector bao gồm các biến kiểm soát phi tài chính, η
i
là hiệu quả xuất khẩu cố
định theo thời gian, ξ
it
là một sai số quan sát cụ thể.
Các đặc điểm kỹ thuật động trong công thức (1) cho thấy hiệu ứng cố định của
quốc gia cụ thể có tương quan với biến phụ thuộc độ trễ và một số biến giải thích có
thể là nội sinh. Điều này làm tăng mối liên quan giữa ước lượng và tính không nhất
quán của phương pháp OLS. Phương pháp GMM, ước lượng hệ thống, được phát
triển bởi Arellano và Bover (1995), và Blundell và Bond (1998), đã khắc phục những
vấn đề này. Sử dụng sự khác biệt của các biến ngoại sinh như là công cụ và sự khác
biệt của biến số ngoại sinh chặt (như trong các thủ tục tiêu chuẩn IV).
Để nắm bắt được ảnh hưởng trực tiếp của giá dầu đối với tăng trưởng, bao gồm
hai biến giải thích: tốc độ tăng trưởng hàng năm của giá dầu và sự biến động của giá
dầu. Sau này được đo bằng phương sai có điều kiện của những thay đổi giá dầu bằng
cách sử dụng mô hình GARCH (1, 1). Chúng tôi thực hiện theo các đặc điểm kỹ thuật
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 7
của Lee, Ni và Ratti (1995), sử dụng dữ liệu hàng tháng về giá dầu từ tháng 1 năm
1957 đến tháng 12 năm 2008.
Chính sách tài khóa được đại diện bởi các vector F. Mục tiêu chính của chúng
tôi là nghiên cứu ảnh hưởng của thu nhập đối với nền kinh tế thông qua những thay
đổi trong các loại chi tiêu hoặc thay đổi trong thặng dư ngân sách nhà nước. Kể từ khi
những quyết định tài chính của chính phủ phụ thuộc lẫn nhau, chúng tôi giới thiệu các
hạn chế ngân sách chính phủ (GBC) quy định đầy đủ trong mô hình tăng trưởng. Phụ
thuộc lẫn nhau về tài chính phát sinh từ những tác động tuyến tính của GBC, đòi hỏi
phải bỏ qua một biến tài chính cho mục đích của ước lượng. Bởi việc xây
dựng, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, biến này đại diện cho phương thức
tài chính của một sự thay đổi một trong những biến tài chính khác, f
j
với j = 1, , K-1.
Khi thu ngân sách được bỏ qua, trong khi tổng chi tiêu và cân đối ngân sách
được bao gồm trong hàm hồi quy, hệ số của tổng chi phí được xem như là ảnh hưởng
thực sự đến sự gia tăng trong tổng chi tiêu trừ ảnh hưởng của một sự gia tăng tương
ứng trong thu nhập, để lại cân đối ngân sách không thay đổi. Chính thức, các vector F
có thể được thể hiện như sau: , và ,
k
là nguồn lực tài
chính, và
’
= [
j
*
,……
k-1
*
] là 1xk-1 vector của hệ số như là
j
*
= (
j
-
k
) cho tất cả
j=1,…,k-1.
Cuối cùng, vector phi tài chính H kiểm soát đầu tư tư nhân, mức độ minh bạch,
giáo dục, lạm phát, tổ chức chính trị và chính phủ.
3.2. KIỂM ĐỊNH NGHIỆM ĐƠN VỊ TRÊN DỮ LIỆU BẢNG, ĐỒNG TÍCH
HỢP VÀ ƯỚC LƯỢNG PMG
Chúng tôi kiểm định đối với nghiệm đơn vị trong bảng bằng cách sử dụng hai
phương pháp kiểm định, có xem xét sự không đồng nhất của bảng biểu. Trước hết,
kiểm định Fisher - Maddala & Wu (1999) được dựa trên giá trị p-value của những
kiểm định nghiệm đơn vị riêng biệt, nhưng nó thừa nhận không có sự phụ thuộc chéo
giữa các nhóm. Thứ hai, kiểm định CIPS - Pesaran’s (2007) là một phiên bản làm tăng
việc kiểm tra chéo của Im, Perasan & Shin (2003), đưa những phụ thuộc chéo có thể
có vào quá trình kiểm định.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 8
Sau đó, chúng tôi tiếp tục xác định đồng tích hợp giữa các biến số. Chúng tôi sử
dụng bốn kiểm định đồng tích hợp bảng, được phát triển bởi Westerlund (2007).
Những kiểm định này điều chỉnh những phụ thuộc chéo có thể có giữa những đơn vị
bảng và cho phép một mức độ không đồng nhất rộng. Hai trong số những kiểm định
này là kiểm định trung bình nhóm, mà trong đó, tất cả hệ số điều chỉnh sai số thật dễ
dàng biến đổi từ nhóm này sang nhóm khác. Hai kiểm định còn lại là kiểm định bảng
gộp. Các kiểm định này thừa nhận rằng hệ số điều chỉnh sai số không thay đổi từ nhóm
này sang nhóm khác.
PMG được sử dụng để ước lượng mô hình điều chỉnh sai số như sau:
Trong công thức này, Y
it
là (log) GDP thực bình quân đầu người, y
it
là tỉ lệ tăng
trưởng thu nhập bình quân đầu người; S
i,t-1
là độ lệch từ trạng thái cân bằng dài hạn tại
một thời điểm cho nhóm i, và là hệ số sai số. Vector θ’ bắt buộc những hệ số dài
hạn của lãi suất không được thay đổi từ nhóm này sang nhóm khác; những hệ số này
đại diện cho sự co giãn trong dài hạn của thu nhập bình quân đầu người đối với mỗi
biến trong X
i,t-1
nơi mà biến sau là một vector của những biến được mong đợi có thể
ảnh hưởng đến sự tăng trưởng trong cả ngắn và dài hạn. Sự phản hồi ngắn hạn của các
biến X bởi vector
’
; Z
it
là vector của các biến kiểm soát được mong đợi ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng trong ngắn hạn và ’ là những hệ số ngắn hạn của nó. là hiệu suất
đặc thù nhóm và e
it
là một sai số. Các biến số trong X và Z cũng giống như bên trên.
Tuy nhiên, sự phân chia các biến thành biến ảnh hưởng dài hạn và ngắn hạn sẽ được
chỉ dẫn bằng những kết quả của chúng tôi qua phương pháp ước lượng GMM.
3.3. DỮ LIỆU
Sự mô tả toàn bộ các biến số và nguồn dữ liệu được cung cấp trong bảng A1.
Những quan sát hàng năm về sự không cân bằng của bảng biểu đề cập toàn bộ hay một
phần của giai đoạn 1970 - 2007. Mẫu nghiên cứu bao gồm 15 quốc gia xuất khẩu dầu:
Bahrain, Cameroon, Colombia, Ai Cập, Indonesia, Iran, Kuwait, Malaysia, Mexico,
Nigeria, Na Uy, Oman, Syria, UAE và Venezuela. Dữ liệu tài chính thu thập từ GFS
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 9
của IMF. Trong một vài trường hợp như Nigeria và Indonesia, để hoàn thành bảng số
liệu, chúng tôi thu thập từ chính quốc gia cần nghiên cứu. Đáng ghi nhận là phương
pháp luận của GFS đã thay đổi từ thu thập dữ liệu từ những năm 1991 đến nay. Cho
nên, vì mục đích nhất quán, chúng tôi hạn chế dữ liệu từ căn cứ thực thu, thực chi và
cấp độ chính quyền trung ương. Thêm vào đó, định nghĩa các biến số có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Ví dụ, định nghĩa của tiêu dùng thực được báo cáo dựa trên dữ liệu
cũ, được đồng nhất với lượng chi tiền mặt cho dữ liệu sau 1990, v.v…
Bảng (1a) tóm tắt tỷ lệ trung bình cho những dạng khác nhau của thu, chi chính
phủ trong GDP của 15 nước xuất khẩu dầu. Nó mô tả sự phát triển trong tài chính
chính phủ (% GDP) tương ứng với chu trình tăng-giảm-tăng của giá dầu trong giai
đoạn 1970-2007. Chi tiêu đầu tư chính phủ và cơ sở hạ tầng là những khoản mục chịu
ảnh hưởng bất lợi nhất từ những cú sốc tiêu cực vào thập niên 1980 và 1990, và tỷ
trọng trong GDP tiếp tục giảm trong sự cố những năm 2000. Chi tiêu đầu tư giảm
mạnh từ 9.2% xuống còn 5.6% suốt những năm 80 và 90, và tiếp tục giảm chỉ đạt
4.7% của GDP giai đoạn 2002-2007. Theo báo cáo của IMF Trung Đông và Trung Á
(2007), các nhà xuất khẩu dầu phản ứng lại khôn ngoan hơn đối với sự tăng giá dầu và
doanh thu suốt giai đoạn bùng nổ gần đây, đặc biệt trong việc sắp xếp chi tiêu đầu tư,
so sánh với những năm 1970. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng các số liệu trong bảng
(1a) không phản ánh được chu kỳ tăng trưởng mạnh, cao điểm là năm 2008. Sự giảm
mạnh tỷ lệ của đầu tư công trong lần bùng nổ gần đây, có thể phản ánh độ trễ của chi
tiêu đầu tư.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 10
Bảng 1a. Tài chính của Chính phủ (%GDP) và tăng trưởng (1970 – 2007)
Biến Giá dầu tăng
(1970-1981)
Giá dầu giảm
(1982-2001)
Giá dầu tăng
(2002-2007)
Tổng chi tiêu của Chính phủ 31.4 28.0 27.9
Chi tiêu đầu tư 9.2 5.6 4.7
Chi tiêu thông thường 20.1 21.0 23.3
Lương 6.7 7.0 6.7
Chi mua hàng hoá và dịch vụ 7.6 5.8 3.6
Cán cân chuyển giao vãng lai 6.0 6.5 10.0
Tiêu dùng chính phủ 15.7 16.0 14.4
Chi tiêu xã hôị 6.5 9.0 9.9
Chi hạ tầng cơ sở 7.9 5.1 2.8
Dịch vụ công 3.4 3.0 7.4
Tổng thu nhập của Chính phủ 30.1 25.3 35.4
Thu từ thuế 15.2 13.4 14.6
Thu không phải từ thuế 14.9 11.9 20.8
Tỷ trọng thu từ thuế 51% 53% 41%
Tăng/giảm GDP
bình quân đầu người
-0.06% -2.65% -0.20%
Nguồn: Theo tính toán của tác giả dựa trên dữ liệu GFS. Dữ liệu trung bình cho 15 quốc gia
xuất khẩu dầu
Ngược lại, chi tiêu chuyển giao và chi tiêu xã hội (giáo dục, phúc lợi xã hội, sức
khoẻ và nhà ở công) tăng mạnh trong những năm 1980 và 1990 và tiếp tục tăng trong
thời gian gần đây với giá cao. Điều này phản ánh một phần sự biến đổi được ưu tiên từ
vốn vật chất sang vốn con người. Tỷ trọng tiêu dùng chính phủ trong GDP có xu
hướng tiếp tục giảm từ một tỷ lệ lớn vào những năm 1970. Tóm lại, mặc dù bảng (1a)
chỉ ra một vài đường cong chi tiêu từ những năm 1970, nhưng nó đã bộc lộ ra dấu hiệu
của một cấu trúc doanh thu yếu kém. Sự tăng đột ngột trong doanh thu từ năm 2002-
2007 đã dẫn đến sự giảm mạnh trong tỷ lệ thuế trong tổng doanh thu chính phủ từ 53%
trong những năm 80, 90 đến 41% trong những năm 2000.
Bảng (1a) còn chỉ ra tình trạng tăng trưởng yếu kém của những quốc gia nghiên
cứu khi xem xét thu nhập bình quân đầu người xuyên suốt ba giai đoạn. Tuy nhiên, nó
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 11
cũng mô tả một vài dấu hiệu về sự phản hồi không tương xứng giữa thu nhập bình
quân đầu người và chu kỳ giá dầu. Trong khi chúng ta mong đợi thu nhập bình quân
đầu người tăng suốt chu kỳ phồn thịnh, thì chúng ta thấy đấy, tính trung bình, nó giảm
một mức nhỏ trong giai đoạn thứ nhất và thứ ba. Tuy nhiên, điều này không gây sự
ngạc nhiên, tình trạng phát triển xấu nhất xuất hiện khi giá dầu giảm giá nhanh vào
những năm 1980 và 1990, thu nhập thực bình quân đầu người giảm hơn mức trung
bình năm là 2.65% trong giai đoạn này.
Bảng (1b) giới thiệu mức tăng trưởng trung bình hàng năm của mỗi quốc gia
cho toàn bộ giai đoạn nghiên cứu và độ lệch chuẩn của nó. Trong hầu như bốn thập kỷ,
mức tăng trưởng trung bình hàng năm mang giá trị âm (-1.74%). Tuy nhiên, một vài
quốc gia tương đối làm tốt hơn các quốc gia còn lại. Venezuala, Nigeria, Mexico và
Iran có những tình trạng tăng trưởng kinh tế xấu tệ nhất cùng với sự biến động thu
nhập cao. Điều này là tạo ra một chặng đường cho cuộc điều tra của chúng tôi về vai
trò của chính sách tài khoá.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 12
Bảng 1b. Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn
của tỉ lệ thay đổi GDP thực bình quân đầu người (1970 – 2007)
Quốc gia Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn
Bahrain 0.83 1.64
Iran -4.49 8.06
Kuwait -0.68 5.61
Nigeria -5.82 10.18
Oman 2.09 3.65
UAE -0.25 3.81
Venezuela -6.14 8.72
Indonesia -0.67 5.11
Mexico -5.51 9.62
Ai Cập -2.44 6.50
Malaysia 0.85 4.67
Na Uy 0.81 3.83
Syria -3.63 8.35
Colombia 0.61 4.55
Cameroon -3.06 7.62
Tất cả các quốc gia -1.74 6.87
Nguồn: Theo tính toán của tác giả
4. KÊT QUẢ VÀ THẢO LUẬN CHÍNH SÁCH
Sử dụng phương pháp kiểm định F-tests, chúng tôi ước lượng mô hình tăng
trưởng tại phương trình (2) để xác định một số độ trễ đáng quan tâm. Bắt đầu với tám
độ trễ của các biến chính sách tài chính, mô hình dự đoán được giảm xuống còn năm
độ trễ.
Bảng (2) trình bày kết quả ước lượng mô hình tăng trưởng cơ bản, được tăng
thêm các yếu tố là sự thay đổi giá dầu và tính biến thiên . Ở cột ba, hai biến chính sách
tài khóa theo quy ước – chi tiêu chính phủ và nguồn thu thuế - được đặc biệt cộng
thêm và xuất hiện không đáng kể. Ở cột bốn, mô hình được tái dự đoán - giới thiệu
GBC theo một thể thức hợp nhất. Sự hồi quy 4b (và tất cả các kết quả hồi quy kéo theo
có đánh dấu bằng chữ cái b), hạn chế mẫu thời kỳ 1984- 2002 thay vì loại trừ các kỷ
nguyên doanh thu khủng vào thập niên 1970 và 2000.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 13
Trước tiên, chúng ta chú ý một số kết quả sơ bộ từ bảng (2). Thứ nhất, trong khi
giá dầu tăng cao hơn có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng, sự biến thiên cao hơn lại
ngăn cản tăng trưởng. Tuy nhiên, ngay khi chúng ta kiểm soát chính sách tài khóa, các
hệ số của thay đổi giá dầu bị sụt giảm đáng kể (từ 0.21 xuống 0.008) nhưng vẫn còn
ảnh hưởng chủ động, đáng kể và ảnh hưởng tiêu cực của các khuynh hướng biến thiên
cho tới khi bị triệt tiêu. Kết quả này được giữ trong tất cả các ước lượng tiếp theo. Vì
thế, sự dịch chuyển giá dầu, một phần từ các kênh tài chính, dường như giải thích một
phần nhỏ các biến động trong tỷ lệ tăng trưởng. Ví dụ, giá dầu sụt giảm so với mức
trung bình thường niên là 7% khoảng giữa các năm 1984 và 2002. Theo kết quả ở
bảng (2), sự sụt giảm này chỉ giải thích được 0.14% (ngoài khoảng 2.7%) phần sụt
giảm so với tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm. Thứ hai, thặng dư ngân sách lũy kế
vào các thời điểm doanh thu khủng có một ảnh hưởng tiêu cực và đáng kể đến tăng
trưởng. Điều này dường như trở nên vững thông qua các hồi quy tiếp theo. Thứ ba, chi
tiêu chính phủ - được tài trợ bởi thặng dư từ nguồn thu – có một ảnh hưởng đáng kể
lên tăng trưởng. Thứ tư, tất cả các biến kiểm soát khác có các dấu hiệu đúng. Ghi chú
đáng giá chính là các chỉ thị dân chủ dường như bị mất tầm ảnh hưởng ngay khi các
biến tài chính và điều hành được đính kèm. Sau khi kiểm soát chính sách tài chính, sự
điều hành xuất hiện để có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến tăng trưởng. Phần còn lại
của chuyên đề này là các kết quả để xem xét kỹ lưỡng hơn.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 14
Bảng 2. Chính sách tài khóa, giá dầu và tăng trưởng:
Tài khóa hợp nhất bắt buộc.
Kết quả của phương pháp GMM - Mẫu (1-4a): 1970-2007; (4b): 1984-2002
Biến phụ thuộc: Log của GDP thực bình quân đầu người.
(1) (2) (3) (4a) (4b)
Tăng trưởng của giá dầu thực
0.21***
(3.94)
0.18**
(2.48)
0.02**
(2.86)
0.008**
(2.67)
0.2***
(4.67)
Tính biến thiên của giá dầu
0.02*
(1.95)
0.01*
(1.91)
-0.02
(1.41)
-0.01
(1.26)
Chi tiêu của chính phủ 0.02
(1.01)
Nguồn thu từ thuế -0.06
(0.95)
Thặng dư ngân sách
0.19***
(6.87)
0.21***
(3.17)
Tổng chi tiêu của chính phủ
0.02***
(3.49)
0.05**
(2.89)
Thị trường mở (phi dầu hoả) 0.01
(1.53)
0.01*
(1.89)
0.02*
(1.99)
0.03*
(1.90)
0.03**
(2.30)
Lạm phát
0.03**
(2.52)
0.04**
(2.67)
0.05**
(1.99)
0.04*
(1.95)
0.03**
(2.65)
Vốn con người
0.03**
(2.31)
0.02*
(1.80)
0.03
(1.55)
0.02
(1.45)
0.03*
(1.80)
Đầu tư tư nhân 0.08
(1.44)
0.03
(1.59)
0.04
(1.54)
0.02
(1.39)
0.05*
(1.98)
Định chế dân chủ
0.08*
(2.67)
0.08*
(1.96)
0.06
(1.75)
0.05
(1.55)
0.05
(0.35)
Governance (1984)
0.07***
(3.43)
0.09***
(3.85)
Số biến quan sát 477 477 417 417 195
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 15
AR(2) Test
-1.58
[0.12]
-0.67
[0.42]
-0.61
[0.45]
-0.61
[0.45]
-1.12
[0.20]
Sargan test
91.00
[0.34]
90.96
[0.35]
93.4
[0.31]
91.4
[0.33]
79
[0.24]
Số biến quan sát 385 385 385 385 262
Ghi chú: Tất cả các hồi quy đều bao gồm thu nhập đầu người ban đầu (1970), trễ pha tăng
trưởng, yếu tố địa lý và thời gian. Các biến số chính sách tài khóa được phản ánh bằng năm độ
trễ, tất cả các giá trị khác bằng một sự trễ pha. Các hệ số báo cáo được tính toán bằng tổng của
các hệ số tồn tại đồng thời và sự trễ pha đã giảm trừ đi hệ số của các biến trễ pha phụ thuộc.
Thống kê F được báo báo trong dấu ngoặc kép ngay dưới hệ số. Giá trị P được đặt trong dấu
ngoặc vuông. Các biểu tượng ***, ** và * cho biết rằng các hệ số có mức ý nghĩa là 1%, 5% và
10% theo thứ tự.
Ở bảng (3), kinh phí tổng cộng của chính phủ được phân tích trong mối quan hệ
với vốn và các bộ phận cấu thành dòng tiền. Luồng tiền chi tiêu được tách rời ra khỏi
tiền lương ngân sách, mua hàng hóa và dịch vụ, các luồng tiền thanh toán, và tất cả các
chi phí khác trong bảng (4). Sự phân tích qua chức năng chi tiêu được trình bày trong
bảng (5). Tổng chi tiêu thì không gộp chung vào chi tiêu xã hội nòng cốt của chính
phủ, dịch vụ công, cở sở hạ tầng, và chi tiêu cho các chức năng khác.
Lưu ý rằng tất cả các ước lượng mà chúng tôi đề cập đều dựa trên cùng các giả
định tài chính. Trước tiên chúng tôi xem xét tổng nguồn thu ngân sách, bao gồm cả
nguồn thu thuế và phi thuế quan, và sau đó chúng tôi xem xét sự ảnh hưởng của tài
chính - thuế. Tiếp theo, chúng tôi đào xới các thảo luận của chúng tôi và các chính
sách liên quan mật thiết vào hai nhóm, tìm hiểu sự liên quan tới cả phía thu và phía chi
của ngân sách.
4.1. NGUỒN THU KHỦNG CỦA CHÍNH PHỦ VÀ TĂNG TRƯỞNG
Các bảng (3), (4) và (5), chỉ ra rằng thặng dư tài khóa có ảnh hưởng tiêu cực
đến tăng trưởng khi thặng dư nguồn thu ngân sách độc lập với việc thực hiện các chính
sách chi tiêu. Kết quả này cần được xem xét kỹ lưỡng hơn. Lưu ý rằng các ảnh hưởng
tiêu cực (ròng) này phản ánh hai bộ phận cấu thành: ảnh hưởng biên của cân bằng
ngân sách và ảnh hưởng của nguồn thu chính phủ. Nói một cách khác, các phương
pháp đo lường hệ số ảnh hưởng đến tăng trưởng là lũy kế thặng dư chính phủ ròng
chịu ảnh hưởng bởi sự bùng nổ quả bom doanh thu. Bởi vậy, mối quan hệ tiêu cực
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 16
giữa thặng dư - tăng trưởng có thể bị gián tiếp ảnh hưởng bởi tác động tiêu cực của
nguồn thu khủng trong nền kinh tế.
Kinh nghiệm của các quốc gia giàu tài nguyên như Mexico, Nigeria, Venezuela,
và các nước khác, tiết lộ rằng nguồn thu khủng từ dầu là một bất lợi cho tăng trưởng
bởi vì nó làm nổ ra những cuộc đấu tranh quá khích để giành giật đặc lợi kinh tế của
các nhóm lợi ích đặc biệt đối với nguồn thu từ dầu của nhà nước trên tất cả các cấp độ
chính phủ.
Ngược lại, trong suốt cuộc suy thoái, Chính phủ thường thặng dư ít hơn
hoặc thâm hụt nhưng nó lại làm giảm nhẹ áp lực rent-seeking và cải thiện chi tiêu sản
xuất.
Tuy nhiên, không ám chỉ rằng các quốc gia dầu mỏ không nên giữ các khoản
thu vượt quá. Nó dường như cảnh báo tới tầm quan trọng của các nguyên tắc thi hành
vòng quay tài chính nghiêm ngặt, và việc xây dựng những ảnh hưởng chính trị nhạy
cảm thích hợp khuyến khích thêm sự coi trọng vòng quay tài chính. Động thái này là
nền tảng cho sự đầu tư đầy thành công nguồn thặng dư ở Quỹ Tài nguyên quốc gia
(Humphreys & Sandbu, 2007). Thêm nữa, nó cũng quan trọng để giảm các khoản nợ
trong thời kỳ doanh thu khủng.
Để có điều tra kỹ hơn ảnh hưởng điều chỉnh giảm thặng dư này, nguồn thu
được phân tích trong các bộ phận cấu thành có thuế và không có thuế. Để mở rộng
những vấn đề xung quanh nguồn thu không thuế, hầu hết nguồn thu từ dầu thông qua
các kênh tới ngân sách, giá trị của nó sẽ phản ánh sự bùng nổ quả bom doanh thu dầu
mỏ. Điều này đặc biệt đúng với các nền kinh tế giàu tài nguyên dầu mỏ nhưng lại kém
phát triển. Ở các cột sáu, tám và mười, thuế được thừa nhận là một nguồn lực của ngân
sách và vì thế các nguồn thu không thuế được xem như là một sự giảm trừ. Dẫu sao
thì, bằng cấu trúc, sự thay đổi trong nguồn thu không thuế được thu xếp bằng sự thay
đổi thuế quan, cắt giảm chi tiêu và không ảnh hưởng đến thặng dư.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 17
Bảng 3.Chính sách tài chính, giá dầu và tăng trưởng:
Các bộ phận cấu thành vốn và luồng tiền
Kết quả của phương pháp GMM – Mẫu (5a-6a): 1970-2007; (5b-6b): 1984-2002
Biến phụ thuộc: Log của GDP thực bình quân đầu người.
Phương pháp tài chính Tổng nguồn thu Nguồn thu từ thuế
(5a) (5b) (6a) (6b)
Tăng trưởng của giá dầu thực
0.007**
(2.72)
0.02***
(3.96)
0.007***
(2.99)
0.03***
(3.96)
Tính biến thiên của giá dầu
-0.01
(1.23)
-0.01
(1.30)
-0.01
(1.41)
-0.02
(1.52)
Thặng dư ngân sách
0.17***
(7.12)
0.27***
(8.35)
-0.07
(1.23)
-0.09
(1.03)
Nguồn thu không thuế
0.15***
(6.21)
0.12***
(5.22)
Chi tiêu xây dựng cơ bản
0.41*
(1.89)
0.51***
(3.63)
0.58
(1.28)
0.74
(1.46)
Chi tiêu thông thường
0.01
(1.10)
0.03
(1.33)
0.08
(0.40)
0.16
(0.17)
Ảnh hưởng giữa đầu tư và tăng trưởng
0.92**
(2.44)
0.54*
(1.84)
0.44**
(2.13)
0.60**
(2.46)
Ảnh hưởng giữa tiêu dùng và đầu tư
0.18
(0.96)
0.15
(0.54)
0.03
(0.92)
0.11
(0.89)
Thị trường mở (không có dầu)
0.01*
(1.79)
0.03***
(4.15)
0.01
(1.34)
0.02***
(3.34)
Lạm phát
0.04*
(1.87)
0.05*
(1.89)
0.03**
(2.20)
0.04**
(2.38)
Vốn con người
0.02*
(1.81)
0.03
(1.59)
0.04*
(1.83)
0.03
(1.33)
Đầu tư tư nhân
0.03
(1.39)
0.04**
(2.24)
0.06
(1.64)
0.04*
(1.84)
Định chế dân chủ
0.05
(1.57)
0.06
(0.67)
0.05
(1.48)
0.6
(0.92)
Govermance (1984)
0.09**
(2.85)
0.06*
(2.01)
0.11*
(2.12)
0.05
(1.67)
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 18
Số quan sát
477 195 417 195
AR(2) Test
-1.12
[0.20]
-0.91
[0.31]
-1.01
[0.24]
-0.15
[0.88]
Sargan test
89.2
[0.47]
81.6
[0.56]
90.0
[0.45]
90.6
[0.43]
Ghi chú: Tất cả các kết quả ước lượng đều bao gồm thu nhập đầu người ban đầu (1970), độ trễ
tăng trưởng, địa lý và thời gian. Các biến về chính sách tài chính được phản ánh vào 5 độ trễ, tất
cả các giá trị khác với một độ trễ. Ảnh hưởng tăng trưởng được tính toán bằng tổng của các hệ số
tồn tại đồng thời và hệ số ước luợng độ trễ (5 lags) trừ đi hệ số của các biến phụ thuộc. Thống kê
F được báo báo trong dấu ngoặc kép ngay dưới hệ số. Giá trị P được đặt trong dấu ngoặc vuông .
Các biểu tượng ***, ** và * cho biết rằng các hệ số có mức ý nghĩa là 1%, 5% và 10% theo thứ
tự.
Ngay khi có biến nguồn thu không thuế, các hệ số của thặng dư ngân sách mất
ngay tầm ảnh hưởng, nhưng chú ý đến mặt tiêu cực, trong lúc ảnh hưởng của nguồn
thu không thuế làm xuất hiện ảnh hưởng tiêu cực. Kết quả này phù hợp với các tranh
cãi trên cho rằng ảnh hưởng sụt giảm tăng trưởng của thặng dư ngân sách xuất phát từ
ảnh hưởng bất lợi của nguồn thu dầu khủng (làm sụt giảm thuế quan trong trường hợp
này) thay vì thặng dư ngân sách mỗi giai đoạn.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 19
Bảng 4.Chính sách tài chính, giá dầu và tăng trưởng: Phân tích dòng tiền chi tiêu
Kết quả của phương pháp GMM - Mẫu (7a-8a): 1970-2007; (7b-8b): 1984-2002
Biến phụ thuộc: Log của GDP thực bình quân đầu người.
Tổng nguồn thu Nguồn thu từ thuế Phương pháp tài chính
(7a) (7b) (8a) (8b)
Tăng trưởng của giá dầu thực
0.003**
(2.60)
0.03***
(4.36)
0.006**
(2.86)
0.03***
(3.43)
Tính biến thiên của giá dầu
-0.01
(1. 3)
-0.01
(1.31)
-0.01
(1.10)
-0.01
(1.20)
Thặng dư ngân sách
0.15***
(7.45)
0.22***
(7.89)
-0.09
(1.09)
-0.13
(1.09)
Nguồn thu không thuế
0.11***
(6.55)
0.13***
(5.10)
Chi tiêu đầu tư
0.40**
(2.90)
0.53**
(2.88)
0.62
(1.12)
0.70
(1.56)
Ảnh hưởng giữa Đầu tư và tăng trưởng
0.85*
(1.96)
0.56*
(1.89)
0.45**
(2.10)
0.82**
(2.46)
Lương chính phủ
0.09**
(2.29)
0.07**
(2.61)
-0.01
(0.99)
-0.04
(0.92)
Chi mua hàng hoá và dịch vụ của chính
phủ
0.07**
(2.50)
0.06*
(1.92)
0.03*
(1.96)
0.04*
(2.07)
Cán cân chuyển giao vãng lai
-0.001
(1.52)
-0.001
(0.56)
0.06
(0.81)
0.02
(0.94)
Thị trường mở (không có dầu)
0.01*
(1.99)
0.03***
(4.51)
0.02*
(1.88)
0.02***
(3.74)
Lạm phát
0.04*
(1.87)
0.03*
(1.99)
0.03*
(1.99)
0.04**
(2.91)
Vốn con người
0.02*
(1.80)
0.03
(1.62)
0.05*
(1.99)
0.04*
(1.98)
Đầu tư tư nhân
0.03
(1.56)
0.02*
(1.89)
0.06
(1.44)
0.03*
(1.91)
Định chế dân chủ
0.8
(1.36)
0.3
(0.92)
0.8
(1.19)
0.4
(0.90)
Govermance (1984)
0.07**
(2.77)
0.05*
(1.92)
0.08*
(1.98)
0.05
(1.56)
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 20
Ghi chú: Tất cả các kết quả ước lượng đều bao gồm thu nhập đầu người ban đầu (1970), độ trễ
tăng trưởng, địa lý và thời gian. Các biến về chính sách tài chính được phản ánh vào 5 độ trễ, tất
cả các giá trị khác với một độ trễ. Ảnh hưởng tăng trưởng được tính toán bằng tổng của các hệ số
tồn tại đồng thời và hệ số ước luợng độ trễ (5 lags) trừ đi hệ số của các biến phụ thuộc. Thống kê
F được báo báo trong dấu ngoặc kép ngay dưới hệ số. Giá trị P được đặt trong dấu ngoặc vuông .
Các biểu tượng ***, ** và * cho biết rằng các hệ số có mức ý nghĩa là 1%, 5% và 10% theo thứ
tự.
4.2. KẾT CẤU CHI TIÊU CÔNG VÀ TĂNG TRƯỞNG
Trong bảng (3), chi tiêu được phân tích trong quan hệ giữa đầu tư và tiêu dùng.
Chúng ta xem xét khả năng chi tiêu chính phủ có thể có các ảnh hưởng tăng trưởng
khác nhau tùy thuộc vào sự thay đổi giá dầu mỏ. Các điều kiện trọng yếu của sự thay
đổi giá dầu với chi đầu tư và chi tiêu dùng thì được cộng thêm (ngược lại).
Bất chấp phương pháp tài trợ, chi tiêu thông thường ảnh hưởng không đáng kể
với sự thay đổi giá dầu. Ngược lại, chi tiêu đầu tư được tài trợ thông qua thặng dư
nguồn thu, phản ánh lợi ích xã hội lâu dài. Ảnh hưởng ngày càng nhiều hơn trong thời
kỳ giá dầu xuống thấp. Tuy nhiên, trong điều kiện chi tiêu đầu tư tăng lên và giá dầu
xuống dốc thì lại trở thành sự sụt giảm nghiêm trọng. Dẫu sao, ảnh hưởng tăng trưởng
biên của sự thay đổi chi tiêu đầu tư được công thức hóa như sau
growth =
cap
+
0
*
real.oil.price, với
cap
là hệ số của chi đầu tư
0
là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa chi
đầu tư và sự thay đổi giá dầu.
Khi
0
là mang giá trị âm, giá dầu tăng sẽ làm giảm hiệu quả xã hội trên chi tiêu
đầu tư gia tăng. Giá dầu càng tăng mạnh càng làm giảm hiệu quả của đầu tư mới trên
tăng trưởng. Ví dụ, khi chi đầu tư được tài trợ thông qua tổng nguồn thu (cột 5a), một
phần gia tăng 45% trên giá dầu làm giảm hiệu quả khi tăng vốn đầu tư trong GDP
(0.41-0.91*45%). Nếu giá dầu vượt quá 45%, chi tiêu đầu tư làm giảm lợi nhuận.
Trong các thời kỳ giá dầu thấp (cột 5b), chúng ta thấy ngưỡng này nhiều hơn gấp đôi
Số quan sát
417 195 417 195
AR(2) Test
-0.90
[0.30]
0.97
[0.28]
-1.11
[0.21]
-0.19
[0.88]
Sargan test
9.8
[0.46]
81.1
[0.55]
90.0
[0.45]
90.4
[0.44]
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 21
(tới 94%). Nó tạo ra một cú sốc dầu rất lớn cho đầu tư công để có được ảnh hưởng sụt
giảm đối với tăng trưởng.
Trong suốt thời kỳ bong bóng doanh thu, chính phủ đáp lại sự nhạy cảm chính
trị để chi trả nhiều hơn, tạo uy tín, và có ít các dự án sản xuất. Thêm vào đó, kết quả ở
cột 6a và 6b chỉ ra rằng đầu tư công, được tài trợ thông qua thuế cao hơn trong suốt
thời kỳ bong bóng (giá dầu tăng), sẽ tạo một tác động tiêu cực. Chú ý rằng
cap
trở nên
không đáng kể trong khi
0
thì vẫn đáng kể đối với tác động sụt giảm. Những kết quả
này thúc đẩy hai chính sách quan trọng liên quan: trước tiên, mở rộng chi tiêu đầu tư
trong suốt thời kỳ bong bóng thì làm chậm lại tăng trưởng; thứ hai, chống lại cú rơi
của giá dầu bằng cách gia tăng chi tiêu đầu tư kích thích tăng trưởng, không quan tâm
tới phương thức tài trợ. Ngược lại, cắt giảm chi tiêu đầu tư khi giá dầu giảm làm tăng
thêm ảnh hưởng sâu sắc tới tăng trưởng. Ảnh hưởng của sụt giảm tăng trưởng lớn hơn
sự sụt giảm của giá dầu và tạo sự cắt giảm giả tạo chi tiêu đầu tư.
Chúng ta có thể nhìn vào đường biên của hiệu quả tăng trưởng khi có sự thay
đổi giá dầu, tỷ lệ của đầu tư công được, tính như sau
growth =
oilp
+
0
*capital.Expenditure.%GDP; trong đó,
oilp
là hệ số của sự tăng trưởng trong giá
dầu và
0
là hệ số tương tác thời kỳ. Ý nghĩa: sự tăng trưởng hiệu quả trong việc thay
đổi giá dầu phụ thuộc vào tỉ lệ của đầu tư công trong nền kinh tế. Bởi vì
oilp
là tích
cực và
0
mang giá trị âm, một tỉ lệ của đầu tư công vào GDP cao hơn sẽ khiến hiệu
quả tích cực của sự tăng giá dầu thấp hơn. Đó là, giá dầu tăng lên có thể gây trở ngại
sự tăng trưởng của một quốc gia có tỷ lệ chi tiêu công lớn hơn, có lẽ bởi vì sự thu lại
của xã hội thấp trên số vốn công mới.
Ví dụ, Venezuela và Oman có trung bình chi tiêu đầu tư của chính phủ là 1.6%
và 7.4% trong GDP. Khi đầu tư công là phần tài chính thông qua doanh thu từ dầu mỏ
(cột 5a), giá dầu tăng trưởng nhanh hơn 1% thì sự tăng trưởng của Venezuela chậm lại
0.23% và Oman là 0.78%. Ngược lại, một lượng tỉ lệ lớn hơn đầu tư ban đầu làm giảm
tác động bất lợi đến hiệu quả tăng trưởng khi giá dầu giảm. Vì vậy, các nước có cơ sở
hạ tầng vật chất ban đầu và phần vốn chi tiêu công lớn thì có vị thế tốt hơn trong việc
bảo vệ năng suất từ những cú rơi bất lợi khi giá dầu giảm.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 22
Trong bảng (4), chúng ta tìm hiểu sâu hơn về hiệu quả của chi tiêu thông
thường. Kết quả trong cột 7 và cột 8, chỉ ra sự gia tăng trong các lĩnh vực công về
lương, thưởng và chi tiêu chính phủ vào các hàng hóa và dịch vụ trong suốt thời kỳ
bùng bổ giá dầu hỏa, gây hiệu quả tiêu cực đến tăng trưởng. Tuy nhiên, trong khi
lương công đang tăng thì nâng thuế thêm là vô nghĩa, sự gia tăng của chi tiêu chính
phủ vào các hàng hóa và dịch vụ có hiệu quả đến tăng trưởng. Hơn nữa, các khoản chi
tiêu thông thường và các chi tiêu khác đều vô nghĩa bất chấp nguồn tiền, nhận định
rằng hầu hết chúng là phi hiệu quả.
Bảng (5) phân tách tổng cộng các khoản chi tiêu thông qua chức năng. Chi tiêu
cho cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng là hiệu quả nhất, bất kể phương pháp tài chính.
Hiệu quả này tương đối lớn trong trường hợp các dịch vụ công, ám chỉ nguồn thu về
cũng tương đối lớn. Mặt khác, chi ra nhiều hơn cho tiêu dùng xã hội mà được tài trợ
bởi doanh thu từ dầu mỏ thì gây trở ngại tăng trưởng.
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 23
Bảng 5.Chính sách tài chính, giá dầu và tăng trưởng:
Phân loại chi tiêu theo chức năng
Kết quả của phươnng pháp GMM
– Mẫu (9a-10a): 1970-2007; (9b-10b): 1984-2002
Biến phụ thuộc: Log của GDP thực bình quân đầu người.
Tổng nguồn thu Nguồn thu từ thuế Phương pháp tài chính
(9a) (9b) (10a) (10b)
Tăng trưởng của giá dầu thực
0.004**
(2.53)
0.02***
(4.36)
0.007**
(2.81)
0.04***
(3.43)
Tính biến thiên của giá dầu
-0.03
(1.60)
-0.01
(1.31)
-0.02
(1.27)
-0.02
(1.54)
Thặng dư ngân sách
0.17***
(8.33)
0.22***
(7.89)
-0.10
(1.56)
-0.13
(1.18)
Nguồn thu không thuế
0.11***
(6.55)
0.14***
(6.01)
Chi sự nghiệp xã hội
0.10**
(2.62)
-0.07
(1.70)
0.16
(0.98)
0.17
(1.23)
Cơ sở hạ tầng
0.29**
(2.45)
0.25**
(2.87)
0.49***
(3.79)
0.36***
(3.09)
Dịch vụ công
0.93***
(3.89)
0.83***
(3.74)
1.03**
(2.89)
1.01***
(3.58)
Tất cả khoản chi khác
0.08
(1.52)
0.03
(0.45)
0.15
(0.98)
0.10
(1.02)
Thị trường mở (không có dầu)
0.01
(1.79)
0.02**
(2.51)
0.02**
(2.88)
0.02***
(3.74)
Lạm phát
0.04**
(1.87)
0.05*
(1.89)
0.03**
(2.20)
0.04**
(2.38)
Vốn con người
0.03
(1.69)
0.04
(1.61)
0.05*
(1.99)
0.04*
(1.98)
Đầu tư tư nhân
0.03
(1.58)
0.02
(1.54)
0.06
(1.44)
0.03*
(1.99)
Định chế dân chủ
0.7
(1.33)
0.4
(0.45)
0.8
(1.19)
0.4
(0.68)
Govermance (1984)
0.12***
(4.85)
0.09**
(2.85)
0.10***
(3.75)
0.07*
(2.10)
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 24
Ghi chú: Tất cả các kết quả ước lượng đều bao gồm thu nhập đầu người ban đầu (1970), độ trễ
tăng trưởng, địa lý và thời gian. Các biến về chính sách tài chính được phản ánh vào năm độ trễ,
tất cả các giá trị khác với một độ trễ. Ảnh hưởng tăng trưởng được tính toán bằng tổng của các hệ
số tồn tại đồng thời và hệ số ước luợng độ trễ (5 lags) trừ đi hệ số của các biến phụ thuộc. Thống
kê F được báo báo trong dấu ngoặc kép ngay dưới hệ số. Giá trị P được đặt trong dấu ngoặc
vuông. Các biểu tượng ***, ** và * cho biết rằng các hệ số có mức ý nghĩa là 1%, 5% và 10%
theo thứ tự.
4.3. NHỮNG KIỂM ĐỊNH TÍNH BỀN VỮNG
Những kết quả ước lượng ở những phân kỳ giá dầu thấp được giới hạn lại
(1984-2002) chỉ ra rằng kết quả cốt lõi không có khác nhau đáng kể cho toàn bộ các
giai đoạn nghiên cứu. Những kết quả vẫn bền vững bao gồm cú shock dầu hỏa tiêu cực
và những biến giả phụ thuộc vào dầu cao. Chúng tôi cũng kiểm tra cho những ảnh
hưởng của các biến quan sát, bỏ đi ba biến quan sát có tỷ lệ ảnh hưởng tiêu cực đến sự
phát triển cao và loại trừ những thặng dư cao.
Chúng tôi cũng sử dụng biến giả thị trường mở của Sachs và Warner thay cho
tổng của tỷ lệ xuất nhập khẩu (không dầu) trong GDP, chỉ số tự do chính trị thay vì
những điểm chính thể, kiểm soát chỉ số giá trị tham nhũng năm 1996 từ Worldwide
Governance Indicators (WB) thay cho chỉ số quản lý tổng hợp của ICRG 1984, và
thêm sự gia tăng dân số. Tất cả những điểm chính được tìm thấy về chính sách tài
khoá thì hoàn toàn vững chắc.
Cuối cùng, một điều có thể gay tranh cãi là nền kinh tế phụ thuộc cao vào dầu
thì có thặng dư và, cùng một lúc, chịu tỷ lệ tăng trưởng trung bình thấp. Do đó, tác
động tiêu cực của thặng dư ngân sách lên tăng trưởng có thể là trung gian cho mối
quan hệ tiêu cực giữa mối quan hệ dầu hỏa và tăng trưởng. Để kiểm tra khả năng này,
chúng tôi xem xuất khẩu dầu hỏa như là % của hàng hóa xuất khẩu. Nếu sự tác động
tiêu cực của thặng dư biến mất, sau đó quả thật sự phụ thuộc vào dầu dẫn đến những
Số biến quan sát
378 169 378 169
AR(2) Test
-0.91
[0.31]
-0.95
[0.29]
-1.15
[0.17]
-0.17
[0.88]
Sargan test
81.6
[0.56]
82.1
[0.55]
90.0
[0.42]
90.4
[0.41]
Chính sách chi tiêu công và tăng trưởng
tại các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ GVHD: PGS. TS. Sử Đình Thành
Nhóm 7 – Lớp TCDN Ngày – K22 Trang 25
biến số, những biến số này không trực tiếp trong mối liên hệ giữa thặng dư và tăng
trưởng. Chúng ta thấy tác động tiêu cực cao đáng chú ý của thặng dự vẫn còn bị giữ.
4.4. TÍNH KHÔNG ĐỒNG NHẤT, SỰ HỘI TỤ VÀ KẾT QUẢ PMG
Trước tiên, chúng ta tiến hành kiểm định nghiệm đơn vị bảng. Kết quả từ kiểm
định của Maddala và Wu’s (1999) Fisher, kiểm tra độ nhạy cảm của sự tác động đến
sự phụ thuộc chéo cục bộ, chỉ ra rằng tất cả các biến (ngoại trừ đầu tư cá nhân, lạm
phát, chi tiêu chính phủ, và chi tiêu thông thường) là không thỏa mãn trong những mức
này. Tuy nhiên, sau khi chỉnh sửa cho sự phụ thuộc chéo cục bộ, kiểm định CIPS chỉ
ra tất cả các biến đều là I (1).
Một hạn chế của kỹ thuật PMG là nó chỉ cho phép có một mối liên hệ. Hơn
nữa, điểm thú vị chính của chúng ta là kiểm tra mối quan hệ dài hạn giữa chính sách
tài khoá, giá dầu, và thu nhập bình quân đầu người. Vì những lý do đó, được chỉ dẫn
bởi các kết quả GMM trước, chúng ta giới hạn đầu tư của chúng ta vào những biến tài
khoá đặc biệt, cái mà đã xuất hiện đáng chú ý trong các bảng báo cáo phân tích trước
đây.
Bảng (6) thể hiện kết quả kiểm định tính đồng tích hợp của Westerlund’s. Khi ít
nhất ba trong số bốn nghiên cứu từ chối sự vô hiệu của tính đồng tích hợp, một biến
độc lập được cân nhắc đem liên kết với GDP thực bình quân đầu người. Ba biến tài
khoá đã không vượt qua các kiểm định tính đồng tích hợp bao gồm: 1) chi tiêu của
chính phủ cho hàng hóa và dịch vụ, 2) lương, 3) dịch vụ công. Do đó, các biến này
không nằm trong mối quan hệ đồng tích hợp.
Mặt khác, các kiểm định hỗ trợ cho mối liên hệ đồng liên kết dài hạn của thu
nhập bình quân đầu người lần lượt trên: giá dầu, thặng dư ngân sách, tổng cộng chi
tiêu chính phủ, chi tiêu đầu tư, và chi tiêu công trên cơ sở hạ tầng. Dựa trên kết quả
này, chúng ta kiểm tra ba vector đa biến đồng tích hợp của thu nhập bình quân đầu
người, giá dầu, thặng dư ngân sách và từng khái niệm chi tiêu. Tất cả bốn phương
pháp kiểm định này chỉ ra rằng sự tồn tại của tính đồng liên kết trong ba vector.