Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận môn luật tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.94 KB, 18 trang )

Trang 1
TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự là một nội dung quan trọng
nhưng rất phức tạp. “Pháp luật tố tụng dân sự không thể được coi là hoàn thiện
nếu không có những chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (…). Pháp luật
mà không có chứng cứ thì chẳng có nghĩa lý gì cả, nhưng chứng cứ dù không có
pháp luật vẫn có tất cả ý nghĩa của nó”
1
. Hay trong báo cáo công tác của ngành
Toà án trong thực tiễn xét xử các vụ án dân sự cho thấy “chất lượng hồ sơ vụ án
dân sự, hôn nhân và gia đình phụ thuộc vào chất lượng điều tra, xác minh, thu thập
tài liệu, chứng cứ có đầy đủ, chính xác và khách quan hay không và có chấp hành
nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng hay không là cơ sở của một bản án, quyết định đúng
đắn”
2
. Như vậy, chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là một
trong những yếu tố quan trọng nhất của pháp luật tố tụng dân sự. Vì vậy chúng ta
hãy cùng nhau đi tìm hiểu về vấn đề này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số vấn đề lí luận về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện
chứng minh trong tố tụng dân sự
1. Khái niệm, đặc tính, ý nghĩa của chứng cứ, phân loại chứng cứ:
1.1. Khái niệm:
Điều 81 BLTTDS định nghĩa chứng cứ như sau: “ chứng cứ trong vụ việc
dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao
nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như các tình tiết khác cần thiết


cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”
1 Kỷ yếu Hội thảo về pháp luật Tố tụng Dân sự năm 1999 tại Nhà pháp luật Việt - Pháp.
2 Báo cáo công tác của ngành Tòa án năm 2001.
Trang 2
Có thể hiểu chung chứng cứ là cái có thật, theo một trình tự luật định Tòa án
dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
1.2. Đặc tính
Về cơ bản, để xác những gì được coi là chứng cứ phải dựa trên việc xác định
các đặc tính của chứng cứ. Đây là “ những cái vốn có của một sự vật, phân biệt
được sự vật này với sự vật khác”. Các đặc tính của chứng cứ bao gồm: tính khách
quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
1.3 Ý nghĩa của chứng cứ
Chứng cứ với tư cách là linh hồn của tố tụng và là nền tảng cơ bản để giải
quyết vụ việc dân sự. Vì vậy chứng cứ có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải
quyết các vụ việc dân sự. Chứng cứ là cơ sở duy nhất và cũng là phương tiện duy
nhất để chứng minh các sự kiện tình tiết của vụ việc dân sự. Có thể nói, mọi hoạt
động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, mọi giai
đoạn của tố tụng dân sự mở ra, kết thúc và kết quả đều phụ thuộc phần lớn vào
chứng cứ.; Chứng cứ là phương tiện để người tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình; Chứng cứ là để Tòa án tái hiện lại đúng các tình tiết và sự
thật của vụ việc dân sự, xác định được quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự;
Chứng cứ là hoạt động mấu chốt của vấn đề chứng minh trong TTDS.
1.4. Phân loại:
Trên thực tế chứng cứ thường được phân thành các loại sau:
Dựa vào nguồn thu nhận chứng cứ: chứng cứ được phân ra chứng cứ theo
người và chứng cứ theo vật.
Căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ: gồm chứng cứ gốc và chứng cứ
thuật lại.
Căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với những sự kiện cân chứng minh:
được chia gồm chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.

2. Khái niệm, ý nghĩa của nguồn chứng cứ
Trang 3
Theo Điều 82 BLTTDS thì nguồn chứng cứ bao gồm: “ Các tài liệu đọc
được, nghe được nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự, lời khai của
người làm chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập
quán; kết quả giám định tài sản, thẩm định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật
có quy định”
Tòa án chỉ thu thập chứng cứ qua các nguồn chứng cứ do pháp luật quy định.
Bất kì loại chứng cứ nào cũng nằm trong một loại chứng cứ nhất định. Ví dụ: bản
di chúc đương sự cung cấp cho Tòa án là nguồn nhưng bản di chúc đó làm giả,
gian dối thì không được coi là nguồn chứng cứ
3. Khái niệm, ý nghĩa của phương tiện chứng minh:
3.1 Khái niệm
Phương tiện chứng minh là công cụ pháp luật quy định được sử dụng để làm
rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thông qua các chủ thể chứng minh. Một
số công cụ thường được thực hiện như lấy lời khai của đương sự, lời khai của
người làm chứng, kết luận của cơ quan giám định gọi là phương tiện chứng minh.
Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự cụ thể, các đương sự và Tòa án
có thể dùng nhiều phương tiện chứng minh. (khoản 2 Điều 85 BLTTDS).
3.2 Ý nghĩa
Hoạt động chứng minh có tính chất quyết định kết quả giải quyết vụ việc dân
sự. Để đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, pháp luật quy định những
phương tiện chứng minh cụ thể mà các chủ thể chứng minh được sử dụng. Các chủ
thể chứng minh chỉ dược sử dụng các phương tiện chứng minh do pháp luật quy
định mà không thể sử dụng bất kì phương tiện nào khác để chứng minh đồng thời
phải đáp ứng đầy đủ điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Các phương tiện
chứng minh này là công cụ để làm sáng tỏ, giải quyết nhanh đúng và chính xác vụ
án hơn.
4. Mối liên hệ giữa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng
minh.

Trang 4
Chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là những nội dung
quan trọng trong tố tụng dân sự, giữa chúng luôn tồn tại mối quan hệ mật thiết với
nhau cụ thể như sau:
Nguồn chứng cứ là nơi bắt đầu, là nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp
hay rút ra cái gì, điều gì. Vì vậy mà nguồn chứng cứ là nơi rút ra chứng cứ. Ví dụ
như: phương tiện giao thông bị thiệt hại là nguồn chứng cứ, dấu vết thiệt hại là
chứng cứ. Có thể thấy chứng cứ là cái chứa đựng trong nguồn chứng cứ, xác định
được nguồn chứng cứ có thể giúp tìm được chứng cứ.
Mặt khác để xác định được chứng cứ thì Tòa án và các chủ thể chứng minh
khác phải sử dụng các phương tiện chứng minh. Ví dụ: xác định dấu vết trên
phương tiện giao thông có phải là chứng cứ của vụ tai nạn giao thông để lại không
thì phải sử dụng kết luận giám định… như vậy phương tiện chứng minh chính là
phương tiện để xác định chứng cứ.
II. Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chứng
cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự
1. Các quy định về chứng cứ.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 64 Bộ luật TTHS thì: "Chứng cứ là những
gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có
hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác
cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án."
Chứng cứ là những gì có thật liên quan đến hành vi phạm tội, người phạm tội
và các tình tiết khác của vụ án. Lý luận chứng cứ gọi đó là tính liên quan. Chỉ
những gì có thật liên quan đến vụ án được CQĐT, VKS, TA dùng làm căn cứ để
xác định sự thật khách quan của vụ án mới được coi là chứng cứ;
Trang 5
Chứng cứ là thông tin về vụ án được xác định bằng những nguồn nhất định.
Lý luận chứng cứ gọi đó là nguồn chứng cứ. Theo khoản 2 Điều 64 Bộ luật TTHS
thì chứng cứ được xác định bằng các nguồn sau: Vật chứng; Lời khai của người

làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Kết
luận giám định; Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Các CQĐT, VKS, TA xác định những gì là chứng cứ chỉ từ những nguồn nói
trên, chứ không được xác định những gì là là chứg cứ từ các nguồn khác.
Phân loại chứng cứ: Chứng cứ gốc / thuật lại; Chứng cứ trực tiếp / gián tiếp;
Chứng cứ viết / miệng; Chứng cứ khẳng định / phủ định.
2. Các quy định về nguồn chứng cứ
Theo quy định tại điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (đã trích ở trên)
thì nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự chỉ được quy định trong 8 nguồn chính.
Ngoài 8 nguồn chứng cứ này Tòa án không được sử dụng thêm bất cứ nguồn nào
khác để thu thập làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Tại khoản 9 điều
82 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Các nguồn khác mà pháp luật có
quy định” cần được hiểu đây là một quy định dự phòng của pháp luật chứ không
phải là một quy định mở để Tòa án áp dụng trong quá trình thu thập chứng cứ giải
quyết vụ án. Do vậy, cho đến khi pháp luật có quy định thêm một nguồn chứng cứ
nào đó thì Tòa án chỉ được phép thu thập chứng cứ theo qui định từ khoản 1 đến
khoản 8 Điều 82 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Tuy nhiên, không phải bất cứ tài liệu, dữ kiện nào được thu thập từ các
nguồn chứng cứ cũng đều được xem là chứng cứ và được sử dụng vào việc giải
quyết vụ án mà các tài liệu, dữ kiện này phải đảm bảo được các thuộc tính cơ bản
của chứng cứ, đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
xác định chứng cứ. Ví dụ: biên bản ghi lời khai của đương sự là một nguồn chứng
Trang 6
cứ nhưng có những trường hợp toàn bộ lời khai đó là gian dối, bịa đặt thì lời khai
đó không được coi là chứng cứ của vụ án.
Điều 83 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã quy định cụ thể về điều kiện xác
định chứng cứ trong các nguồn chứng cứ như sau :
“1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính
hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có

thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Ví dụ : nếu nguyên đơn đưa ra một tờ "Giấy nhận
nợ" có chữ ký của người nợ (bị đơn) - thì tòa sẽ công nhận tờ giấy đó là chứng cứ
khi đó là bản chính chứ không phải là bản photo.
2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất
trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự liên
quan tới việc thu âm, thu hình đó. Ví dụ : một bên đưa ra một cuộn băng ghi âm lời
nói của một người và cho rằng đó là lời nói của người đang nợ mình. Nếu bên nợ
thừa nhận đó là giọng nói của mình thì cuộn băng sẽ được tòa chấp nhận là chứng
cứ. Ngược lại, nếu bên nợ nói đó không phải là giọng nói của mình thì có thể tòa
sẽ yêu cầu giám định ( do cơ quan giám định có thẩm quyền thực hiện). Tòa sẽ can
cứ vào kết quả giám định để xác định có chấp nhận cuộn băng là chứng cứ hay
không.
3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ
nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo quy định
tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa;
5. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến
hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định;
Trang 7
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc
thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định và có chữ ký của
các thành viên tham gia thẩm định;
7. Tập quán được coi là chứng cứ nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó
thừa nhận;
8. Kết quả định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá được tiến
hành theo thủ tục do pháp luật quy định hoặc văn bản do chuyên gia về giá cả cung
cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này.” Ví dụ : Ông A nợ ông B 200 triệu đồng,
được thể hiện tại 2 giấy nợ, mỗi giấy 100 triệu đồng. Ông B kiện đòi nợ ông A 200
triệu đồng, nhưng chi đưa ra một tờ giấy nợ. Như vậy, tờ giấy nợ được xem là
chứng cứ. Tuy nhiên, vì ông B đã không giao nộp đủ cả hai tờ giấy nợ cho tòa, nên

tòa không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu đòi nợ 200 triệu đồng mà chỉ chấp nhận
100 triệu đồng. Như vậy, hậu quả của việc không đòi được đủ 200 triệu là do ông
B đã không giao nộp đủ chứng cứ.
Với quy định này của điều luật chúng ta thấy rằng : đối với loại nguồn chứng
cứ là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được khi có chứa đựng chứng cứ của
vụ án; nếu là tài liệu đọc được nội dung thì phải là bản chính hoặc bản sao có công
chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do các tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cung cấp,
xác nhận; nếu là loại tài liệu nghe được, nhìn được (như băng đĩa ghi âm, ghi hình)
thì phải xuất trình được văn bản xác nhận về xuất xứ của các tài liệu đó hoặc văn
bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, ghi hình đó; có như vậy thì các tài liệu đó
mới được coi là có giá trị và được sử dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án.
Đối với loại nguồn chứng cứ là vật chứng : vật chứng được pháp luật quy
định là nguồn chứng cứ vì tồn tại trong chính bản thân nó là chứng cứ của vụ án, nó
chỉ chứa đựng chứng cứ chứ nó không phải là chứng cứ.
Trang 8
Ví dụ : A kiện B đòi bồi thường chiếc xe bị hư – ở đây chiếc xe bị hư là vật
chứng còn những hư hỏng của xe là chứng cứ.
Như vậy vật chứng phải luôn là hiện vật gốc có tính đặc định liên quan đến
vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý. Nếu có sự sao chép, tái hiện lại vật chứng
thì vật được sao chép đó không được xem là vật chứng. Do đó, quá trình thu thập
vật chứng Tòa án phải đảm bảo các trình tự, thủ tục luật định và phải bảo quản, giữ
gìn nhằm giữ được tính đặc định của vật chứng.
Đối với loại nguồn chứng cứ là tập quán : để một tập quán trở thành chứng
cứ trong một vụ án cụ thể thì người đưa ra tập quán đó phải trình bày rõ nguồn gốc
của tập quán, phải chứng minh tính cộng đồng của tập quán đó bằng cách ghi nhận
nó bằng văn bản, thể hiện việc cả cộng đồng dân cư nơi có tập quán thừa nhận, có
chứng thực về nội dung của chính quyền địa phương nơi có tập quán về tập quán
đó. Nếu không chứng minh được tính cộng đồng của tập quán thì nó sẽ không có
giá trị chứng cứ.
Tuy nhiên cần chú ý là tập quán được sử dụng làm chứng cứ phải không

được trái với các nguyên tắc của pháp luật, đạo đức xã hội và tập quán này chưa
được ghi nhận hoặc cụ thể hóa trong luật. Nếu pháp luật đã ghi nhận tập quán đó
bằng các quy định cụ thể thì phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải
quyết.
Ngoài ra các lời khai của đương sự, người làm chứng, kết luận giám định,
biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ và kết quả định giá tài sản nếu được tiến
hành đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và đảm bảo 3 thuộc tính của
chứng cứ thì sẽ được coi là chứng cứ và được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự
tại Tòa án.
Trang 9
Tóm lại, với quy định về chứng cứ, nguồn chứng cứ và xác định chứng cứ
trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được phân tích ở trên cho thấy chứng cứ
có vai trò rất quan trọng trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án và để xác
định chứng cứ nào là có thật giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự đòi
hỏi người Thẩm phán phải có trình độ nghiệp vụ, kiến thức xã hội và khả năng
nhạy bén trong quá trình xác định, thu thập chứng cứ.
3. Các quy định về phương tiện chứng minh
Hiện tại chưa pháp luật chưa có một quy định cụ thể về phương tiện chứng
minh.
III. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về chứng cứ, nguồn chứng cứ, phương tiện chứng minh và kiến nghị
1. Thực tiễn thực hiện:
1.1. Những ưu điểm đạt được:
Thứ nhất , Pháp luật tố tụng dân sự hiện hành ngày càng khẳng định tầm
quạn trọng về vị trí và vai trò của chứng cứ. Bằng chứng cho thấy là việc BLTTDS
năm 2004 mới được sửa đổi, bổ sung năm 2011, các nhà làm luật đã bổ sung thêm
vào điều luật quy định nguồn chứng cứ (Điều 82, BLTTDS), điều này có nghĩa là
đã mở rộng thêm nguồn chứa đựng chứng cứ được phép đưa vào quá trình tố tụng
dân sự.
Thứ hai, việc quy định chứng cứ chặt chẽ, rõ ràng như vậy là để đảm bảo

quyền lợi chính đáng cho đương sự, bảo đảm cho việc giải quyết của Toà án được
đúng đắn, khách quan và để khắc phục tình trạng tài liệu giả; chứng cứ giả. Trong
thời buổi khoa học, kỹ thuật phát triển như hiện nay, thì việc ghép hình ảnh, lồng
ghép tiếng không khó. Do đó các tài liệu đọc được mà không phải là bản chính
Trang 10
hoặc bản sao nhưng không có chứng nhận của cơ quan Công chứng Nhà nước hoặc
không có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền thì tài liệu đó không phải là chứng
cứ. Đối với các tài liệu nghe được, nhìn được mà không có văn bản xác nhận xuất
xứ của tài liệu đó hoặc không có văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu
hình đó thì tài liệu nghe được, nhìn được đó cũng không phải là chứng cứ.
Thứ ba, việc khẳng định vai trò quan trọng của chứng cứ, nguồn chứng cứ,
phương tiện chứng minh trong việc giải quyết vụ việc dân sự đã làm tăng thêm
trách nhiệm cho cả người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng. Đối với
người tham gia vào quá trình tố tụng họ có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ gắn liền với
sự thật khách quan của vụ án, không được ỷ lại vào người khác hoặc cơ quan tiến
hành tố tụng. Đối với sự tham gia của tòa án với tư cách là cơ quan tiến hành tố
tụng trong quá trình thu thập chứng cứ luôn luôn phải là chủ thể tích cực, chủ động
trong điều tra và xác minh chứ không phải là “chỉ điều tra, xác minh khi cần thiết”.
Trong quá trình xét xử, Tòa án có trách nhiệm tìm hiểu xem chứng cứ đó có phản
ánh sự thật khách quan của vụ việc hay không và đưa ra phán quyết sao cho đúng
đắn.
Thứ tư, các tình tiết sự việc thuộc đối tượng chứng minh trong các vụ việc
dân sự rất phong phú đã dẫn đến sự đa dạng các phương tiện chứng minh được sử
dụng để làm rõ các vấn đề của vụ việc dân sự.
Có thể nói chứng cứ có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng, gần như mang
tính chất quyết định trong việc xác định được kết quả thắng – thua của các bên
trong một vụ án. Vì vậy, việc xác định và đánh giá thế nào là chứng cứ và các vấn
đề liên quan đến chứng cứ nhất thiết phải được qui định rõ ràng, chặt chẽ, tránh
tình trạng không phải bất kỳ cái gì, do bất kỳ bên nào đưa ra cũng đều được xem là
chứng cứ

Trang 11
1.2. Những hạn chế còn tồn tại
BLTTDS quy định, nếu xét thấy chứng cứ chưa đầy đủ để giải quyết vụ án
thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ. Trong trường hợp
đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà vẫn không thể thu thập được
chứng cứ thì có thể yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Như vậy, trong
mọi trường hợp Toà án chỉ được phép yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
chứng cứ khi và chỉ khi đương sự có yêu cầu. Đây là một quy định có mặt tiến bộ
là bảo đảm tính khách quan trong việc giải quyết vụ việc dân sự, tuy nhiên cũng đã
tạo ra một khoảng trống pháp lý làm Toà án khó giải quyết trong việc bảo vệ nền
pháp chế.
Theo quy định tại các điều 85, 94 của BLTTDS và hướng dẫn tại Mục IV
của Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC, thì khi và chỉ khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu
thập chứng cứ mà vẫn không thể thu thập được thì có thể yêu cầu Toà án tiến hành
thu thập chứng cứ. Đương sự yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ thì phải làm đơn
yêu cầu và Toà án phải ra quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ. Như vậy, nếu
đương sự không có đơn yêu cầu thu thập chứng cứ thì Toà án hoàn toàn không có
quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Quy
định về thu thập chứng cứ của BLTTDS chỉ thể hiện được tính ưu việt khi giữa các
đương sự có tranh chấp. Còn trong trường hợp các đương sự cố tình thoả thuận với
nhau trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, mặc dù Toà án có thể biết được nhưng
không thể tự thu thập chứng cứ để chứng minh thì phải chịu thua đương sự. Trong
khi đó Điều 85 BLTTDS lại quy định: “Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát
có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu vật
chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm”. Như vậy, BLTTDS quy định cho phép Viện
kiểm sát có quyền tự thu thập chứng cứ để “phá án” còn Toà án thì đã bị luật “còng
tay” ngay cả khi thấy pháp luật bị xâm phạm.
Trang 12

Một vấn đề nữa là Điều 79 BLTTDS đã quy định: Nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ và chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, cho sự phản đối yêu cầu của người khác
là thuộc về đương sự. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà
không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả
của việc không chứng minh hoặc chứng minh không đầy đủ. Điều 84 BLTTDS quy
định cụ thể thêm là: Trong quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có
quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án; nếu đương sự không nộp hoặc
nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy đủ
đó. Như vậy, BLTTDS quy định đương sự có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ và hậu
quả của việc không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ nhưng lại không quy
định về thời hạn mà đương sự phải thực hiện việc giao nộp chứng cứ. Do đó, có
nhiều đương sự sau khi khởi kiện đã không tự giác thu thập chứng cứ để giao nộp
cho Toà án hoặc cố tình trì hoãn việc giao nộp chứng cứ làm kéo dài thời hạn giải
quyết vụ án. Thậm chí có chứng cứ nhưng chỉ chờ đến khi xét xử phúc thẩm mới
chịu nộp, hậu quả dẫn đến việc cấp phúc thẩm huỷ hoặc sửa án sơ thẩm là khó
tránh khỏi. Vấn đề này thực tế đã gây không ít phiền phức cho Toà án. Đây cũng là
một khoảng trống cần phải được lấp đầy.
Một thực tế hiện nay khi giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai khi một
trong các bên đương sự giao nộp cho Toà án các giấy tờ liên quan như giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), trích lục bản đồ địa chính thì bên đương sự
khác lại cho rằng các giấy tờ tài liệu đó là không đúng với thực tế mà có sự sai sót
của cơ quan quản lý đất đai. Với tình huống này có nơi Toà án không cần xem xét
tính xác thực về lời khai của đương sự mà căn cứ vào các giấy tờ, tài liệu đó để đưa
ra phán quyết. Ngược lại, có Toà án thì lại đi điều tra xác minh, căn cứ vào lời khai
của đương sự, người làm chứng để phủ nhận giá trị pháp lý của các loại giấy tờ tài
liệu này. Vậy, trong hai cách giải quyết đó cách nào là đúng pháp luật?
Điều 80 BLTTDS còn quy định về những tình tiết, sự kiện mà đương sự
không phải chứng minh trong đó có các tình tiết, sự kiện được xác định trong các
Trang 13
bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc quyết định của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật; những tình tiết, sự kiện đã được
ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp;… Do vậy, trong vụ
án dân sự thì GCNQSDĐ, bản đồ hoặc trích lục bản đồ địa chính là những chứng
cứ quan trọng để Toà án làm căn cứ giải quyết vụ án mà không cần phải chứng
minh tính hợp pháp của nó. Tuy nhiên, các giấy tờ, tài liệu về quản lý đất đai không
phải bao giờ cũng chính xác và hợp pháp. Do đó, trong trường hợp đương sự cho
rằng các giấy tờ, tài liệu đó là không hợp pháp thì Toà án hướng dẫn họ thực hiện
quyền khiếu kiện theo thủ tục hành chính đối với cơ quan quản lý đất đai để có sự
phán quyết về giá trị pháp lý của các tài liệu đó. Trong khi giải quyết vụ án dân sự
Toà án không có quyền đưa ra các phán xét về giá trị pháp lý của các giấy tờ tài
liệu do cơ quan hành chính ban hành mà quyền này chỉ được thực hiện trong vụ án
hành chính.
Trong số các nguồn chứa đựng các chứng cứ thì các tài liệu đọc được, nghe
được, nhìn được chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Nhưng trong nhiều trường hợp các
đương sự lại không có các chứng cứ đó mà lại đang do cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác lưu giữ, quản lý. Để bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ, Điều 7 của
BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứng cứ
trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu
của đương sự, Toà án. Trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo
bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp
được chứng cứ”. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 85 và khoản 1 Điều 94 của BLTTDS
cũng đã quy định: Chỉ khi đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập
chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì mới có quyền yêu cầu Toà
án thu thập. Trên cơ sở các quy định này, tại khoản 5 Mục I Nghị quyết số
04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC đã hướng
dẫn cụ thể là: “Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Toà án cần giải thích
Trang 14
cho đương sự biết quy định tại Điều 7 của BLTTDS về trách nhiệm cung cấp chứng
cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Khi biết chứng cứ đang do cá

nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý, thì căn cứ vào quy định tại Điều này,
đương sự có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. Nếu cá
nhân, cơ quan, tổ chức không cung cấp được chứng cứ cho đương sự, thì phải
thông báo bằng văn bản có ghi rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ
cho đương sự biết để họ chứng minh với Toà án là họ đã thu thập chứng cứ nhưng
không có kết quả và yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ”. Thực tế khi giải quyết các
vụ án mà có các tài liệu, chứng cứ đang do cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý thì
việc thu thập chứng cứ không hề đơn giản. Trong rất nhiều vụ án mặc dù đương sự
đã cất công đi lại nhiều lần yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp các chứng cứ liên
quan đến việc giải quyết vụ án để họ giao nộp cho Toà án nhưng đều bị từ chối với
đủ mọi lý do và việc từ chối đó cũng chỉ bằng lời nói, thái độ, cử chỉ. Với cách từ
chối này đương sự khó có thể chứng minh việc họ đã áp dụng mọi biện pháp nhưng
vẫn không thu thập được chứng cứ để làm cơ sở yêu cầu Toà án thu thập.
2. Một số kiến nghị hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy
định của pháp luật về chứng cứ, nguồn của chứng cứa và phương tiện chứng
minh.
Thứ nhất: Để bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của đương sự được đầy đủ và
toàn diện hơn thì pháp luật tố tụng dân sự không nên quá coi trọng đến mức tuyệt
đối hoá nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự như hiện nay.
Bởi lẽ trong quá trình tố tụng, do thiếu kinh nghiệm tham gia tố tụng hoặc vì
nguyên nhân nào đó mà các đương sự không thể đưa ra được tất cả các chứng cứ để
chứng minh sẽ đồng nghĩa với việc các quyền lợi hợp pháp của họ sẽ không được
bảo đảm đầy đủ. Vì vậy, sự tham gia của tòa án với tư cách là cơ quan tiến hành tố
tụng luôn luôn phải là chủ thể tích cực, chủ động tham gia thu thập chứng cứ và
điều tra, xác minh chứ không phải là “chỉ điều tra, xác minh khi cần thiết” như quy
định của pháp luật tố tụng hiện nay. Điều đó cho thấy rằng “qua công tác kiểm tra,
Trang 15
xét xử, công tác xét xử phúc thẩm và xét xử giám đốc thẩm cho thấy trong công tác
giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình cũng còn nhiều thiếu sót, chủ yếu
là do việc điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu của vụ án chưa đầy đủ, chưa chính

xác, thậm chí còn có những trường hợp thiếu khách quan” (Báo cáo công tác ngành
Tòa án năm 2001). Bên cạnh đó, có những vụ án dân sự phải xử đi xử lại nhiều lần
là do việc các tòa án không thống nhất được việc đánh giá chứng cứ và sử dụng
chứng cứ. Do vậy, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
chứng cứ hiện nay là rất cần thiết.
Thứ hai: Việc đưa ra các chứng cứ và chứng minh có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Nếu chứng cứ đã đầy đủ, nhưng việc chứng minh tại phiên toà lại
bị giới hạn bởi thời gian tranh tụng thì quyền lợi của đương sự có thể không được
bảo đảm đầy đủ. Bởi kéo dài thời gian tranh tụng đồng nghĩa với việc các đương sự
sẽ có nhiều cơ hội để tranh luận trên cơ sở các nguồn chứng cứ mà đương sự cung
cấp. Thực tế hiện nay, trong các phiên tòa dân sự, hoạt động xét hỏi của Hội đồng
xét xử vẫn được coi là hành vi tố tụng "trung tâm" tại phiên toà, Vì vậy, hoạt động
của tòa án như hiện nay chưa phản ánh đúng và đầy đủ "quyền tự định đoạt" của
đương sự trong quá trình tố tụng, đặc biệt là tố tụng tại phiên toà.
Thứ ba: Trong Bộ luật Tố tụng Dân sự đã quy định những tình tiết, sự kiện
không phải chứng minh (Điều 80), nhưng lại không có quy định về những tình tiết
sự kiện phải chứng minh. Điều này "không những làm mất cân đối giữa các quy
định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, mà còn làm cho các chủ thể lúng túng trong việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ, nhất là các đương sự. Khi
tham gia tố tụng, đương sự chỉ phải chứng minh trong phạm vi yêu cầu hoặc phản
đối yêu cầu của họ là chưa đủ, mà còn phải chứng minh các sự kiện, tình tiết khác
của vụ việc dân sự. Ngoài ra, do thiếu kinh nghiệm tham gia tố tụng nên các đương
sự thường không biết phải chứng minh làm rõ sự kiện, tình tiết gì và vì vậy cũng
không xác định được chứng cứ, tài liệu phải cung cấp cho tòa án để chứng minh
cho quyền lợi hợp pháp của mình. Mặt khác, tại điểm c, Khoản 1, Điều 80 của Bộ
Trang 16
luật Tố tụng Dân sự quy định những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản, và
được công chứng, chứng thực hợp pháp thì không phải chứng minh. Tuy vậy, thực
tế cho thấy, trong trường hợp tòa án có nghi ngờ về tính đúng đắn của việc công
chứng, chứng thực thì những tình tiết đó vẫn phải được xác định lại. Nhưng trong

Bộ luật Tố tụng Dân sự không thấy có quy định là việc đó có phải chứng minh hay
không, và ai phải chứng minh (nếu có).
Thứ tư: Trên thực tế, trong tố tụng hình sự có quy định đầy đủ về các
phương tiện chứng minh (Khoản 2, Điều 64, Bộ luật Tố tụng Hình sự), trong khi
đó, Bộ luật Tố tụng Dân sự lại không có quy định nào về phương tiện chứng minh.
Vì vậy trong tố tụng dân sự, các chủ thể sẽ sử dụng những phương tiện nào để
chứng minh và chứng minh như thế nào thì được coi là hợp pháp. Do đó, nếu
không được giải thích đầy đủ, các chủ thể sẽ rất dễ nhầm lẫn, thậm chí là đồng nhất
giữa các khái niệm “nguồn chứng cứ”, “phương tiện chứng minh” và “chứng cứ.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là một trong những yếu tố
quan trọng nhất của pháp luật tố tụng dân sự. Rút kinh nghiệm từ thực tiễn đạt được,
trong thời gian tới, các nhà làm luật cần phát huy những ưu điểm đạt được và có những
biện pháp khắc phục những hạn chế còn tồn tại, những lỗ hổng, sự chồng chéo của luật
hiện hành. Để nâng cao chất lượng điều tra, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ có đầy
đủ, chính xác và khách quan là tiền đề cho những cơ sở của những bản án, quyết định
đúng đắn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb
Tư pháp, Hà Nội 2005.
Trang 17
2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
3. Bộ luật Tố tụng hình sự 2003.
4. Kỷ yếu Hội thảo về pháp luật Tố tụng Dân sự năm 1999 tại Nhà
pháp luật Việt - Pháp.
5. Báo cáo công tác của ngành Tòa án năm 2001.
6. Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng
thẩm phán TANDTC
Trang 18

×