TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI
CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Giảng viên phụ trách:TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên thực hiện: TRẦN HOÀI NAM
MSHV: 7701220714
Số thứ tự: 38 – Nhóm: 4
Lớp: Ngày 4 – Khóa: 22
Tp. Hồ Chí Minh – Tháng 12/2012
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
1. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN 3
1.1. Điều kiện lịch sử 3
1.2. Sơ lược về nội dung triết học Hêghen 3
2. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN 4
2.1. Nguồn gốc lịch sử của phép biện chứng duy tâm Hêghen 4
2.2. Nội dung phép biện chứng duy tâm Hêghen 6
2.2.1. Phương pháp luận biện chứng 6
2.2.2. Hệ thống các phạm trù, quy luật 8
3. VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI
CỦA TRIẾT HỌC MÁC 12
3.1. Ý nghĩa và hạn chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen 12
3.1.2. Ý nghĩa của phép biện chứng duy tâm Hêghen 12
3.1.2. Những hạn chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen 13
3.2. Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hêghen đối với sự ra đời của triết học Mác
14
KẾT LUẬN 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
2
MỞ ĐẦU
Triết học cổ điển Đức (nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX) được mở đầu
từ hệ thống triết học của Cantơ, trải qua Phíchtơ, Senlinh đến triết học duy tâm
khách quan của Hêghen và triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Chỉ trong một
thời kỳ lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học cổ điển Đức đã tạo những tiền đề lý luận
hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Mác vào giữa thế kỷ XIX.
Hêghen là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển
Đức, người xây dựng nên phép biện chứng duy tâm nổi tiếng. Triết học của Hêghen
là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm Đức. Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ
triết học Hêghen là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan
(tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện của "lý tính thế giới" hay "tinh thần thế
giới" mà Hêghen gọi là "ý niệm tuyệt đối". Triết học của Hêghen trở nên đầy mâu
thuẫn và phép biện chứng của ông cũng bị thần bí hóa. Mác đã cứu lấy phép biện
chứng, giải phóng hạt nhân biện chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí của hệ thống
Hêghen và cải tạo nó theo tinh thần duy vật của triết học Phoiơbắc, qua đó xây dựng
phép biện chứng duy vật.
Dù có nhiều hạn chế nhưng thành tựu mà triết học Hêghen mang lại – phép biện
chứng tư duy – là một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng triết học nhân loại. Và
triết học Hêghen là cội nguồn của triết học Mác. Chính vì vậy, bài tiểu luận “Phép
biện chứng duy tâm Hêghen và vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác”
được thực hiện nhằm mục đích làm rõ bản chất của phép biện chứng duy tâm
Hêghen cũng như vai trò của nó đối với sự ra đời của triết học Mác.
3
1. BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC HÊGHEN
1.1. Điều kiện lịch sử
Phrieđrích Hêghen (Georg Wilhelm Friedrich Hêghen; 1770-1831) là một nhà triết
học lỗi lạc người Đức. Ông cùng với Phíchtơ (J.G. Fichte; 1762-1814) và Senlinh
(F. W. J. Schelling; 1775-1854) được coi là những người sáng lập ra chủ nghĩa duy
tâm Đức. Hêghen sinh ra trong một gia đình quan chức cao cấp ở thành phố
Stuttgart thuộc vùng tây nam nước Đức. Ông đến với triết học, say mê nghiên cứu
triết học là do chịu ảnh hưởng bởi Senlinh và ông đã trở thành nhà triết học – bác
học vĩ đại nhất, là người đã hoàn chỉnh nền triết học duy tâm biện chứng cổ điển
Đức và cũng là bậc tiền bối của triết học Mác sau này. Bằng bộ óc bách khoa toàn
thư vĩ đại, Hêghen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học đồ sộ và rất giá trị.
Hai tác phẩm chính của ông là Hiện tượng luận tinh thần và Bách khoa toàn thư các
khoa học triết học.
1.2. Sơ lược về nội dung triết học Hêghen
Triết học Hêghen là đỉnh cao của triết học duy tâm Đức cổ đại và là hệ thống phong
phú nhất trong lịch sử triết học trước Mác. Nguyên lý xuất phát và xuyên suốt toàn
bộ triết học Hêghen là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách
quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện của “lý tính thế giới” hay “tinh thần
thế giới” mà Hêghen gọi là “ý niệm tuyệt đối”. “Ý niệm tuyệt đối” có trước tự nhiên
và loài người, trải qua một quá trình phát triển lịch sử - tự nhận thức về bản thân,
qua ba giai đoạn: 1) Giai đoạn phát triển trong “nguyên chất” thuần khiết của nó khi
chưa có thế giới: nội dung của “ý niệm tuyệt đối” thể hiện trong hệ thống các phạm
trù lôgic có liên quan với nhau và chuyển hoá lẫn nhau (lôgic học); 2) Dưới dạng tồn
tại khác, khi chuyển thành giới tự nhiên (triết học tự nhiên); 3) “Ý niệm tuyệt đối”
phủ định giới tự nhiên, trở về với bản thân, nó tiếp tục biến hoá, nhận thức nội dung
4
của mình dưới các hình thức ý thức và đạt tới nhận thức cao nhất qua tôn giáo, nghệ
thuật, triết học (triết học tinh thần).
Thành quả lớn nhất của triết học Hêghen là phép biện chứng. Ở Hêghen, phép biện
chứng bị thần bí hoá. Mặc dù vậy, Hêghen vẫn là “người đầu tiên trình bày một cách
bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng” (C.
Mác). Hêghen có những đóng góp to lớn trong địa hạt lý luận về nhận thức, trong
cuộc đấu tranh chống “thuyết không thể biết” (bất khả tri luận). Hệ thống duy tâm,
bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết học Hêghen mâu thuẫn sâu sắc với phương
pháp biện chứng có tính chất cách mạng của triết học này. Quan điểm chính trị cực
đoan của Hêghen, đặc biệt trong thời kỳ hoạt động cuối đời của ông, phản ánh tình
trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp của nó với các thế
lực phong kiến. Hêghen ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh vực nhà nước quân
chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội. Triết học Hêghen là
một trong những nguồn gốc lý luận trực tiếp của chủ nghĩa Mác.
2. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN
2.1. Nguồn gốc lịch sử của phép biện chứng duy tâm Hêghen
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là kết quả của quá trình xây dựng phương
pháp biện chứng trong triết học Đức từ Căntơ; quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi
của tư tưởng cách mạng tư sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tư
sản Đức.
Căntơ: Ưu điểm lớn nhất của Căntơ là đã đề cao được vai trò lao động sáng tạo ra
thế giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động ấy là lao động tinh thần. Lao động tinh thần
mà Căntơ quan niệm chỉ phản ánh được hình thức kỹ thuật của phương thức sản
xuất máy móc. Căntơ cho rằng thế giới mà ta nhận thức được là do sự liên kết những
cảm giác theo quy luật số lượng và nhân quả, quan niệm đó phản ánh tính chất sản
xuất hàng hóa theo quy luật số lượng và nhân quả. Đấy mới chỉ là hình thức kỹ thuật
5
sản xuất, chưa đi vào con người lao động thực sự. Căntơ mới phản ánh phương thức
sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Căntơ chưa tin tưởng hoàn toàn vào cái thế
giới hàng hóa và cho đấy chưa phải là thực tại tuyệt đối, chưa phải là vật tự tại.
Phíchtơ: Tiến lên một bước nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng định hoàn
toàn cái thế giới mới, Phíchtơ đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Căntơ.
Phíchtơ nói: nếu thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần
xây dựng lên, thì đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào
khác. Phíchtơ đã đi thêm được một bước trên con đường xây dựng phương pháp
biện chứng. Phíchtơ đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động sáng tạo và thế giới
được sáng tạo, giữa cái “tôi” và cái “không phải là tôi”. Phương pháp mâu thuẫn
này mới được sử dụng trong phạm vi chủ quan, cái khách quan ở đấy chung quy vẫn
nằm trong chủ quan. Mâu thuẫn giữa tôi và cái không phải tôi vẫn nằm trong tôi, vì
chính tôi đặt ra cái quan hệ đó - cái tôi vẫn là tuyệt đối.
Senlinh: Với Senlinh, phương pháp biện chứng lại tiến một bước nữa. Phương pháp
mâu thuẫn của Schelling đã đi quá nội dung chủ quan và bao gồm cả tự nhiên. Theo
Senlinh, mâu thuẫn giữa tinh thần và tự nhiên xuất phát là từ cùng một nguồn gốc:
đó là “Tuyệt đối”. Tự nhiên không phụ thuộc vào tinh thần nữa, khách quan không
nằm trong chủ quan nữa, hai cái đó xuất phát từ cùng một Tuyệt đối. Tư tưởng của
Senlinh đã phản ánh giai đoạn hưởng thụ lung tung sau khi chế độ mới của giai cấp
tư sản đã được thực hiện, quan hệ tư bản trước kia còn là lý tưởng nay đã thành sự
thực và phát triển một cách lung tung.
Nhưng rồi cũng phải đến yêu cầu ổn định tình trạng hỗn độn đó, và xây dựng một
chính quyền điều hòa xã hội một cách tương đối. Yêu cầu mới đó được phản ánh
trong triết học của Hêghen.
Hêghen: Triết học của Hêghen vận dụng một cách có hệ thống phương pháp biện
chứng, tức là phương pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của
mâu thuẫn. Phương pháp của Hêghen phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế,
6
cho là trong mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá
trình đó một cách có thứ tự, hệ thống. Nhưng Hêghen lại nói rằng quá trình phát
triển vật chất là do mâu thuẫn của hoạt động tinh thần. Hêghen chỉ trông thấy hiện
tượng ở bên trên, nên cho rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần
sáng tạo ra thế giới. Mệnh đề chung của Hêghen phản ánh một chân lý: đó là con
người sáng tạo thế giới lịch sử. Nhưng con người đó chỉ được quan niệm trong phạm
vi tinh thần. Tuy nhiên con người tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của con người lao
động thực sự. Hạt nhân duy lý trong phương pháp biện chứng của Hêghen là ở chỗ
đó.
2.2. Nội dung phép biện chứng duy tâm Hêghen
2.2.1. Phương pháp luận biện chứng
Để tìm hiểu ý nghĩa thực tế của biện chứng pháp Hêghen, bước đầu phải trở lại
cuốn Hiện tượng luận của tinh thần (1807), cuốn này trình bày lịch sử tiến hóa của ý
thức tư tưởng từ hình thái thấp nhất, tức là ý thức cảm giác, lên đến hình thái cao
nhất theo Hêghen, “khoa học tuyệt đối”.
Hiện tượng luận tinh thần của Hêghen được xây dựng với bốn nền tảng sau đây:
Một là, thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối chứ
không phải là cái Tuyệt đối (Senlinh) là nền tảng của hiện thực. Ý niệm tuyệt đối
là sự hợp nhất giữa thực thể - giới tự nhiên (Xpinôda) và Cái tôi tuyệt đối
(Phíchtơ) là sự đồng nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất, là
Đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Con người
chỉ là một sản phẩm của quá trình vận động phát triển tự thân của ý niệm tuyệt
đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người, tức lịch sử nhân loại
chỉ là giai đoạn phát triển cao của ý niệm tuyệt đối, là công cụ để nó nhận thức
chính bản thân mình và quay trở về với chính mình. Tư duy lôgích là hình thức
thể hiện cao nhất của ý niệm tuyệt đối.
7
Hai là, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Phát triển được Hêghen hiểu
như một chuỗi các hành động phủ định biện chứng, trong đó, cái mới liên tục
thay thế cái cũ, nhưng đồng thời kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Quá
trình phát triển của ý niệm tuyệt đối diễn ra theo tam đoạn thức “chính đề - phản
đề - hợp đề”. Đó cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn giữa cái vật
chất và cái tinh thần, giữa khách thể và chủ thể trong bản thân ý niệm tuyệt đối.
Ba là, thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử. Hêghen coi lịch sử là
hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối trên
trần gian. Lịch sử nhân loại có được nhờ vào hoạt động có ý thức của những cá
nhân cụ thể, nhưng nó lại là nền tảng quy định ý thức của mỗi cá nhân. Ý thức cá
nhân chỉ là sự khái quát, sự “đi tắt” toàn bộ lịch sử mà ý thức nhân loại đã trải
qua. Ý thức nhân loại là sự tái hiện lại toàn bộ tiến trình của lịch sử nhân loại, là
sản phẩm của lịch sử, là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
Bốn là, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối. Hêghen thừa nhận có ba hình
thức thể hiện ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn giáo và triết học,
trong đó, triết học là hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất ý niệm
tuyệt đối. Theo Hêghen, triết học là khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn
năng đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ thế giới quan và tư tưởng con người.
Nhưng mỗi thời đại lại có một học thuyết triết học của riêng mình. Học thuyết
này là tinh hoa tinh thần của thời đại đó, là thời đại được thể hiện dưới dạng tư
tưởng. Mỗi hệ thống triết học của một thời đại nào đó đều là sự chắt lọc, kết tinh,
khái quát lại toàn bộ lịch sử tư tưởng trước đó, đặc biệt là tư tưởng triết học.
Triết học và lịch sử triết học thống nhất với nhau như là sự thống nhất giữa cái
lôgích và cái lịch sử; vì vậy, triết học phải bao trùm toàn bộ lịch sử phát triển của
ý niệm tuyệt đối. Theo quan điểm này thì triết học Hêghen, - khoa học về ý niệm
tuyệt đối, - được chia thành 3 bộ phận là khoa học lôgích, triết học tự nhiên, triết
học tinh thần; ứng với 3 giai đoạn phát triển của ý niệm tuyệt đối là ý niệm tuyệt
8
đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong sự tồn tại khác của nó (tự tha hóa), ý
niệm tuyệt đối khắc phục sự tự tha hóa quay về với nó.
2.2.2. Hệ thống các phạm trù, quy luật
Toàn bộ nội dung triết học mới của Hêghen được trình bày chi tiết trong Bách khoa
toàn thư các khoa học của triết học, bao gồm ba phần Khoa học lôgích, Triết học tự
nhiên và Triết học tinh thần. Các tư tưởng biện chứng được Hêghen trình bày trong
cả ba phần, nhưng tập trung nhất là trong Khoa học lôgích. Đây là nơi trình bày hệ
thống phạm trù biện chứng của triết học Hêghen.
Khoa học lôgích
Đây là tác phẩm quan trọng nhất của Hệ thống triết học Hêghen, Khoa học lôgích
nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai, nhưng lại là xuất phát điểm của hệ
thống. Khi vạch ra những hạn chế của lôgích học cũ là chỉ nghiên cứu tư duy chủ
quan trong phạm vi ý thức cá nhân mà không chỉ ra được ranh giới giữa lôgích học
với các ngành khoa học khác cùng nghiên cứu tư duy, là chỉ dựa trên những phạm
trù bất động, tách rời hình thức ra khỏi nội dung của nó , Hêghen khởi thảo một
lôgích học mới giúp vạch ra bản chất đích thực của tư duy, và đóng vai trò như một
phương pháp luận triết học làm cơ sở cho mọi khoa học.
Hêghen coi lôgích học là khoa học về những phạm trù và quy luật của tư duy; nhưng
tư duy mà lôgích học nghiên cứu là tư duy thuần túy, tức ý niệm tuyệt đối trong
chính nó hay Thượng đế. Theo Hêghen, lôgích học giúp thể hiện Thượng đế trong
bản chất vĩnh hằng của Ngài trước khi sáng tạo ra giới tự nhiên và các tinh thần hữu
hạn khác, trong đó có tư duy con người. Tư duy con người chỉ là một giai đoạn phát
triển cao của ý niệm tuyệt đối, qua đó ý niệm tuyệt đối có khả năng ý thức được bản
thân mình. Khi xác định bản tính khách quan như thế của tư duy, Hêghen coi giới tự
nhiên chỉ là tư duy khách quan vô thức (tư duy thể hiện dưới dạng các sự vật) để
phân biệt với tư duy con người là tư duy khách quan có ý thức.
9
Theo Hêghen, trong tư duy mọi cái đối lập (vật chất – tinh thần, khách thể - chủ thể,
tư tưởng – hiện thực…) đều thống nhất. Logích học nghiên cứu tư duy như thế phải
la một hệ thống siêu hình học. Logích học – Siêu hình học của Hêghen được xây
dựng dựa trên luận điểm Cái gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý.
Khoa học lôgích của ông bao gồm 3 phần, mỗi phần nghiên cứu một trong ba giai
đoạn tương ứng của tư duy thuần túy trong chính nó. Đó là học thuyết về tồn tại, học
thuyết về bản chất và học thuyết về khái niệm.
- Trong học thuyết về tồn tại, Hêghen vạch ra tính quy định lẫn nhau giữa lượng
và chất. Những thay đổi liên tục về lượng sẽ dẫn đến những biến đổi gián đoạn về
chất và ngược lại. Sự quy định này nói lên cách thức tồn tại của sự vật (khái niệm).
Theo Hêghen, tồn tại xuất phát không phải là tồn tại hiện hữu mà là tồn tại thuần
túy, nghĩa là tồn tại ở một phương diện nhất định và được đồng nhất với hư vô, tồn
tại dẫn đến sinh thành. Quá trình chuyển từ tồn tại thuần túy sang sinh thành là sự
thống nhất giữa chất, lượng trong độ. Chất là tính quy định bên trong của sự vật.
Lượng là tính quy định bên ngoài của nó. Độ là sự thống nhất của chất và lượng với
nhau trong sự vật để sự vật là nó. Khi lượng của sự vật thay đổi vượt quá độ, tức qua
điểm nút thì chất này chuyển thành chất khác, tức bước nhảy xảy ra.
- Trong học thuyết về bản chất, Hêghen bàn về bản chất - hiện tượng - hiện thực,
nghĩa là bàn về sự tự vận động phát triển của các phạm trù: đồng nhất - khác biệt –
đối lập – mâu thuẫn, bản chất – hiện tượng, nội dung – hình thức, khả năng – hiện
thực, nguyên nhân – kết quả. Ông vạch ra sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển của sự vật (khái
niệm). Khi nghiên cứu quá trình vận động, phát triển của khái niệm, ông cho rằng,
trong bản thân khái niệm vốn có sẵn cái khác biệt được sinh ra từ cái đồng nhất. Lúc
đầu là khác biệt nhỏ, do tích lũy dần dẫn đến khác biệt cơ bản (đối lập); từ đây mâu
thuẫn hình thành và phát triển dẫn đến chuyển hóa.
10
- Trong học thuyết về khái niệm, Hêghen bàn về sự tự vận động phát triển của ý
niệm tuyệt đối thông qua các hình thức tồn tại chủ quan của nó như khái niệm –
phán đoán – suy luận, bàn về thực tiễn, về chân lý hay ý niệm – sự thống nhất giữa
khái niệm và thực tiễn. Ông vạch ra con đường phát triển của khái niệm theo xu
hướng phủ định của phủ định, nghĩa là khái niệm phát triển theo đường xoắn ốc.
Hêghen cho rằng khái niệm không bất động mà nó phải trải qua các giai đoạn khác
nhau của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn trực quan cảm tính với cảm giác, tri
giác, biểu tượng, và giai đoạn lý tính với khái niệm, phán đoán, suy lý. Do khái niệm
luôn luôn biến đổi, mà phán đoán được xây dựng trên khái niệm ngày càng sâu sắc
hơn, và suy lý được xây dựng trên phán đoán ngày càng sáng tạo, năng động hơn.
Như vậy, toàn bộ Khoa học lôgích thể hiện quá trình tự thân vận động phát triển của
ý niệm tuyệt đối trong chính nó và cho nó.
- Đầu tiên, ý niệm tuyệt đối tự tha hóa chính mình trong tồn tại của mình để tự
đem đến cho mình một nội dung. Sự vận động tiếp theo cho phép ý niệm tuyệt đối
khám phá thấy mình trong bản chất, và sau cùng nó quay về với chính mình trong ý
niệm, nghĩa là trở về cái ban đầu.
- Vận động trở về cái khởi đầu cũng là tiến lên phía trước là tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống Hêghen. Luận điểm này không chỉ nói lên bản
chất duy tâm mà còn vạch rõ linh hồn biện chứng của toàn bộ triết học – lôgích học
Hêghen.
Triết học tự nhiên
Đây là học thuyết về giới tự nhiên với tính cách là một dạng tồn tại khác của ý niệm
tuyệt đối dưới dạng các sự vật vật chất. Hêghen không giải thích ý niệm tuyệt đối
chuyển từ chính nó sang giới tự nhiên như thế nào và khi nào, mà chỉ nói rằng ý
niệm tuyệt đối tồn tại bên ngoài thời gian, và giới tự nhiên cũng không có khởi đầu
trong thời gian. Hêghen cho rằng, quá trình hình thành giới tự nhiên từ ý niệm tuyệt
11
đối đồng thời cũng là quá trình ý niệm tuyệt đối ngày càng biểu hiện ra thành giới tự
nhiên. Thế giới đã được tạo ra, hiện đang được tạo ra và sẽ vĩnh viễn được tạo ra.
Những hình thức chủ yếu của ý niệm tuyệt đối tồn tại dưới dạng giới tự nhiên là cơ
học, vật lý học, sinh thể học.
Triết học tinh thần
Trong tác phẩm này, Hêghen xem xét ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn cuối cùng trên
con đường diễu hành nơi trần gian từ bỏ giới tự nhiên, khắc phục sự tha hóa, quay
về lại chính mình như thế nào.
Triết học tinh thần bao gồm học thuyết về tinh thần chủ quan, học thuyết về tinh
thần khách quan và học thuyết về tinh thần tuyệt đối.
- Tinh thần chủ quan thể hiện sự tồn tại của mình trước hết trong linh hồn con
người (nhân loại học); sau đó, nó thể hiện trong ý thức (hiện tượng học) để phân biệt
với cơ thể; và sau cùng, nó thể hiện trong tri thức (tâm lý học) - cái tinh thần bắt thế
giới bên ngoài phục tùng nó.
- Tinh thần khách quan là sự phủ định biện chứng tinh thần chủ quan. Nó thể hiện
tính tự do của ý niệm tuyệt đối trước hết trong pháp quyền; nó lấy tự do ý chí làm
nền tảng, lấy ý niệm pháp quyền và việc thực hiện pháp quyền làm đối tượng. Khi
cá nhân pháp lý trở thành chủ thể đạo đức thì tinh thần khách quan tự phát triển vào
lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là pháp quyền của hành vi, nó lấy sự hòa hợp hành vi của
các chủ thể làm cơ sở. Tinh thần khách quan hoàn thành quá trình tự phát triển trong
phong hóa. Phong hóa là sự thể hiện bản tính tự do của ý niệm tuyệt đối trong các
hình thức thể hiện là gia đình, xã hội công dân và nhà nước, trong đó, nhà nước là
hình thức cao nhất.
- Tinh thần tuyệt đối là sự thống nhất của tinh thần chủ quan và tinh thần khách
quan. Nó thể hiện đầu tiên trong nghệ thuật, thông qua việc đề cao cái đẹp tinh thần
- hình ảnh cảm tính của ý niệm tuyệt đối; sau đó, nó thể hiện trong tôn giáo, thông
12
qua việc thống nhất niềm tin với lý tính - biểu tượng của ý niệm tuyệt đối; và cuối
cùng, nó hoàn thiện chính mình trong hệ thống khái niệm trừu tượng của triết học.
Theo Hêghen, nghệ thuật, tôn giáo, triết học là các phương thức mà y niệm tuyệt đối
sử dụng để tự khám phá ra chính mình, để rũ bỏ mọi dấu vết vật chất bám vào mình
nơi trần gian mà quay về với mình, quay về với cái khởi đầu trong tính toàn vẹn và
đầy đủ của nó, trong đó, triết học là quá trình tự nhận thức đầy đủ và trọn vẹn nhất
của ý niệm tuyệt đối.
Hêghen cho rằng, triết học của ông - học thuyết về tinh thần tuyệt đối là sự tổng hợp
toàn bộ giá trị của mọi học thuyết có giá trị trước đó, thuộc mọi lĩnh vực nghiên cứu
hoạt động tinh thần của con người; do đó, nó là “khoa học của mọi khoa học”. Trong
triết học Hêghen, ý niệm tuyệt đối đã hoàn thành quá trình nhận thức của mình, đã
khám phá ra chính mình, và quay trở về với mình trong học thuyết về tinh thần tuyệt
đối. Vì vậy, tinh thần tuyệt đối là kết quả tối cao, toàn diện và triệt để của toàn bộ
lịch sử thế giới.
Nếu Triết học tự nhiên có nhiều điểm yếu thì Triết học tinh thần là một thành tựu to
lớn của triết học Hêghen. Xét về thực chất, đây là học thuyết duy tâm bàn về sự phát
triển ý thức cá nhân và ý thức xã hội; bàn về sự phát triển trí tuệ, lý tính con người.
3. VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HÊGHEN ĐỐI VỚI SỰ
RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
3.1. Ý nghĩa và hạn chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen
3.1.2. Ý nghĩa của phép biện chứng duy tâm Hêghen
Phép biện chứng là linh hồn sống động của hệ thống triết học Hêghen. Tư tưởng về
mối liên hệ phổ biến (mọi cái đều là hiện thân, là các giai đoạn khác nhau nhưng liên
hệ lẫn nhau của ý niệm tuyệt đối) và tư tưởng về sự phát triển (quá trình phủ định
biện chứng của ý niệm tuyệt đối) là những tư tưởng cơ bản xuyên suốt, là mạch suối
ngầm thấm chảy qua toàn bộ hệ thống của Hêghen.
13
Ngoài việc phát hiện ra các quy luật biện chứng thì lần đầu tiên trong lịch sử triết
học, Hêghen đã kết hợp phép biện chứng và lôgích học thành một quan niệm thống
nhất về lôgích biện chứng. Ông vạch ra những hạn chế của lôgích học cũ là chỉ
nghiên cứu tư duy chủ quan trong phạm vi ý thức cá nhân mà không chỉ ra được
ranh giới giữa lôgích học với các ngành khoa học khác cùng nghiên cứu tư duy, là
chỉ dựa trên những phạm trù bất động, tách rời hình thức ra khỏi nội dung của nó.
Phép biện chứng được Hêghen lý giải là phương pháp đúng đắn để nhận thức các
vấn đề triết học. Phương pháp tư duy biện chứng được ông nghiên cứu một cách đầy
đủ nhất và có căn cứ vững chắc là phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết
học trước Mác. Đồng thời nó cũng chế định một thế giới quan đặc biệt cần đă
̣
t trên
niềm tin vào tính tất yếu của sự tiến bộ với tư cách là kết quả của sự phát triển hợp
quy luật.
3.1.2. Những hạn chế của phép biện chứng duy tâm Hêghen
Bản chất phép biện chứng duy tâm của Hêghen là khoa học và mang tính cách
mạng, tuy nhiên do xuất phát từ quan điểm duy tâm tuyệt đối mà phép biến chứng
này còn nhiều hạn chế:
+ Coi nhận thức chỉ là khám phá ra ý niệm tuyệt đối; thực tiển chỉ là hoạt động tinh
thần của chủ thể sáng tạo ra tư tưởng.
+ Phép biện chứng của Hêghen vừa là lý luận biện chứng về sự phát triển của ý niệm
vừa là phương pháp lý luận biện chứng nghiên cứu ý niệm, Heeghen đã đoán được
phép biện chứng của sự vật vì vậy nó là phép biện chứng duy tâm
+ Do bị giam hãm trong hệ thống duy tâm thần bí nên phép biện chứng vừa có nội
dung biện chứng tiến bộ, cách mạng, vạch ra thời đại, vừa có nội dung phản khoa
học, bảo thủ, tư biện nên nó chứa nhiều mâu thuẫn.
+ Phủ nhận sự phát triển trong giới tự nhiên và nhiều thành tựu khoa học trong tự
nhiên lúc bấy giờ nếu chúng không hợp với ý niệm tuyệt đối.
14
+ Coi nhà nước và văn minh Đức là đỉnh cao của ý niệm tuyệt đối trên trần giang, là
đích đến mà mọi dân tộc phải vươn tới.
+ Coi triết học của mình là đỉnh cao của tư duy triết học mọi thời đại – ý niệm tuyệt
đối đã khám phá ra chính mình từ cái không phải là mình để quay về với mình do đó
tại đây mọi sự phát triển đều chấm dứt.
3.2. Vai trò của phép biện chứng duy tâm Hêghen đối với sự ra đời của triết học
Mác
“Chủ nghĩa duy vật là triết lý của chủ nghĩa Mác Nhưng Mác không bị hạn chế
vào chủ nghĩa duy vật thế kỷ 18, mà đã đi xa hơn. Mác đã làm nó phong phú thêm
bằng những thành tựu của triết học cổ điển Đức, đặc biệt là hệ thống triết học của
Hêghen, hệ thống này đã đưa đến chủ nghĩa duy vật của Foiơbắc. Phần chủ yếu
trong những thành tựu ấy là biện chứng pháp”
(Lênin. Ba nguồn và ba phần thiết lập của chủ nghĩa Mác).
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen chính là nền móng cho phép biện chứng duy
vật duy nhất sau này, là cội nguồn của triết học Mác. Hêghen đã mang lại phép biện
chứng tư duy là một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng của nhân loại.
Phép biện chứng của Hêghen, về thực chất, là tích cực và cách mạng, nhưng nó lại
bị giam hãm trong hệ thống triết học duy tâm thần bí của ông. Vì vậy, trong triết học
của Hêghen, bên cạnh những nội dung biện chứng, tiến bộ, vạch thời đại, khoa học
và cách mạng lại có không ít quan điểm siêu hình, phản động, phản khoa học và bảo
thủ, tư biện; nghĩa là trong nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Chỉ cần loại bỏ lớp vỡ
thần bí của nó, cải thiện nó trên tinh thần duy vật của Foiơbắc thì nó sẽ trở thành
một biện chứng pháp đúng đắn. Và người có thể ra tay cứu lấy phép biện chứng của
Hêghen, theo Lênin, “Mác là người độc nhất có năng lực”.
Mác đã xây dựng lại biện chứng pháp của Hêghen trên cơ sở duy vật, và đặt thành
phương pháp tư tưởng của chủ nghĩa duy vật mới. Như Mác nói : “Tuy biện chứng
15
pháp trong tay Hêghen đã bị thần bí hóa, nhưng chính Hêghen là người đầu tiên đã
trình bày một cách tổng quát và có ý thức những hình thái biện chứng phổ cập của
sự biến chuyển. Với Hêghen biện chứng pháp đi đường đầu. Chúng ta phải lộn nó
lại, để bóc trần cái hạt nhân duy lý ẩn trong cái vỏ thần bí.”
1
Vì nội dung tư tưởng Hêghen căn bản xuất phát từ thực tế khách quan, xét tới cùng
thì cũng có tính chất duy vật, mà nội dung ấy lại bao quát hầu như toàn bộ lịch sử
thế giới, Hêghen đã xây dựng được quan điểm tiến hóa và phương pháp luận lý biện
chứng, quan điểm và phương pháp ấy tuy có bị lập trường duy tâm đảo lộn, nhưng
cũng đã làm tiền đề cho chủ nghĩa Mác. Mác đã lộn lại biện chứng pháp Hêghen, gạt
bỏ cái màn duy tâm để nêu lên cái hạt nhân duy lý, thiết lập phương pháp biện
chứng duy vật. Cần phải nhận rõ tính chất sáng tạo trong công trình ấy. Mác không
phải chỉ có cải tạo một cách đơn thuần biện chứng pháp Hêghen, nhưng thực ra thì
đã sáng tạo lại hoàn toàn phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật, theo một
nội dung mới. Vì tuy nội dung hệ thống triết học của Hêghen có bao gồm lịch sử
thực tại, nhưng Hêghen lại thu hẹp nó vào phần tinh thần, biến nó thành hiện tượng
duy tâm thuần túy, do đấy phương pháp biện chứng cũng phải xuất hiện dưới một
hình thức thần bí. Chỉ có trên lập trường duy vật mới có thể phát triển nội dung chân
chính phản ánh đúng đắn thực tế khách quan, và nhờ đấy xây dựng phương pháp tư
tưởng ăn khớp với quy luật mâu thuẫn và biến chuyển của thực tại. Chính như thế
là “lộn lại” biện chứng pháp Hêghen, thiết lập biện chứng pháp duy vật.
Như Mác đã nói: “Phương pháp biện chứng của tôi về căn bản không những là
khác, mà là đối lập hẳn với phương pháp biện chứng của Hêghen. Theo Hêghen,
quá trình diễn biến tư tưởng, mà dưới tên ý niệm, ông ta đã biến thành một chủ thể
độc lập, là vị Thần sáng tạo ra thực tại, thực tại này chỉ là ngoại diện của vị thần
kia. Trái lại, theo ý tôi, thì cái biến chuyển của tư tưởng chỉ là phản ánh cái biến
1
C. Mác. Tư Bản Luận. Bài của bản in lần thứ hai
16
chuyển thực tại. Nó là cái biến chuyển thực tại chuyển vào và lặp lại trong đầu óc
của người ta”.
2
Nói một cách khác, biện chứng pháp chân chính là biện chứng pháp duy vật. Và tuy
trong ấy có sử dụng những phát kiến chính đáng của Hêghen, nhưng xét về căn bản
và thực chất thì nó là một phát kiến mới trên một cơ sở mới, một công trình sáng tạo
của C. Mác , mở một kỷ nguyên mới cho lịch sử nhân loại. Tuy nhiên không phải vì
thế mà triết học Hêghen đã mất giá trị tiến bộ của nó. Để thấy rõ sự khác nhau sâu
sắc giữa biện chứng pháp duy vật và biện chứng pháp duy tâm và tính chất ưu việt
tuyệt đối của biện chứng pháp duy vật, đồng thời nội dung phong phú và tác dụng
xây dựng của biện chứng pháp Hêghen, chúng ta có thể đi vào từng vấn đề đặc biệt
của triết học Hêghen và phân tích cụ thể cái căn bản khoa học chân chính cùng với
cái tình trạng lộn ngược của nó. Chúng ta sẽ thấy rằng chính cái phần chân lý trong
ấy cũng phải có vận dụng phương pháp biện chứng duy vật mới có thể nêu rõ,
nhưng mặt khác thì biện chứng pháp Hêghen, một khi đã được lộn lại, lại cung cấp
những tài liệu tốt để học tập chủ nghĩa Mác.
2
C. Mác. Tư Bản Luận. Bài của bản in lần thứ hai
17
KẾT LUẬN
Hêghen là nhà nhà triết học duy tâm biện chứng khách quan. Triết học của ông đầy
mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư
tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông phủ nhận tính
chất khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn có của sự phát triển của tự
nhên và xã hội. Ông cho rằng, khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là
“ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới
hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt
đối tồn tại vĩnh viễn.
Trong hệ thống triết học của Hêghen, không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự
phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự nhiên phụ thuộc
vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối.Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ
nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai do tinh thần thế giới và ý niệm tuyệt đối quyết
định. Nó là một sự “tồn tại khác” của tinh thần, sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại
khác” ấy, ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó
là giai đoạn cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghen gọi là tinh thần tuyệt đối.
Hêghen đã có công nêu ra những phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng.
Nhưng phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, vì vậy Mác gọi đó
là phép biện chứng lộn ngược đầu xuống đất, vì đó cũng chỉ là quy luật của sự phát
triển của “ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Mặc dù vậy, ông vẫn là người đầu tiên trình
bày toàn bộ giới tự nhiên và lịch sử dưới dạng một quá trình không ngừng vận động
và biến đổi, phát triển và cố gắng vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và
phát triển ấy. C.Mác và Ăng ghen đã phê phán một cách triệt để tính chất phản khoa
học và thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêghen; đồng thời hai ông đánh
giá cao và tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng của Hêghen để xây
dựng và phát triển học thuyết về phép biện chứng duy vật của mình.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo – Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học
và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), NXB Lý luận chính
trị, Hà Nội – Năm 2006
2. C. Mác. Tư Bản Luận. Bài của bản in lần thứ hai.
3. Lênin. Ba nguồn và ba phần thiết lập của chủ nghĩa Mác.
4. Tiểu ban Triết học, Triết học (Phần I & II, dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học), LHNB Trường ĐH
Kinh tế TP.HCM, 2010.
5.
6.
7. o/TDThao/TDThao_HatNhanDuyLy.htm#_edn4
8. o/TDThao/TDThao_LichSuTruocMarx_12.htm