TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
−−
ĐỀ TÀI 1:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC
VEDANTA ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
GVPT : TS.BÙI VĂN MƯA
HVTH : PHẠM THỊ HỒNG
NGA
STT : 47
Nhóm : 05
Lớp : TCDN – Ngày 4
Khoá :22
TP.HCM, Tháng 12/2012
TP.HCM, Tháng 12/2012
LỜI MỞ ĐẦU
Nền đạo học phương đông đã dâng tặng cho nhân loại một kho tàng tri thức
vô tận về vũ trụ và nhân sinh, cái nôi của nền triết học nhân loại. Trong đó, chúng ta
không thể không nói đến nền triết học Ấn Độ cổ đại, đã hình thành và phát triển,
vừa mang tính đa dạng vừa mang tính thống nhất, tạo ra sự sống động ,muôn màu,
muôn vẻ của nền triết học nhân loại.
Trong thời kỳ cổ đại, mặc dù cùng được hình thành và phát triển từ trong
truyền thống Vêđa, nhưng các trường phái triết học Ấn Độ lại luôn xung đột lẫn
nhau. Đó là sự mâu thuẫn giữa hệ thống chính thống và phi chính thống. So với các
nền triết học cổ đại khác, nền triết học Ấn Độ biểu hiện ra là một nền triết học chịu
ảnh hưởng lớn từ nhiều tư tưởng tôn giáo. Hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ
cổ đại đều có sự thống nhất giữa tư tưởng triết học và tư tưởng tôn giáo (trừ trường
phái Lokayata). Hai trường phái theo tư tưởng triết học còn lại là Jaina và Phật giáo,
tuy tuyên bố đoạn tuyệt với truyền thống văn hóa Veda (truyền thống tôn giáo). Do
đó tư tưởng giữa hai trường phái triết học này so với các trường phái theo tư tưởng
tôn giáo tuy có những điểm khác biệt nhưng vẫn tồn tại nhiều điểm tương đồng. Để
làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt này, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài:
“Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Phật giáo & triết học Vêđanta ở Ấn
Độ thời cổ đại”. Nhằm tìm hiểu một cách sâu rộng hơn về những điểm tương đồng
và khác biệt, đồng thời có cái nhìn tổng quan hơn về hai trường phái triết học này.
Đề tài hoàn thành dựa trên một số tài liệu tham khảo như: Doãn Chính (2012), Lịch
Sử Triết Học Phương Đông, NXB: Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật; Doãn Chính
(2011), Veda Upanishad - Những Bộ Kinh Triết Lý Tôn Giáo Cổ Ấn Độ, NXB:
Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật; Bùi Văn Mưa (2011), Triết Học Phần I – Đại
Cương Về Lịch Sử Triết Học, Lưu Hành Nội Bộ;….và một số trang web.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT ẤN ĐỘ THỜI KỲ CỔ ĐẠI
1.1 Bối cảnh lịch sử Ấn Độ cổ đại.
1.1.1 Điều kiện tự nhiên.
− Ấn Độ cổ đại là một bán đảo nằm ở khu vực Nam Á. Phía đông và tây giáp với
Ấn Độ Dương, phía bắc là dãy núi Hymalaya với hai con sông lớn: sông Ấn và
sông Hằng đã hình thành nên đồng bằng phù sa màu mỡ, cũng là nơi sản sinh ra
nền văn hóa cổ xưa và rực rỡ nhất châu Á. Phía nam Ấn Độ là cao nguyên
Decan, là vùng đất nghèo nàn, cằn cõi, khô hạn, quanh năm nắng nóng.
− Do vậy, khí hậu giữa các miền của Ấn độ không đồng nhất với nhau, có nơi
quanh năm tuyết phủ, có nơi lại khô hạn, nắng nóng.
1.1.2 Về kinh tế
− Nông nghiệp lúa nước là ngành kinh tế chủ đạo của người Ấn Độ cổ đại. Do
việc cải tiến các phương tiện sản xuất và việc mở rộng các công trình thuỷ lợi,
đào kênh dẫn nước vào ruộng nên diện tích đất canh tác ngày càng tăng lên,
hình thành các vùng kinh tế nông nghiệp phát đạt với nhiều ngành trồng trọt,
chăn nuôi trù phú.Và trong thời kỳ này, do sự phát triển của sức sản xuất đã làm
cho thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi nông nghiệp ở một số vùng.
1.1.3 Về chính trị
− Vào khoảng 1500 đến 1000 năm trước CN, tộc người Aryan đã di cư vào Ấn độ.
Họ tổ chức ra các công xã nông thôn và phân chia ruộng đất cho các thành viên
trong công xã.
− Khoảng 1000 đến 600 năm trước CN, thế lực người Aryan bành trướng dẫn đến
sự phân hóa giai cấp gay gắt tạo điều kiện hình thành các quốc gia. Trong đó,
hùng mạnh nhất là quốc gia Magadha ở hạ lưu sông Hằng.
− Về sau, vương triều Magadha bị lật đổ, thành lập nên triều đại Maurya (312
trCN), Asoka đã thống nhất và kiểm soát toàn bộ Ấn độ. Sau khi Asoka mất
vương triều này suy sụp và dẫn đến diệt vong vào năm 28 trCN. Ấn độ lại bị
ngoại bang xâm lược, mãi đến thế kỷ IV thì mới mới được thống nhất dưới triều
Gupta và triều đại Harsa.
1.1.4 Về xã hội
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
3
− Xã hội Ấn Độ cổ đại là thời kỳ chế độ nô lệ mang tính chất gia trưởng, và chế
độ công xã nông thôn ở Ấn Độ cũng khá phát triển. Toàn bộ ruộng đất thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước với sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc nghiệt. Xã
hội có 4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), Đẳng cấp quý tộc, Đẳng cấp bình
dân tự do, Đẳng cấp nô lệ.
1.1.5 Về văn hóa
− Ngôn ngữ và chữ viết: rất phong phú và đa dạng như Pali (ngôn ngữ của Phật
Giáo), ngôn ngữ Sanskrit (ngôn ngữ của tầng lớp quý tộc)….
− Thiên văn học: xuất hiện từ thời Veda, họ đã quy định được một tháng gồm ba
mươi ngày, một năm gồm có mười hai tháng….
− Toán học: người Ấn độ đã phát hiện ra chữ số thập phân và tính được số Pi ….
− Y học: ngày càng phát triển, họ đã biết dùng lá cây chữa bệnh đơn giản và điều
trị bệnh lâm sàng một cách thuần thục và chính xác….
− Kiến trúc: nổi bật nhất là lối kiến trúc xây dựng chùa chiền, đền tháp.
− Văn học: dân Ấn đã sáng tác ra các áng văn chương bất hủ như bộ Veda và các
bộ sử thi: Mahabharata, Ramayana…
⇒ Tóm lại, những yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị ….đã hợp thành cơ sở hiện
thực cho sự phát triển những tư tưởng triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại
1.2 Triết học Ấn Độ cổ đại
1.2.1 Đặc điểm triết học Ấn Độ cổ đại.
− Thứ nhất, triết học ấn độ cổ đại phát triển rất phong phú nhưng không mang tính
cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học
có trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết học
mới. Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại.
− Thứ hai, triết học ấn độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín
ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
− Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới vấn đề
nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
1.2.2 Hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại.
− Dưới sự tác động của, chi phối, thống trị của triết giáo Veda, Upanishad và giáo
lý đạo Bà-la-môn được mệnh danh là tư tưởng truyền thống chính thống, chính
người Ấn Độ đã phân các hệ thống triết học của họ thành 2 loại lớn:
1.2.2.1 Các hệ thống chính thống gồm 6 trường phái: Vêđanta. Samkhya, Yoga,
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
4
Mimansa, Nyaya, Vaisêsika
+ Nguyên nhân dẫn đến sự luân hồi của mỗi cá nhân là vì linh hồn cá biệt nơi
mỗi người thường bị những ham muốn dục vọng che lấp, nên linh hồn rơi vào
vòng ám muội của thế giới vật chất, thường biến, hữu hình, hữu hạn, không
giữ được bản lai thanh tịnh của mình.
+ Theo trường phái này, không thể giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ
hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rõi của đấng tối cao mà phải chế dục theo pháp
Yoga, diệt trừ nghiệp lực và phải thấu triệt sáu nguyên lý tạo thành vũ trụ.
1.2.2.2 Các hệ thống không chính thống
+ Trường phái Jaina (Kỳ na giáo): mang đậm màu sắc tôn giáo, ra đời vào
khoảng thế kỷ VI trước công nguyên.
+ Trường phái Lokayata: mang tính duy vật chủ nghĩa và vô thần tương đối
triệt để, nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian tương đối ngắn.
+ Triết phái Budđhsam (Phật giáo): Là một trường phái triết học tôn giáo lớn
của Ấn Độ cố đại. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo Ấn độ cổ
đại được thể hiện: thế giới quan (phản ánh trong ba phạm trù : vô ngã, vô
thường, duyên khởi ) & nhân sinh quan tập trung vào tứ diệu: khổ đế, nhân
đế, diệt đế, đạo đế.
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC
VEDANTA
2.1 Triết học Phật giáo.
2.1.1 Hoàn cảnh ra đời
− Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế
kỷ VI tr. CN ở miền Bắc Ấn, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới giữa ấn
Độ với Nêpan hiện nay. Người sáng lập Đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni sinh
ngày 8 tháng 4 năm 563 tr. CN có tên thật là Siddharha(Tất Đạt Đa) họ là
Gautama (Cù Đàm), con trai đầu của vua Suddhodana (Tịnh Phạn) dòng họ
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
5
Sakya. Năm 29 tuổi, ông từ bỏ cuộc sống vương giả đi tu luyện tìm con đường
diệt trừ nỗi đau khổ của chúng sinh. Sau 6 năm khổ luyện, ông đã "ngộ đạo",
tìm ra chân lý "Tứ diệu đế" và "Thập nhị nhân duyên".
− Đạo Phật ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ
đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm con đườn giải thoát con người
khỏi nỗi khổ đó.
2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển.
− Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết thành văn
thể hiện trong kinh "Tam tạng"(Tripitaka) gồm ba bộ phận: Tạng kinh (Sutra -
pitaka) ghi lời Phật dạy; Tạng luật ( Vinaya - pitaka) gồm các giới luật của đạo
Phật; Tạng luận ( Abhidarma - pitaka) gồm các bài kinh, các tác phẩm luận
giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả về sau.
2.1.3 Tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo
2.1.3.1 Thế giới quan : được phản ánh trong thuyết duyên khởi và được làm sáng tỏ
qua phạm trù vô ngã và vô thường. Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy
mang tính vô thần, nhị nguyên luận ngã về phía duy tâm chủ quan và có chứa
những tư tưởng biện chứng chất phác.
Thuyết duyên khởi :
• Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có nghĩa là các
pháp – vạn vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý đều do nhân
duyên mà có.
• Phật giáo cũng trình bày thuyết Thập nhị nhân duyên, mười hai nguyên nhân
dẫn đến bể khổ của con người. Sự vận hành của mười hai nhân duyên theo
chiều sinh khởi là con đường của khổ đau, luân hồi được dẫn dắt và chi phối
bởi vô minh.Từ đây, Phật giáo cũng chủ trương vô tạo giả, tức không có vị
thần linh tối cao nào tạo ra thế giới. Quan niệm vô tạo giả gắn liền với quan
niệm vô ngã, vô thường.
Vô ngã :
• Vô ngã là không có một thực thể tối thượng nào tồn tại vĩnh hằng cả. Trong
thế giới, vạn vật và con người được cấu tạo từ các yếu tố sắc (vật chất như
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
6
đất, nước, lửa, gió) và danh (tinh thần như thụ, tưởng, hành, thức) mà không
có đại ngã hay tiểu ngã.
• Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo của các “đấng tối cao”, của “thượng đế”
và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan chứ không phải do vị thần
nào sáng tạo ra.
Vô thường :
• Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Trong thế giới, sự
xuất hiện của vạn vật, kể cả con người cũng chỉ là kết quả hội tụ tạm thời
giữa sắc và danh, khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ mất đi.
2.1.3.2 Nhân sinh quan :Đứng trước sự khổ đau của nhân loại, Đức Phật quan sát
cái khổ, cội nguồn dẫn đến những cảnh khổ và tìm ra cách tận diệt những
mầm mống khổ, một khi cái khổ không còn nữa, thì mới có thể đi tới sự giải
thoát. Tất cả được trình bày trong thuyết Tứ diệu đế. Thuyết này gồm bốn bộ
phận là : khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế :
• Đức Phật nhận định : khổ là tất cả những cái phiền não trên thế gian này mà
con người phải gánh, không lúc này thì cũng lúc khác. Theo Phật, có 8 nỗi
khổ (bát khổ) trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là sinh khổ,
lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, sở cầu bất đắc khổ, oán tăng hội
khổ, ngũ uẩn khổ.
Nhân đế :
• Nhân đế là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con
người. Phật cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không thoát
ra khỏi dòng sông luân hồi. Luân hồi do nghiệp tạo ra.
Diệt đế :
• Diệt là tiêu diệt, trừ diệt. Diệt ở đây tức là diệt dục vọng mê mờ, phiền não.
Ðế là lý lẽ chân thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu và thuyết minh.
Diệt đế là sự thật đúng đắn về hoàn cảnh tốt đẹp mà mọi người có thể đạt
được khi đã diệt hết mọi phiền não, mê mờ.
Đạo đế :
• Đạo đế tức là con đường chuyển hóa, con đường đưa đến giải thoát, là
phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc trong đời sống. Muốn
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
7
được như vậy thì phải thực hành bát chính đạo. Đó là: chính kiến (hiểu biết
đúng), chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (lời nói chân thật), chính
nghiệp (hành động đúng đắn), chính mệnh (sống một cách chân chính), chính
tinh tấn (thẳng tiến mục đích đã chọn), chính niệm (ghi nhớ những điều hay
lẽ phải), chính định ( tập trung tư tưởng vào một điều chính đáng). Chung
quy, Bát chính đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn…
• Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành Ngũ giới và Lục độ.
Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất công, đòi bình đẳng,
công bằng xã hội, khuyên chúng sinh luôn suy nghĩ và làm việc thiện.
2.2 Triết học Vedanta
2.2.1 Hoàn cảnh ra đời
− Hình thành vào thế kỷ thứ II TCN, do Badarayana khởi xướng và Sankara phát
triển , tiếp nối các tư tưởng của Upanisát, đưa ra các kiến giải siêu hình và duy
tâm về nguyên nhân hình thành thế giới (vũ trũ và vạn vật).
− Vêđanta là học thuyết triết học tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn trong hệ thống
triết học chính thống ở Ấn Độ cổ đại. Nó ra đời từ phong trào tổng thuật, chú
giải, khai thác mặt triết lý có tính chất trừ tượng, uyên áo của kinh Vêđa và
kinh Upanisát – học thuyết có uy thế nhất trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ cổ đại.
2.2.2 Qúa trình phát triển
− Phái Vêđanta chịu sự phê phán mạnh mẽ của các trường phái khác, vì vậy, nó
đã không đứng vững trước lập trường duy tâm nhất nguyên của mình. Sang
thời trung đại, nó đã chuyển dần sang lập trường nhị nguyên. Dù vậy, nó vẫn là
cơ sở triết học của giáo lý đạo Bàlamôn – Hinđu.
2.2.3 Tư tưởng triết học cơ bản của Vedanta
− Một là, thừa nhận sự tồn tại của brátman – linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần
tối cao, là bản chất, là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh
thành và hủy diệt của mọi cái trong thế giới.
− Hai là, coi átman – linh hồn cá nhân – là hiện thân của brátman nơi thể xác trần
tục của con người và bị vây hãm, ràng buộc bởi những ham muốn nhục dục
của thể xác. Để giải thoát átman khỏi sự vây hãm ràng buộc này, con người
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
8
(átman) phải dốc lòng tu luyện, suy tư, chiêm nghiệm tâm linh để nhận ra bản
tính thần thánh của mình mà quay về với Brátman.
− Ba là, coi thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh do vô minh của con người mang lại.
CHƯƠNG 3: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC PHẬT
GIÁO VÀ TRIẾT HỌC VEDANTA ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
3.1 Sự tương đồng giữa Phật giáo và Vedanta Ấn Độ cổ đại.
Căn cứ trên cái nhìn của triết học Phật giáo và Vêđanta với tư tưởng Veda vẫn xứng
đáng là nguồn cảm hứng cho sự bộc phát những tư tưởng triết học của dân tộc Ấn
Độ. Trong một giới hạn nào đó, giữa Vêđanta và Phật giáo đã tìm thấy nhau ở
những điểm chung:
3.1.1 Nội dung chủ đạo.
− Tư tưởng triết học, tôn giáo Ấn Độ tuy thiên sai, vạn biệt, song đều đưa đến một
điểm then chốt, đó là việc giải quyết vấn đề nhân sinh. Những nhà tư tưởng Ấn
Độ đi tìm chân lý không phải để triết lý về những điều trừu tượng viển vông và
khô khan mà đều tập trung vào một mục đích tối cao là “tìm ra chỗ quy hướng
của kiếp người, tìm lấy một phương châm thực tiễn để quyết định cho lẽ sống”
và đạo sống của con người.
3.1.2 Thế giới quan và nhân sinh quan
− Hai trường phái triết học này đều cố gắng đi tìm cái chân bản của con người mà
về bản chất là đồng nhất với bản thể của vũ trụ hay nguồn sống của vũ trụ tuyệt
đối vĩnh hằng, hay tìm ra cái vũ trũ tuyệt đối, sáng suốt, thanh tịnh trong cái ta
giả, cái ta hiện tượng đầy hư vọng và tham dục của con người.
− Những vấn đề về bản chất đời sống tinh thần, tâm linh, đạo đức, tâm lý của nhân
sinh là những vấn đề cốt lõi nhất của triết học, tôn giáo Ấn Độ. Để tìm ra đạo
sống của con người và để tinh thần con người vượt qua được sự mê hoặc của
thế giới hiện tượng giả tưởng, ảo vọng khát khao vươn tới bản thể tuyệt đối tối
cao, vĩnh viễn, là nguồn sống của vũ trụ.
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
9
− Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, kể cả con người chỉ là những biểu hiện
khác nhau của một cái duy nhất, tuyệt đối, tối cao, được gọi là “Tinh thần vũ trụ
tối cao” – Bratman của phái Vêđanta hay đó là Niết bàn của phái Phật giáo.
3.1.3 Quan niệm yếm thế và giải thoát
− Khuynh hướng yếm thế không nhất định là do quan niệm luân hồi phát sinh.
Nếu nói theo một ý nghĩa khác, ta có thể cho rằng, vì người ta quá tôn sùng
quan niệm lý tưởng nên mới có khuynh hướng yếm thế. Nhưng quan niệm luân
hồi cũng đã làm khuynh hướng yếm thế biểu hiện một cách rõ rệt.
− Tư tưởng triết học Ấn Độ đi tìm sự giải thoát, nghĩa là muốn thoát khỏi cái kiếp
người đầy lo âu để đến một cảnh giới lý tưởng yên vui, bất biến. Đó cũng là lẽ
tự nhiên. Cho nên nói giải quyết vấn đề nhân sinh, bất luận theo ý nghĩa nào,
đều lấy sự giải thoát làm mục tiêu. Tư tưởng giải thoát đã trở thành một trong
những đặc điểm nổi bật và xuyên suốt của triết học, tôn giáo Ấn Độ. Hai giáo
phái triết học này đều đi đến một mục đích chung, một lý tưởng cao cả nhất đó
là giải thoát.
3.1.4 Nguyên lý cơ bản
− Vấn đề nghiệp lực được coi là nguyên lý cơ bản của tất hai trường phái này,
đồng thời cũng là của tất cả các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ. Nghiệp
(karma) là những hành vy thiện hay ác, do “thân nghiệp, “khẩu nghiệp” mà con
người đã tạo tác ở kiếp trước rồi chất chứa trong tâm thức của con người để đến
kiếp này trở thành động lực chi phối đến vận mệnh. Làm điều thiện thì có
nghiệp tốt ứng báo điều lành, điều tốt cho đời sau. Gây điều ác thì có nghiệp xấu
ứng báo điều xấu cho đời sau. Do đó linh hồn con người phải chịu đầu thai vào
hết loài này hay loài khác. Đó chính là kiếp luân hồi (samsara).
3.1.5 Điểm hạn chế
− Cả hai trường phái đều không giải thích đúng đắn bản chất của các hiện tượng
xã hội, không tìm được nguyên nhân của mọi nỗi khổ của nhân gian. Hơn thế
nữa, cả hai đều không chỉ ra được con đường va biện pháp đích thực để cải tạo
xã hội, xóa bỏ sự đao khổ của quần chúng trong hiện thực, bằng hành động cách
mạng hiện thực.
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
10
3.2 Sự khác biệt giữa Phật giáo và Vedanta Ấn Độ cổ đại.
3.2.1 Ý nghĩa chính trị - xã hội
− Phật giáo:
• Trong xã hội Ấn độ cổ đại thời bấy giờ, với sự thống trị của tư tưởng duy
tâm – tôn giáo Balamon và chế độ phân biệt đẳng cấp rất khe khắt, nghiệt
ngã. Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy thế của kinh
Vêđa, phê phán giáo lý Balamon, lên án chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội;
đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội. Đó là sự thể hiện ý chí phản kháng
của nhân dân lao động chống lại những bất công trong xã hội Ấn Độ đương
thời.
− Vêđanta:
o Đại diện cho tâng lớp Tăng lứ, quý tộc, giai cấp thống trị trong xã hội Ấn Độ
cổ đại ra sức bảo vệ quyền lời cho chế độ mình, biện hộ cho giáo lý Balamon,
thừa nhận uy thế của kinh Vêđa.
3.2.2 Thế giới quan
− Phật giáo:
• Cho rằng thế giới về bản chất là một dòng biến ảo vô thường, không do một
vị thần sáng tạo ra cả. Do vậy, trong thế giới không thực có vật, không thực
có cái ngã, không có thực thể nào tồn tại thường định và vĩnh viễn.
• Theo triết lý Phật giáo, sở dĩ vũ trụ vạn vật biến hóa vô thường chính là do
vạn vật trong vũ trụ chịu sự chi phối của luật nhân quả. Nhân nhờ duyên
mới sinh ra quả, quả nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên
mà thành quả mới…; cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp – tan, tan – hợp mà
không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.
• Sự biến hóa, vận động không ngừng của vũ trụ do nhân duyên mà Phật giáo
gọi đó là” chư hành vô thường”.
• Do chủ trương vô ngã, không thừa nhận linh hồn bất tử, cho nên quan niệm
luân hồi của Phật giáo căn bản được thể hiện ở tư tưởng về nghiệp và tái
sinh.
− Vedanta:
o Cho rằng bản chất sâu xa của mọi cái tồn tại, từ đó vạn vật trong vũ trụ nảy
sinh va hòa nhập về với nó khi tiêu tan, đó là linh hồn vũ trụ tối cao Bratman.
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
11
Bratman là thực thể duy nhất, tuyệt đối, vĩnh viễn, bất diệt, vô hình, vô danh,
vô sắc, là bản chất của tất cả, xâm nhập và bao hàm tất cả, ở ngoài giới hạn
của không gian va thời gian. “Bratman là nguồn sáng của mọi nguồn sáng”,
là nguồn sống, là Linh hồn vũ trụ tối cao. “Tinh thần vũ trụ tối cao” Bratman
biểu hiện trong con người và chúng sinh là linh hồn cá nhân (Atman). Linh
hồn cá nhân chỉ là một bộ phận cái toàn bộ, tuyệt đối, tối cao Bratman.
Nhưng vì Atman chỉ là một bộ phận của Bratman, Atman chỉ là sự thể hiện
khác nhau của Bratman trong sự vật, hiện tượng, cho nên về bản chất
Bratman và Atman là đồng nhất. Nhưng vì Atman thể hiện trong mỗi thân
xác con người với cảm giác, ý chí, dục vọng, nên con người lầm tưởng rằng
linh hồn cá nhân là cái khác với Linh hồn vũ trụ tối cao.
o Quan niệm luân hồi: cho rằng linh hồn là bất tử, trú ngụ trong các hình thức
thể xác khác nhau.
3.2.3 Quan niệm về giá trị con người
− Phật giáo:
• Cho rằng “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp
trong giọt nước mắt cùng mặn. Một người được coi là quý tộc hay hạ tiện là
ở nơi hành vi của họ mà không phải ở đẳng cấp sinh ra”. Như vậy, Phật đã
xác định sự bình đẳng giữa người với người, không có ai là quý tộc và cũng
không có ai là hạ tiện. Quý tộc hay hạ tiện không phải do nơi giai cấp quy
định. Đây là một tư tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo và nó được thể hiện rất
rõ trong suốt quá trình hoằng dương thánh giáo của Ngài. Đức Phật mở rộng
cánh cửa giải thoát nhằm tiếp nhận tất cả mọi người bất kể sang giàu, cao
thượng hay hèn hạ….
• Đức Phật luôn đề cao giá trị của con người, bất luận là nam hay nữ. Ngài
cho rằng ai cũng có thể tu tập và đạt được giác ngộ giải thoát. Nghĩa là một
người cho dù xuất thân từ giai cấp Balamon cao quý hay ở những giai cấp
thấp, nếu thực hành theo giáo pháp của Ngài thì đều được thưởng thức
hương vị thánh đạo.
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
12
• Điểm đặc biệt nhất là Phật giáo đã tiếp nhận nữ giới vào trong giáo đoàn. Vì
Ngài thấy rõ “người nữ có khả năng thành tựu các đạo và các quả”. Có thể
nói đây là một cuộc cách mạng về giới tính đầy tính nhân văn.
− Vedanta:
o Quan niệm về giá trị con người hết sức bất công và không có sự bình đẳng.
Đây là sự phân biệt chủng tộc, màu da, cũng như về nguồn gốc xuất thân.
Những người thuộc giai cấp dưới phải tuân thủ nghiêm ngặt và phải tin tưởng
tuyệt đối vào sự an bài này. thân phận con người không được tôn trọng như
nhau, những người thuộc giai cấp trên thì được tôn trọng tuyệt đối, còn
những người thuộc giai cấp dưới được coi là những kẻ nô lệ. Đời sống vật
chất của những người thuộc giai cấp thấp còn chưa đầy đủ, thì làm gì có cơ
hội thăng hoa trong đời sống tinh thần.
3.2.4 Tư tưởng giải thoát
− Phật giáo
• Cho rằng giải thoát tức là trạng thái đời sống tin thần của con người vượt ra
khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới nhục dục, là sự “diệt” hết mọi dục vọng
và đạt tới cảnh trí Niết bàn với cái tâm tuyệt đối thanh tĩnh, không vọng
động, an lạc, bất sinh, bất diệt và tự do tự tại, bằng con đường tu luyện đạo
đức giữ nghiêm giới luật và tu luyện tri thức, thiền định, thực nghiệm tâm
linh để đạt tới giác ngộ theo “Tam hoc” (giới, định, tuệ).
• Bằng học thuyết “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân duyên” và “Bát chính đạo”,
Phật giáo đã chỉ ra căn nguyên biến đổi không ngừng của vũ trụ và thế gian,
tìm ra nguồn góc của nỗi khổ cuộc đời con người, từ đó vạch ra con đường,
cách thức để giải thoát chúng sinh ra khỏi nghiệp báo, luân hồi.
• Con đường cao thượng, đúng đắn nhất để đạt tới giác ngộ và giải thoát đó là
con đường trung đạo. Trong kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật đã nói:
“Người xuất gia có hai cực đoan cần tránh, một con đường thấp hèn chủ
trương cuộc sống chỉ cần khoái lạc, một con đường cực nhọc vô ích như chủ
trương của phái khổ hạnh ép xác. Con đường trung đạo thì ở giữa hai thái
cực kia, có thể dẫn đến giác ngộ và giải thoát”.
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
13
− Vêđanta
o Phạm trù giải thoát được định nghĩa là sự xóa bỏ mọi ràng buộc của thế giới
nhục dục, đưa tiểu ngã (Atman) hay linh hồn cá biệt phải nhận thức được và
hòa nhập vào đại ngã (Bratman) hay “Tinh thần vũ trụ tối cao”. Khi đó, con
người sẽ trút bỏ được mọi sự ràng buộc, mê hoặc của thế giới sự vật , hiện
tượng hữu hình, hữu hạn, luôn luôn biến đổi như ảo ảnh phù du; diệt được
mọi dục vọng, tư lợi nhỏ nhen; vượt lên trên mọi quan niệm thiện và ác, sống
và chết, sống hòa hợp, thanh thản.
o Con đường giải thoát là con đường nối liền tiểu ngã tương đối với đại ngã
tuyệt đối, bằng nhận thức trực giác nhận ra bản chất chân thực của thực tại vũ
trụ, chân bản của con người và thực tướng của vạn vật, vượt qua thế giới hiện
tượng hữu hình, hữu hạn, thường biến, giả tướng, đưa linh hồn cá biệt
(Atman) đồng nhất với tinh thần thế giới vô ngã, tuyệt đối, tối cao (Bratman).
MỤC LỤC
HVTH: Phạm Thị Hồng Nga – Ngày 4K22
Chương 1: Khái quát Ấn Độ thời cổ đại
14
KẾT LUẬN
Qua phân tích trên đã cho thấy giữa triết học Phật giáo và triết học Vêđanta
vẫn là hai trường phái tư tưởng với hai phương tiện khác nhau, nhưng lại giống nhau
ở mục đích. Đó là việc đem đến sự giải thoát cho con người khỏi mọi khổ đau ràng
buộc, nhưng để đạt được mục đích đó thì mỗi trường phái dựa trên tưởng và giải
pháp luận của riêng mình để đưa ra những phương cách rất khác nhau như đã phân
tích ở trên.
Tư tưởng về vũ trụ quan và nhân sinh quan của triết học Vêđanta thì
phong phú và đa dạng. Nhưng cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề về thế giới và
con người lại không hiệu quả, bởi triết lý của họ mang nặng tính chất thần quyền, lễ
nghi cúng bái.
Trong khi đó nền tảng triết lý của trường phái Phật giáo lại tuyên bố rằng vạn
vật do duyên sinh nên tất cả là vô thường, vô ngã. Lời tuyên bố ấy đã đánh dấu một
bước ngoặc vô cùng trọng đại, giải thoát nhân sinh ra khỏi các triết lý thần khải.
Đối với xã hội, sự xuất hiện của tư tưởng triết học Phật giáo đã làm một cuộc
cách mạng xóa bỏ tư tưởng giai cấp đầy bất công. Về phương diện tu tập thì trường
phái Phật giáo chủ trương thực hành giáo lý Trung Đạo đả phá con đường khổ hạnh
Chính vì giá trị thiết thực ấy đã làm cho Phật giáo tồn tại mãi với thời gian như lịch
sử đã ghi nhận : “Tại các nước Á Đông, mọi nền đạo học, thần học hết sức phong
phú, nhưng cho đến nay dần dần tan biến đi để chỉ còn lại một Đạo Phật tồn tại và
đại diện cho Đông Phương trong thực tại sinh hoạt thế giới hiện nay”. Tất cả những
điều này minh chứng Phật giáo có một bản sắc độc đáo riêng mà các triết phái khác
không có được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (2011), Triết Học Phần I – Đại Cương Về Lịch Sử Triết
Học, Lưu Hành Nội Bộ.
2. Chandradhar Sharma (2005) (dịch giả: Nguyễn Kim Dân), Triết Học ấn
Độ Nghiên Cứu Và Phê Bình, NXB: Tổng Hợp Tp-HCM.
3. Doãn Chính (2012), Lịch Sử Triết Học Phương Đông, NXB: Chính Trị
Quốc Gia – Sự Thật.
4. Doãn Chính (2011), Veda Upanishad - Những Bộ Kinh Triết Lý Tôn
Giáo Cổ Ấn Độ, NXB: Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật.
5. Doãn Chính (1997), Tư Tưởng Giải Thoát Trong Triết Học Ấn Độ, NXB:
Chính Trị Quốc Gia.
6. Doãn Chính và Lương Minh Cừ (1991), Lịch Sử Triết Học ấn Độ Cổ Đại,
NXB: Đại Học Và Giáo Dục Chuyên Nghiệp.
7. Điểm tương đồng giữa tư tưởng Ấn Độ và tư tưởng Phật giáo
/>8. Những điểm khác biệt giữa tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo
l
9. So Sánh Triết học Bà La Môn (Triết học Ấn Độ) và Đạo lý Phật giáo
2