Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC VEDANTA Ở ẤN ĐỘ THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.6 KB, 17 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC VEDANTA
Ở ẤN ĐỘ THỜI CỔ ĐẠI
HVTH : ĐỒNG THỊ MỸ NGỌC
STT : 45
NHÓM : 5
LỚP : CAO HỌC NGÀY 4 - K22
GV : TS. BÙI VĂN MƯA
TP.HCM, tháng 12 năm 2012
1
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung
của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những qui
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy
Triết học Ấn Độ cổ đại là chiếc nôi Triết học sớm nhất, lâu đời, phong phú và đã
tạo nhiều dấu ấn đặc biệt cho nền lịch sử Triết học. Và cũng chính nơi đây đã khai sinh ra
nhiều trường phái triết học và tôn giáo lớn trên thế giới “một tiểu vũ trụ của các tôn giáo
và các nền triết học”.
Triết học Ấn Độ cổ đại có chung đặc điểm là phân tích các vấn đề xuất phát từ
nhân sinh quan, Tuy được hình thành và phát triển trong cùng bối cảnh kinh tế - chính trị,
xã hội và từ truyền thống kinh Vêđa, nhưng trong quá trình phát triển các trường phái
triết học Ấn Độ lại luôn xung đột lẫn nhau. Đó là sự mâu thuẫn giữa hệ thống chính
thống và phi chính thống, tiêu biểu là trường phái Vêđanta và trường phái Phật Giáo. Do
đó, việc nghiên cứu dề tài “Sự tương đồng và khác biệt giữa triết học Phật giáo và triết
học Vêđanta ở Ấn Độ thời cổ đại” giúp cho học viên cao học hiểu sự hiểu biết đúng đắn
và sâu sắc về nền Triết học Ấn Độ cổ đại qua việc đi sâu vào sự tương đồng và khác biệt


giữa hai nền Triết học Vêđanta và Phật giáo. Đồng thời, qua đó học viên nâng cao trình
độ tư duy lí luận và vận dụng sáng tạo tư duy biện chứng vào lĩnh vực công tác chuyên
môn.
2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜI CỔ ĐẠI
1.1 Điều kiện ra đời Triết học Ấn Độ cổ đại
• Điều kiện tự nhiên:
Ấn Độ cổ đại là một lục địa lớn nằm ở miền Nam châu Á; có điều kiện thiên
nhiên phức tạp: vừa có nhiều núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những vùng
đồng bằng trù phú; có vùng khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá, quanh năm
tuyết phủ, lại cũng có những vùng sa mạc khô cằn, nóng nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt
của điều kiện tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn
Độ cổ.
• Điều kiện kinh tế - xã hội:
Xã hội ấn Độ cổ đại ra đời sớm, có điều kiện và dân cư rất đa dạng. Ấn Độ cổ -
Trung đại được chia thành 4 thời kỳ: Thời kỳ văn minh sông Ấn, thời kỳ văn minh Vêđa,
thời kỳ các vương triều độc lập và thời kỳ các vương triều lệ thuộc.
Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông thôn, toàn bộ ruộng đất thuộc
quyền sở hữu của Nhà nước, sự phân chia đẳng cấp hết sức khắc nghiệt. Xã hội có 4 đẳng
cấp lớn: Tăng lữ (Bà la môn), quý tộc, bình dân tự do, nô lệ. Sự phân biệt về đẳng cấp,
chủng tộc, dòng dõi, tôn giáo, nghề nghiệp đã tạo ra những xung đột ngấm ngầm trong
xã hội nhưng bị kìm giữ bởi sức mạnh tinh thần của nhà nước –tôn giáo. Xã hội phát triển
một cách chậm chạp và nặng nề.
• Điều kiện về văn hóa:
Văn hóa ấn Độ được hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên và hiện
thực xã hội. Người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy được nhiều kiến thức về thiên văn, sáng tạo
ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực Ở đây, toán học xuất
hiện sớm: phát minh ra số thập phân, tính được trị số π, biết về đại số, lượng giác, phép
khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học đã xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa
bệnh bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo mộc.

3
Tất cả những đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội cùng với sự phát triển rực
rỡ của văn hóa, khoa học Ấn Độ cổ đại là những tiền đề lý luận và thực tiễn phong phú
làm nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ cổ đại.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Ấn Độ cổ đại
Quá trình hình thành và phát triển triết học Ấn Độ cổ đại trải qua hai thời kỳ
chính:
- Thời kỳ thứ nhất: Thời kỳ Vêđa khoảng thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 8 TCN: nổi bật bởi
các ý tưởng triết học thấm đầy tính thần thoại, phát triển dần dần từ tư tưởng đa thần đến
tư tưởng đơn thần, được thể hiện trong kinh sách cổ có tính tổng hợp tri thức và giao lý
tôn giáo như kinh Veda, Upanishad, Bàlamôn.
- Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ cổ điển (hay Bà la môn và Phật giáo): Thế kỷ thứ 7 TCN đến
thế kỷ 6 SCN. Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ ấn Độ đã phát triển cao, nhưng vẫn
bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, cùng sự thống trị của
nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và sự khắc nghiệt của chế độ đẳng
cấp. Trong lĩnh vực tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo được coi là hệ tư tưởng
chính thống, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết học thời kỳ này
với khuynh hướng đa dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau, vừa mang tính
chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo. Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa
các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống
chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến đỉnh cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh
Veda. Từ đó đã hình thành cách phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường
phái triết học thành hai phái chính:
 Phái triết học chính thống, thừa nhận uy thế tối cao của kinh Veda và triết lý về tinh thần
sáng tạo vũ trụ tuyệt đối tối cao Brahman trong Upanishad, biện hộ cho giáo lý của
Bàlamôn, bảo vệ cho chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội, bao gồm 6 trường phái chính là:
Samkhya, Nyaya, Vaisesika, Mimamsa, Yoga và Vêđanta.
 Phái triết học không chính thống, phủ nhận uy thế tối cao của kinh Veda và Upanishad,
phê phán giáo lý của đạo Bàlamôn, đả phá chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội, gồm 3
trường phái chính là: Các trường phái triết học vô thần, duy vật trong phong trào mới đòi

4
tự do tư tưởng ở Đông Ấn và trường phái triết học duy vật tiêu biểu Lokayata hay chủ
nghĩa duy vật khoái lạc Charvaka; Phật giáo và Đạo Jaina.
1.3 Các đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại
Thứ nhất, do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Veda mà triết học Ấn Độ cổ đại không
thể phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện chứng và
phép siêu hình (như triết học phương Tây), mà chủ yếu được chia thành hệ thống chính
thống và hệ thống không chính thống. Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có sự
đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu
hình với nhau.
Thứ hai, do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng tôn giáo mà triết học Ấn Độ
cổ đại thường là là loại hình Triết học tôn giáo. Tuy nhiên, tôn giáo của Ấn Độ có xu
hướng “hướng nội” đi sâu tìm hiểu đời sống tâm linh, tinh thần đê phát hiện ra sức mạnh
của linh hồn cá nhân con người; vì vậy, triết học Ấn Độ cổ - trung đại mang nặng tính
chất duy tâm chủ quan và thần bí.
Thứ ba, triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra nhiều vấn đề, song nó rất quan tâm đến
việc giải quyết các vấn đề thuộc về lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa của đời sống,
nguồn gốc nỗi khổ của con người) nhằm tìm kiếm phương tiện, con đường, cách thức giải
thoát chúng sinh ra khỏi điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khắc nghiệt.
Thứ tư, các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học trước
đó.
5
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ VÊĐANTA
2.1 Khái quát về Triết học Phật giáo
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI
trước công nguyên, ở miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn
Độ và Nêpan bây giờ. Ra đời trong làn sóng phản đối chế độ ngự trị của Bà La Môn và
chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội khắc nghiệt, đạo Phật với triết lý đạo đức nhân sinh sâu
sắc đã trở thành một trong những ngọn cờ tiên phong của phong trào tự do tư tưởng và

bình đẳng xã hội ở Ấn Độ đương thời.
Người sáng lập Phật giáo là Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) tức thái tử Tất
Đạt Đa (Siddhartha Gautama) (563-483 TCN) , con đầu vua Tịnh Phạn, thuộc bộ tộc
Sakiya. “Phật” theo tiếng Phạn gọi là Boudda, tiếng Hán- Việt phiên âm là “Phật”, có
nghĩa là Đấng giác ngộ và giác ngộ người khác.
Sau Sakyamuni một vài thế kỷ, Phật giáo được phân chia thành tông phái lớn là
tiểu thừa giáo và đại thừa giáo (nghĩa là “cỗ xe nhỏ” và “cỗ xe lớn”). Tiểu thừa giáo phát
triển về phía Nam ấn Độ rồi truyền bá sang Xêrilanca, Philippin, Lào, Campuchia, Nam
Việt Nam…Đại thừa giáo phát triển mạnh ở Bắc ấn Độ, truyền bá vào Tây tạng, Trung
Hoa, Nhật bản, Bắc Việt Nam…
Tư tưởng phg ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó được viết thành sách. Kinh điển
của Phật giáo gồm: Kinh – Luật – Luận (gọi là “Tam tạng” – tức “ba kho kinh điển”). Về
mặt triết học thì quan trọng nhất là “kinh” và “luận”. “Tam tạng” kinh điển của Phật giáo
được ghi bằng hai hệ Pali và Sankrit (Ngữ bộ Nam và Bắc ấn) có tới trên 5000 quyển.
2.1.2 Những tư tưởng triết học cơ bản
Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thuỷ gồm những vấn đề cơ
bản sau:
Thứ nhất: Thế giới quan của Phật giáo: được phản ánh trong thuyết duyên khởi
và được làm sáng tỏ qua phạm trù: vô ngã và vô thường.
6
- Duyên khởi: là nói tắt câu “chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có nghĩa là các pháp đều
do nhân duyên mà có. Pháp là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả
giáo lý. Còn nhân duyên là nguyên nhân và điều kiện. Duyên giúp cho nhân biến thành
quả. Phật giáo cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do nhân duyên hòa hợp mà thành,
Duyên khởi từ tâm mà ra. Tâm là cội nguồn của vạn vật. Từ đây, Phật giáo nguyên thủy
chủ trương vô tạo giả tức không có vị thần linh tối cao nào tạo ra thế giới. Quan niệm vô
tạo giả gắn liền với quan niệm vô ngã, vô thường.[32,2]
- Vô ngã: vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự giả hợp do sự hội đủ nhân duyên nên thành ra có
(tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con người chẳng qua cũng là do ngũ uẩn
(năm yếu tố) hội tụ lại: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và

thức (ý thức)” [29,2]. Nói một cách tổng quát thì vạn vật chỉ là sự hội hợp của hai loại
yếu tố là vật chất “sắc” (đất, nước, gió, lửa) và tinh thần “danh” (thụ, tưởng, hành, thức).
Như vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).
- Vô thường: nghĩa là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị –
Diệt. Cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp - tan, tan - hợp mà không có nguyên nhân đầu
tiên và kết quả cuối cùng.
Như vậy, thế giới quan Phật giáo mang tính vô thần, nhị nguyên luận ngả về phía duy
tâm chủ quan đồng thời có chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng chất phác.
Thứ hai: Nhân sinh quan Phật giáo
Nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thuỷ thể hiện trong nhân sinh quan
qua thuyết luân hồi, nghiệp báo và triết lý tứ diệu đế.
- Thuyết luân hồi: Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của
Upanisa.Theo Phật giáo, sự sinh tử của con người là sự hợp tan của ngũ uẩn:
sắc, thụ, tửơng, hành và thức. Con người sau khi chết có thể đầu thai trở lại
một trong 6 kiếp phàm là nhân, tiên, súc sinh, địa ngục, Atula và quỷ. Quá
trình cứ thế như chiếc bánh xe (luân) quay tròn(hồi) không dứt. Đó là luân
hồi (samara).
- Nghiệp báo: Trong tư tưởng Phật giáo, nghiệp là cái do hành động của ta
gây ra, có 3 loại: thân nghiệp (hậu quả do hoạt động thân thề gây ra), khẩu
nghiệp (hậu quả do lời nói gây ra) và ý nghiệp (hậu quả do suy nghĩ gây ra).
7
Vạn vật bị chi phối theo luật nhân quả, mỗi con người mất đi ở thế giới này,
nơi này để sinh ra ở thế giới khác, nơi khác nên con người bị sự chi phối của
nghiệp kiếp này và nghiệp kiếp trước. Nếu có nghiệp tốt thì tạo điều tốt cho
đời sau tái sinh. Nếu làm điều ác tạo nghiệp xấu thì phải gánh chịu điều xấu
cho đời sau.
- Thuyết Tứ diệu đế: Phật giáo quan niệm rằng “đời là bể khổ”. Phật giáo đa
đưa ra thuyết Tứ diệu đế để giải thoát chúng sinh khỏi mọi nỗi khổ, kiếp
nghiệp báo luân hồi, gồm khổ đế, nhân đế, diệt đế, đạo đế. Bốn luận điểm
này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống nhân sinh cho bất

cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào.
+ Khổ đế (duhka-satya): triết lý về nỗi khổ của con người. Phật giáo cho rằng
đời nguời là bể khổ. Phương pháp nhận thức của Phật là thực tiễn. Tất cả những
nỗi khổ của con người là thực tế ai cũng có thể cảm nhận, có tám nỗi khổ chủ
yếu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Ai biệt ly (yêu thương mà phải chia ly), Oán tăng hội
(oán ghét nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà
không đạt được), và Ngũ thụ uẩn (sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn- sắc, thụ,
tưởng, hành, thức).
+ Nhân đế hay tập đế (samudayya-satya): triết lý về nguyên nhân của nỗi khổ.
Phật giáo cho rằng ba nguyên nhân cơ bản của sự khổ là tam độc (tham, sân, si).
Ngoài ra, Phật giáo còn đưa ra thuyết “thập nhị nhân duyên” - đó là 12 nguyên
nhân dẫn đến đau khổ của con người: vô minh, hành, thức, danh- sắc, lục, nhập,
xúc, thụ ,ái, thủ, hữu, sinh, lão- tử. Trong 12 nguyên nhân ấy thì vô minh (không
sáng suốt, không nhận thức được sự vật, không hiểu biết) là nguyên nhân thâu
tóm tất cả. Vì vậy diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc nỗi khổ.
+ Diệt đế (nirodha-satya): triết lý về sự tiêu diệt nỗi khổ bằng cách diệt trừ
nguyên nhân sinh ra nó mà thực chất là diệt trừ vô minh và các bản tính tham,
sân, si để đạt tới niết bàn. Đó là sự giải thoát cuối cùng khỏi mọi phiền não, chấm
dứt được luân hồi. “Niết bàn là trạng thái tinh thần an lạc tuyệt đối khi ánh sáng
rạng rỡ của trí tuệ hiền minh xua tan bóng tối vô minh, ngọn lửa tham, sân si bị
tịch diệt và không còn thiêu cháy con người và thế giới nữa. Niết bàn là an lạc, là
8
hạnh phúc tối thượng”. Như vậy niết bàn không phải là một thế giới khác riêng
biệt mà ở ngay thế giới hiện thực. Người đắc đạo vẫn có thể đang sống, ví dụ như
Đức Phật
+ Đạo đế (marga-satya): triết lý về con đường tiêu diệt nỗi khổ. Nội dung cơ bản
của nó được thể hiện trong thuyết Bát chính đạo (tám con đường đúng đắn) đưa
chúng sinh đến niết bàn. Đó là: chính kiến (hiểu biết đúng đắn nhất về tứ diệu
đế), chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (giữ lời nói chân chính, trung thực),
chính nghiệp (hành động đúng, sống trong sạch không trái đạo lý), chính mệnh

(sống một cách chân chính), chính tinh tiến (rèn luyện tu lập không mệt mỏi),
chính niệm (ghi nhớ điều hay lẽ phải), chính định (tập trung tư tưởng vào một
điều chính đáng). Về thực chất, thực hành Bát chính đạo là tiêu diệt tam độc
bằng cách thự hiện tam học: Giới - Định – Tuệ (tức là: giữ giới luật, thực hành
thiền định và khai sáng trí tuệ).Theo Bát chính đạo, con người có thể diệt trừ vô
minh, giải thoát, nhập vào cõi niết bàn - Nirvana. Niết Bàn là trạng thái yên tĩnh,
sáng suốt, chấm dứt sinh tử, luân hồi. Như vậy Phật giaó có tư tưởng biện chứng,
mang tính duy tâm chủ quan.
Trên đây là hai vấn đề cơ bản của triết học Phật giáo nguyên thuỷ. Sự phát triển về
sau của Phật giáo đã chia thành các tông phái khác nhau và đã có những phát trên rất
khác nhau về các quan điểm triết học.
2.2. Khái quát về triết học Vêđanta
2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển
Chữ “anta” trong tiếng Phạn có nghĩa là “kết cuộc”, “kết luận”. Nó cũng có nghĩa
là mục đích. Vêđanta nghĩa đen là sự hoàn thiện kinh Veda.
Trường phái triết học Vêđanta hình thành vào khoảng thế kỷ IV đến thế kỷ III
trước Công nguyên qua hình thức chú giải, tường thuật Veda và Upanishad của
Badayarana trong bộ kinh Brahman-sutras nổi tiếng gồm 555 cách ngôn. Sau đó
Gaudapada (thế kỷ VII) chú giải các sutra đó, dạy phần bí truyền, tức phần triết lý siêu
hình của học thuyết đó cho Govinda, Govinda lại dạy cho Sankara. Sau cùng, Sankara đã
9
soạn ra bộ chú giải nổi tiếng, có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ, đó là
bộ Vêđanta, và ông trở thành một trong những nhà triết gia lớn nhất Ấn Độ.[129,1]
2.2.2 Những tư tưởng triết học cơ bản
Một là, thừa nhận sự tồn tại của Bratman – linh hồn vũ trụ là thực tại tinh thần tối
cao, là bản chất, là nguồn sống vĩnh hằng, là cội nguồn chi phối mọi sự sinh thành và hủy
diệt của mọi cái trong thế giới. Theo The Upanishads, Brahman là thực thể duy nhất,
tuyệt đối, vĩnh viễn, bất diệt, “vô hình không thể nắm bắt, không thể lấy gì tỉ nghĩ, không
màu sắc, không mắt, không tai, không tay, không chân, những hằng hữu không có gì
không thấu, ở khắp cả và không thể đụng chạm, không có cái gì không có nó ”,

“Brahman là nguồn sáng của mọi nguồn sáng”. Như vậy, không thể dùng lý trí để biết
Brahman, chỉ có thể tri giác Brahman bằng tận hiến và trầm tư mặc tưởng.
Hai là, coi Atman – linh hồn cá nhân – là hiện thân của bratman nơi thể xác trần
tục của con người và bị vây hãm, ràng buộc bởi những ham muốn nhục dục của thể xác.
Những hành động của con người nhằm thỏa mãn ý chí dục vọng của mình đã gây nên
nghiệp báo, luân hồi, làm cho linh hồn con người, vốn bản lai thanh tịnh trở nên lu mờ,
ám muội, phải lặn lội trội dạt trong thế giới phù du, đều thai hết kiếp này sang kiếp khác,
hết thân xác này đến thân xác khác. Để giải thoát Atman khỏi sự vây hãm ràng buộc này,
con người (Atman) phải dốc lòng tu luyện, suy tư, chiêm nghiệm tâm linh để nhận ra bản
tính thần thánh của mình mà quay về với Bratman.
Ba là, coi thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh do vô minh của con người mang lại. thế
giới vật chất chỉ là biểu hiện kinh nghiệm, là ảo ảnh của thực tại tối cao brahman; nó
không thực, nhưng ý thức thông thường lại cho nó là thực, vì vậy mà phụ thuộc vào nó.
10
CHƯƠNG 3: SO SÁNH TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC VÊĐANTA
3.1 Thế giới quan
Trong quan điểm về thế giới, Vêđanta thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu
nhiên sáng tạo và chi phối vũ trụ vạn vật đó là Linh hồn vũ trụ tối cao (Brahman). Linh
hồn cá biệt (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của Brahman. Cơ thể con người
chỉ là vỏ bọc của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh hồn, là hiện thân của Tinh thần vũ trụ
tối cao tuyệt đối, bất tử Brahman. Vì toàn bộ vũ trụ là Brahman nên về bản chất linh hồn
cá nhân là đồng nhất với Linh hồn tối cao
Trái với Vêđanta , Phật giáo phủ nhận tư tưởng về đấng sáng tạo Brahman, cũng
như phủ nhận"Cái tôi" (Atman) và đưa ra quan niệm vô ngã (Anatman) và vô thường.
Phật giáo cho rằng thế giới về bản chất chỉ là một dòng biến ảo vô thường, không vị thần
nào sáng tạo ra. Trong tg, vạn vật và con người được cấu tạo từ các yếu tố sắc và danh
mà không có đại ngã hay tiểu ngã gì cả. Do vậy trong tg không thực có vật, không thực
có cái ngã, không có thực thể nào tồn tại thường định và vĩnh viễn.(131, doan) Theo triết
lý của Phật giáo, sở dĩ vũ trụ vạn vật biến hóa vô thường chính là do vạn vật trong vũ trụ
chịu sự chi phối của luật nhân quả, đó không phải là vật này (Brahman) sinh ra vật kia

(vạn vật) mà là vật này làm nhân duyên sinh khởi vật kia
Từ phân tích trên ta thấy thế giới quan Vêđanta mang tính duy tâm, hữu thần, nhất
nguyên trong khi Phật giáo mang tính duy tâm, vô thần, nhị nguyên. Trong thế giới quan
của Phật giáo đã có những yếu tố duy vật và biện chứng chất phác
3.2 Nhân sinh quan
Phật giáo và Vêđanta đều lấy con người làm trung tâm để khảo sát mặc dù Vêđanta vẫn
cho rằng con người là một phần thuộc về cái tuyệt đối. Bên cạnh đo , cả hai đều tập trung
lí giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn giáo nhằm đạt
tới sự giải thoát.
11
3.2.1 Quan niệm về nghiệp báo và luân hồi
Vêđanta và Phật giáo đều chấp nhận quy luật nhân duyên nghiệp báo chi phối
cuộc sống con người.
Vêđanta cho rằng vì Atman "linh hồn" tồn tại trong thể xác con người trần tục nên
ý thức con người lầm tưởng rằng "linh hồn" đó khác với "linh hồn vũ trụ" bất tử. Những
cảm giác, ham muốn dục vọng và hành động của con người nhằm thỏa mãn những ham
muốn đó trong đời sống trần tục đã gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả
kiếp sau, gọi là "nghiệp báo" (Karma). Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết
thể xác này đến thể xác khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh,
gọi là sự "luân hồi" (Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản
của mình là Brahman được.
Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp báo của Vêđanta. Tuy nhiên, Phật
giáo không thừa nhận có linh hồn bất tử. Luân hồi ở đây không phải là sự đầu thai của
linh hồn mà là sự kết tập mới của ngũ uẩn (sắc, thụ, tửơng, hành và thức) qua nghiệp
lực. Nghiệp lực là kết quả tổng hợp các nghiệp của đời người. Nó di truyền vào ngũ
uẩn, dẫn dắt con người vào luân hồi, mắc vào bể khổ trầm luân.
3.2.2 Quan niệm về giải thoát
Vêđanta cho rằng giải thoát (moksa) chính là dứt bỏ mọi sự ràng buộc của thể
xác và nhục dục đối với linh hồn, đưa linh hồn bất tử mới đồng nhất với Linh hồn vũ trụ
tối cao Brahman, hoà nhập tiểu ngã vào với đại ngã.

Khái niệm giải thoát được Phật giáo thể hiện trong khái niệm niết bàn. Niết bàn
có thể được hiểu là sự chấm dứt ái dục hay lìa bỏ ái dục, ám chỉ lửa phiền não đã được
dập tắt, đạt được trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ
của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống hoặc khi đã chết. Phật
giáo cho rằng khi con người làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và si mê
thì đã đến được bến giác,tức là cảnh giới niết bàn. Niết bàn không ở cõi nào khác mà ở
ngay trong cõi đời hiện tại, ở chính tâm mình, nhờ sự nỗ lực tu luyện nghiêm túc. Do
đó, niết bàn không phải là hư vô, niết bàn có thể thấu triệt được bằng nhãn quan tinh
12
thần, như một trạng thái tinh thần, đạo đức do sự từ bỏ mọi luyến ái bên trong đối với
thế gian bên ngoài. Và như thế niết bàn là trạng thái không dùng ngôn từ và tư duy để
định nghĩa mà phải bằng sự chứng ngộ trực giác.
Như vậy, tuy có những điểm tương đồng trong quan niệm về giải thoát nhưng
Phật giáo đã chống lại quam điểm về sự bất tử của linh hồn và sự siêu thoát của con
người “sang thế giới bên kia” nào đó của Vêđanta.
3.2.3 Quan niệm về con đường giải thoát
Tư tưởng Phật giáo và Vêđanta đều cho rằng cuộc đời là đau khổ và không thể
giải thoát bằng cách lễ bái, tích lũy khổ hạnh hay tin tưởng vào sự cứu rỗi của đấng tối
cao. Cả hai đều lấy sự phát triển trí tuệ làm cơ sở để diệt trừ vô minh ái dục, là những
nguyên nhân đưa con người vào vòng sinh tử luân hồi.
Theo trường phái Vêđanta, Brahman là sự thật duy nhất, vạn vật hữu hình chỉ là
ảo ảnh, con người tâm thức là Atman cũng là Brahman. Con người giải thoát bằng cách
hiểu ra (giác ngộ) tâm mình chính là Brahman (giải thoát bằng tri thức, jnana). Khi đó tự
nhiên con người sẽ thoát khỏi mọi đau khổ do vô minh mang lại khi cứ bám vào thể xác
và cõi vạn vật ảo huyền. Do đó, con đường dẫn tới sự giải thoát cuối cùng là chỉ thông
qua kiến thức (jñāna).
Theo Phật giáo, phương pháp để giải thoát đó là thực hành tam học (Giới – Định
– Tuệ).
+ Giới: thực hiện ngũ giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không
uống rượu, không nối dối). Thực hiện ngũ giới sẽ tiêu diệt được tham.

+ Định: giữ trạng thái yên tĩnh tuyệt đối, hoàn toàn tách rời thế giới hữu hình, đạt
tới trạng thái hoàn toàn không. Thực hiện định sẽ diệt được sân.
+ Tuệ: đạt tới sự trong sáng tuyệt vời, không mê muội, không tham, sân. Thực
hiện được tuệ sẽ tiêu diệt được si.
Ở đây có sự tương đồng rất lớn về phương pháp giải thoát giữa Phật giáo và
Vêđanta.
13
3.3.3 Những giá trị đối với xã hội
Vêđanta một trong những phái triết học được xem thuộc hệ thống của Bà la môn
giáo do đó nó cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi những đặc điểm của tôn giáo này. Trong xã
hội thời kỳ Bà La Môn Giáo, không phải người nào cũng có quyền được mong cầu một
cuộc sống hạnh phúc trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần, chỉ có những tầng lớp
thượng lưu, những người của đẳng cấp trên. Bà La Môn sở dĩ được coi là giai cấp tối cao,
bởi vì họ là người độc quyền về tri thức
Sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội của triết học Phật giáo so với Vêđanta nói
riêng và các trường phái triết học đường thời nói chung:
- Phật giáo với triết lý đạo đức nhân sinh sâu sắc đã làm một cuộc cách mạng xóa bỏ tư
tưởng giai cấp ở Ấn Độ đương thời. Đạo Phật là tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp
khắc nghiệt, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội, nêu
lên ước nguyện giải thoát con người khỏi nỗi bi kịch cuộc đời.
- Phật giáo giáo dục con người sống có đạo đức từ bi bác ái, tạo nên một nền đạo đức xã
hội tốt đẹp. Đây là tiền đề để xây dựng một xã hội văn minh, hòa bình và hạnh phúc
- Phật giáo chân thực, gần gũi, đem lại cho con người sự an lạc trong tâm hồn và phù hợp
với mọi tầng lớp trong xã hội. Những bài giảng của đức Phật được trình bày một cách rõ
ràng, chi tiết và có hệ thống dễ đi sâu vào lòng người. Khi bàn về con đường giải thoát,
tính quần chúng trong nhân sinh quan Phật giáo được thể hiện qua tinh thần “bình đẳng
giác ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi “chúng sinh”. Điều này
mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp khắc nghiệt vốn là một truyền
thống chính trị trong Ấn Độ thời cổ đại, và nói lên khát vọng “tự do cho tất cả mọi
người”, không thể là độc quyền của một giai cấp.

Tóm lại, qua những phân tích trên đã cho thấy Phật giáo và học thuyết Vêđanta là
hai trào lưu triết học- tôn giáo giống nhau ở mục đích, đó là đem đến sự giải thoát cho
con người khỏi mọi khổ đau ràng buộc, nhưng để đạt được mục đích đó thì mỗi trào lưu
dựa trên tư tưởng và giải pháp luận của riêng mình để giải thích về thế giới quan và nhân
sinh quan.
KẾT LUẬN
14
Ấn độ là một trong những cái nôi của nền đạo cho cho nhân loại. Chính nơi đây đã
sản sinh ra nhiều trường phái, tôn giáo lớn trên thế giới. Trong ấy tiêu biểu và nổi bật
nhất là Vedanta và Phật giáo, hai trường phái đại diện cho hai hệ tư tưởng đối lập nhau
trong xã hội Ấn Độ cổ đại.
Khi nói đến Vêđannta, thì chúng ta liền nghĩ ngay đến các bộ kinh lớn như Veda,
Upanishad. Nói đến Phật giáo, chung ta không thể không nghĩ đến luật nhân quả và
thuyết tứ diệu đế. Đây là những bộ kinh chứa đựng nhiều tư tưởng đặc sắc về nhân sinh
quan cũng như vũ trụ quan của người Ấn độ.
Vêđanta và Phật giáo ra đời trong bối cảnh xã hội Ấn độ cổ đại nên có những điểm
tương đồng như đều tập trung giải quyết vấn đề nhân sinh, tìm ra con đường giải thoát
cho con người, cho rằng nghiệp lực chi phối con người. Tuy nhiên hai trường phái này có
nhiều quan điểm, tư tưởng khác nhau; cụ thể là quan niệm về thế giới quan, giá trị con
người, linh hồn, tư tưởng giải thoát trình bày ở phần nội dung.
Trong hơn hai mươi thế kỷ qua, những tư tưởng triết lý của Phật giáo và Vedenta
giáo không những hóa thân vào các phong tục, tập quán truyền thống văn hóa của Ấn độ
nói riêng mà còn ảnh hưởng sâu đậm đến nhận thức, hành động của nhân loại nói
chung. Mặc dù Phật giáo ra đời cách đây hơn mấy nghìn năm, trải qua biết bao thăng
trầm lịch sử nhưng nó vẫn luôn mang tính thực tiễn cao và có thể đương đầu với mọi
vấn đề của xã hội hiện đại; Như nhà vật lý học nổi tiếng người Đức Albert Einstein
(1879-1955) đã nói về Phật giáo : “Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu
của khoa học hiện đại thì đó là Phật Giáo hay tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo toàn
cầu vượt lên mọi thần linh giáo điều và thần học”.
Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều của triết học Phật giáo. Đương đầu với

nhiều tệ nạn xã hội hiện nay, nếu con người thực hiện theo giáo lý Phật giáo sống có
đạo đức, từ bi, bác ái thì chắc chắn chúng ta sẽ xây dựng nên một xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh thật sư.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương về lịch sử Triết học – Đại học Kinh tế TP HCM - TS.Bùi Văn Mưa – 2011.
2. Giáo trình triết học Mác-Lênin- Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội- 2007
3. Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ Đaị- NXB: Chính Trị Quốc Gia – Sự
Thật, Nguyễn Doãn Chính-2010
4. Veda Upanishad - Những Bộ Kinh Triết Lý Tôn Giáo Cổ Ấn Độ, NXB: Chính Trị
Quốc Gia – Sự Thật, Nguyễn Doãn Chính - 2011
5. Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam Bộ- Đỗ Quang Hưng
6. www.thuvienhoasen.org
7. www.quangduc.com
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
16
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜI CỔ ĐẠI 2 1.1.
Điều kiện ra đời Triết học Ấn Độ cổ đại 2
1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Ấn Độ cổ đại 3
1.3 Các đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại 4
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ VÊĐANTA 5
2.1 Khái quát về Triết học Phật giáo 5
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển 5
2.1.2 Những tư tưởng triết học cơ bản 6
2.2. Khái quát về triết học Vêđanta 8
2.2.1 Quá trình hình thành và phát triển 8
2.2.2 Những tư tưởng triết học cơ bản 9
CHƯƠNG 3: SO SÁNH TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC VÊĐANTA 3.1
Thế giới quan 10

3.2 Nhân sinh quan 10
3.2.1 Quan niệm về nghiệp báo và luân hồi 11
3.2.2 Quan niệm về giải thoát 11
3.2.3 Quan niệm về con đường giải thoát 12
Những giá trị đối với xã hội
3.3 Những giá trị đối với xã hội 13
KẾT LUẬN 14
17

×