Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Đề tài SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC VÊĐANTA Ở ẤN ĐỘ THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.84 KB, 20 trang )

Trường Đại Học Kinh Tế TP.Hồ Chí Minh
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ TRIẾT HỌC
VÊĐANTA Ở ẤN ĐỘ THỜI CỔ ĐẠI
Học viên thực hiện: Lâm Thúy Nhi
STT: 50 – Nhóm 5
Lớp: Ngày 4 – Khóa: 22
Viện Đào tạo Sau Đại học
TPHCM, tháng 12/2012
19
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa
Lời mở đầu
Nền đạo học phương đông đã dâng tặng cho nhân loại một kho tàng tri thức vô
tận về vũ trụ và nhân sinh. Trong mấy ngàn năm qua, nền đạo học này đã và đang
cống hiến cho nhân loại nhiều bài học vô giá về đạo đức, về triết lý nhân sinh…. và nó
như suối nguồn tuôn chảy bất tận vào hàng triệu triệu trái tim con người trên khắp thế
giới. Nói đến phương đông không thể không nhắc đến Ấn Độ. Ấn Độ là một trong
những cái nôi của nền triết học phương đông. Và cũng chính nơi đây đã khai sinh ra
nhiều trường phái triết học và tôn giáo lớn trên thế giới “một tiểu vũ trụ của các tôn
giáo và các nền triết học” Có một điều chúng ta không thể phủ nhận là triết học
Vedanta và triết học Phật giáo đều ra đời tại Ấn độ nhưng về tư tưởng cũng như về
giáo pháp có nhiều điểm khác biệt.
Có thể thấy rằng Đức Phật, giáo chủ khai sáng Đạo Phật, là một người được
giáo dục trong môi trường của Veda. Từ khi sinh ra, lớn lên và thậm chí cả khi đi xuất
gia tu hành, ngài cũng trang bị cho bản thân bằng những kinh nghiệm đã được hấp thu
từ nền giáo dục của truyền thống Veda. Sự tham cầu học và đạt được những kết quả
tối cao trong phương pháp của hai đạo sĩ A-la-la và Uất-đầu-ca, sự tìm cầu giải thoát
bằng đường hướng khổ hạnh , đã cho thấy rõ điều đó. Hơn nữa, cùng bắt nguồn trên
mảnh đất của triết lý, lẽ tất nhiên Phật giáo và Bà-la-môn giáo không thể nào không có
những mối quan hệ nhất định được.


Do vậy, để làm rõ mối tương quan này thì cần thiết so sánh những điểm tương
đồng và dị biệt của hai khối tư tưởng triết lý và đạo học đã được coi là chủ yếu nhất
của Ấn Độ.
19
Chương 1: Khái quát về triết học Ấn Độ thời cổ đại
1.1 Bối cảnh Ấn Độ thời cổ đại
Ấn Độ cổ - trung đại là một đất nước rộng lớn thuộc báo đảo Nam Á có điều
kiện tự nhiên và cư dân rất đa dạng. Từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn ngang,
trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. Ấn Độ chia làm hai miền Nam Bắc lấy dãy núi
Vinđya làm ranh giới. Miền bắc Ấn Độ có hai con sông lớn là sông Ấn và sông Hằng.
Cả hai dòng sông này bồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền bắc Ấn Độ, vì vậy
nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh của đất nước này. Do đó, yếu tố địa lý
có ảnh hưởng nhất định tới quá trình hình thành văn hoá, tôn giáo và tư tưởng triết học
của người Ấn Độ cổ đại.
Tuy nhiên nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất tới là nhân tố kinh tế – xã hội, trong
đó đặc biệt là sự tồn tại từ rất sớm và kéo dài của kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình
đặc biệt gọi là “Công xã nông thôn”. Trong kết cấu này, chế độ quốc hữu ruộng đất
được là “chiếc chìa khoá” để hiểu toàn bộ lịch sử Ấn Độ cổ đại. Chính trong mô hình
này đã làm phát sinh chủ yếu không phải là sự phân chia đối kháng giai cấp giữa chủ
nô và nô lệ như ở Hy Lạp cổ đại, mà là sự phân biệt hết sức khắc nghiệt của bốn đẳng
cấp lớn trong xã hội: Tăng nữ, quí tộc, bình dân tự do và tiện nô.
Thêm vào đó người Ấn Độ cổ đại đã tích luỹ được những tri thức rất phong phú
về các lĩnh vực toán học thiên văn, lịch pháp nông nghiệp… Tất cả những yếu tố tự
nhiên, kinh tế, chính trị và tri thức nói trên đã hợp thành cơ sở hiện thực cho sự phát
triển những tư tưởng triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại.
1.2 Triết học Ấn Độ cổ đại
1.2.1 Đặc điểm triết học Ấn Độ cổ đại
Thứ nhất, do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại
không thể phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép biện
chứng và phép siêu hình (như triết học phương Tây), mà chủ yếu được chia thành hệ

19
thống chính thống và hệ thống không chính thống. Trong các trường phái tiết học cụ
thể luôn có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện
chứng và phép siêu hình với nhau.
Thứ hai, do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các tư tưởng tôn giáo mà triết học Ấn
Độ cổ đại thường là một bộ phận lý luận quan trọng tạo nên nội dung giáo lý của các
tôn giáo lớn. Tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội” đi sâu tìm hiểu đời sống
tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn cá nhân con người; vì vậy,
triết học Ấn Độ cổ - trung đại mang nặng tính chất duy tâm chủ quan và thần bí.
Thứ ba, triết học Ấn Độ cổ đại rất quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề
thuộc về lĩnh vực nhân sinh (bản chất, ý nghĩa của đời sống, nguồn gốc nỗi khổ của
con người) nhằm tìm kiếm phương tiện, con đường, cách thức giải thoát chúng sinh ra
khỏi điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội khắc nghiệt.
1.2.2 Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại:
Dưới sự tác động, chi phối, thống trị của triết lý Veda, Upanishad, và giáo lý
đạo Bàlamôn được mệnh danh là tư tưởng truyền thống chính thống, chính người Ấn
Độ đã phân các hệ thống triết học của họ thành hai loại lớn: Các hệ thống chính thống,
và hệ thống không chính thống.
Các trường phái triết học được gọi là hệ thống Bàlamôn chính thống – tức các
darshanas – là các trào lưu bằng cách này hay cách khác đều thừa nhận ưu thế mặc
phải tối cao của kinh Veda và triết lý về Tinh thần sáng tạo vũ trụ tuyệt đối tối cao
Brahman trong Upanishad, biện hộ cho giáo lý của đạo Bàlamôn, bảo vệ cho chế độ
phân biệt đẳng cấp xã hội. Hệ thống triết học chính thống gồm có 6 trường phái, gọi là
6 darshanas (quan điểm): trường phái triết học Samkhya, trường phái triết học Nyaya,
trường phái triết học Vaisesika, trường phái triết học Mimansa, trường phái triết học
Yoga và trường phái triết học Vendata.
19
Các trường phái triết học tôn giáo không chính thống có tư tưởng phủ nhận uy
thế tối cao của kinh Veda và Upanishad, phê phán giáo lý của đạo Bàlamôn, đả phá
chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội, bao gồm: Phật giáo, trường phái triết học Jaina và

các trường phái triết học duy vật vô thần trong phong trào mới về tự do tư tưởng ở
Đông Ấn, gọi là “Lục sư ngoại đạo” (Sat Tirthakarah), trong đó nổi bật nhất là trường
phái triết học Lokayata hay còn gọi là Carvaka.
Sự phân chia đó có căn cứ lịch sử, cho thấy sự rõ ảnh hưởng thống trị của chủ
nghĩa duy tâm tôn giáo trong thánh kinh Veda, Upanishad và đạo Bàlamôn trong sự
phát triển tư tuởng ở Ấn Độ cổ đại. Song một trong những đặc điểm và động cơ thật sự
của phát triển tư tuởng triết học Ấn Độ đương thời chính là cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa vô thần và tư tuởng thần bí tôn giáo. Các trường phái triết học đựơc coi là không
chính thống tuy cùng có những điểm chung, như không tin có Thượng đế, nghi ngờ và
phủ nhận quyền uy của kinh Veda, phê phấn giáo lý đạo Bàlamôn, đả kích chế độ phân
biệt đẳng cấp xã hội, nhưng giữa họ lại có sự khác biệt nhau trong cả quan điểm về thế
giới cũng như quan niệm về nhân sinh.
19
Chương 2: Khái quát về triết học Phật giáo và triết học Vedanta
2.1 Triết học Phật giáo
2.1.1 Điều kiện ra đời
Trước khi Phật ra đời, xã hội Ấn độ rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về
mọi mặt của đời sống xã hội. Thời kỳ này tầng lớp Bà La Môn được kính trọng, tôn
sùng tuyệt đối; bởi họ là những người được coi là có tri thức, có khả năng giảng dạy
đạo lý và cúng tế thần linh. Còn giai cấp Sát Đế lợi (vua chúa, tướng lĩnh….) thống trị
quốc gia, thâu tóm gần như toàn bộ đất đai. Trong khi đó, các giai cấp dưới phải lao
động vất vả, chịu mọi sự khổ cực để cung phụng cho các giai cấp trên. Chính những lý
do này khiến cho đời sống xã hội ngày càng nảy sinh mâu thuẫn sâu sắc và dẫn đến sự
phản kháng của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, đòi quyền tự do, bình đẳng.
Cũng chính vào thời điểm này ánh sáng từ bi trí tuệ của Phật giáo đã xuất hiện. “Phật
giáo xuất hiện như là sự đáp ứng nhu cầu tinh thần phản kháng xã hội; một mặt nó
phản ánh nỗi bất hạnh, đau khổ thực tế của nhân dân Ấn độ; mặt khác nó phản kháng
chế độ đẳng cấp nghiệt ngã, chống lại sự áp bức, bất bình đẳng giữa con người. Nó
công khai chống lại giáo lý truyền thống của kinh Veda và đạo Bà la môn, bác bỏ uy
quyền thần thánh, xây dựng niềm tin vào chính con người”.

2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển
Tư tuởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó được viết thành
sách, thể hiện trong một khối lượng kinh điển rất lớn. Hai thứ văn tự căn bản ghi các
sách của Phật giáo là Bắc Phạn ( Sanskrit) và Nam Phạn (Pàli), được tổ chức thành
Tam tạng : Tạng kinh, Tạng luật và Tạng luận.
Theo kinh phật người sáng lập ra Đạo phật là Xitđácta Gôtama (siddharta
Gautama), thái tử của nước Capilavastu, con vua nước Tịnh Phạn thuộc giai cấp Sát
Đế Lỵ, dòng Kiều Tất La là một đại quý tộc ở Ấn Độ, gần dưới chân dãy núi Hy Mã
Lạp Sơn (Bây giờ là nước Népal). Bà Hoàng hậu, vợ của vua Tịnh Phạn là Ma Gia.
19
Năm Ngài hai 29 tuổi sau khi đã để lại cho Tịnh Phạn vương một người cháu
nội là La Hầu La. Thái Tử quyết định rời bỏ Hoàng gia, từ bỏ cuôc đời vinh hoa phú
qúy, trốn ra khỏi hoàng thành, cắt tóc vào rừng sâu mong được yên tĩnh để tìm nghĩ
phương pháp cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng khổ ải và đưa họ lên bờ giác ngô vĩnh
viễn yên vui. Đến năm 35 tuổi Ngài đắc đạo thành Phật với danh hiệu là Phật Thích Ca
Mâu Ni.
Về niên đại của Phật, có người nói Phật sinh năm 563 TCN và mất năm 483
TCN, có người lại cho rằng Phật sinh năm 624 TCN và mất năm 544 TCN. Ngày nay,
tín đồ đạo Phật lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỳ nguyên Phật giáo.Sau đó Đạo
phật được truyền bá nhanh chống ở bắc Ân Độ.
Từ Thế kỷ IV đến Thế kỷ III TCN, đạo phật đã triệu tập 3 kỳ đại hội ở
Magadha. Sau kỳ đại hội thứ 3 thì Đạo phật mới được truyền đi các nước khác ngoài
Ấn độ và mang nặng bản sắc của các nước đó, chủ yếu là các nước trong khu vực
Đông Nam Á.
Sau đó đến khoảng năm 100 Đại hội Phật giáo được triệu tập lần thứ 4 Pasan,
người ta có đưa thêm một số giáo lý mới, gọi là phật giáo cải cách và từ đây đạo phật
được chia ra 2 phái: tiểu thừa và đại thừa. Sau đại hội lần thứ 4 thì Đạo phật đã được
truyền bá rộng rãi sang nhiều nước trên thế giới. Nhưng lúc này thì Đạo phật đã bắt
đầu suy yếu, và đến thế kỉ thứ 13, Phật giáo được xem là bị tiêu diệt tại Ấn Độ - nơi
sản sinh đạo Phật.

2.1.3 Các nét đặc trưng
Tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy được trình bày trong tạng
Kinh, chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca.
2.1.3.1. Thế giới quan: là một thế giới quan có tính duy vật và vô thần, đồng thời có chứa
đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc.
19
Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh
thành, biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần
linh hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến
của luật nhân – quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề của cuộc
sống nhân sinh như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ, yểu.
Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc
luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật.
- Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vũ trụ vốn không có tính
thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn
tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn”
(năm yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy
lý) và thức (ý thức). Theo cách phân loại khác-“lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất
nước), hoả (nhiệt năng), phong (hơi thở), không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói
một cách tổng quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật chất “sắc”
và tinh thần “danh”. Như vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).
- Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường nghĩa là vạn vật
biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt; chúng luôn bị cuốn
vào dòng biến hoá hư ảo vô cùng theo luật “nhân quả”. “Nhân” nhờ “duyên” mới sinh
ra “quả”, “quả” nhờ “duyên” mà thành “nhân” mới, “nhân” mới lại nhờ “duyên” mà
thành “quả “ mới…; cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp – tan, tan – hợp mà không có
nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.
2.1.3.2. Nhân sinh quan:
Là phần trọng tâm của triết học này. Cũng như nhiều trường phái khác của triết
học ấn Độ cổ đại, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu cứu cánh nhân sinh ở sự

“giải thoát” khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo để đạt tới trạng thái tồn tại Niết bàn. Tính
quần chúng của luận điểm nhân sinh Phật giáo thể hiện ở chỗ nêu cao tinh thần “bình
đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi người mà cao
19
hơn nữa là của mọi “chúng sinh”. Điều này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới
hạn đẳng cấp khắc nghiệt vốn là một truyền thống chính trị ấn Độ cổ đại. Nó nói lên
khát vọng “tự do cho tất cả mọi người”, không thể là độc quyền của một đẳng cấp nào,
dù đó là đẳng cấp tăng nữ hay quý tộc, bình dân hay tiện nô. Nhưng đó không phải kêu
gọi gián tiếp cho quyền bình đẳng về mặt chính trị mà là bình đẳng trong sự mưu cầu
cứu cánh giác ngộ. Có thể, đây là lời kêu gọi gián tiếp cho quyền bình đẳng xã hội của
Phật giáo, và như vậy Phật giáo thật sự là một trường phái thuộc phái “không chính
thống” của nền tư tưởng Ấn Độ cổ đại.
Nội dung triết học nhân sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là “tứ
diện đế”). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống
nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào.
- “Khổ đế”: Sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì khác ngoài sự đau khổ, ràng
buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải
gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Thụ biệt Ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng hội (oán
ghét nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt
được), và Ngũ thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ).
- “Nhân đế”: là luận điểm giải thích những nguyên nhân sự thật đau khổ nơi cuộc sống
nhân sinh. Đó là 12 nguyên nhân (thập nhị nhân duyên): vô minh, hành, thức, danh
sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh và lão - tử. Trong 12 nhân duyên ấy thì “vô
minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Bở vậy diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc rễ sự
đau khổ nhân sinh. Dưới góc độ nhận thức, vô minh là “ngu tối”, “không sáng suốt”,
“thiếu giác ngộ chân lý”.
- “Diệt đế”: Là luận điểm về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống nhân
sinh, đạt tới trạng thái Niết bàn, cứu cánh của hành động tự do. Luận điểm này cũng
bộc lộ tinh thần lạc quan tôn giáo của Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân bản của
nó muốn hướng con người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”; khát vọng chân chính của

con người tới Chân – Thiện – Mỹ.
19
- “Đạo đế”: là luận điểm về con đường thể hiện sự diệt khổ, đạt tới giải thoát. Đó không
phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường “tu đạo”. Thực chất của con
đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng
nhân sinh” của Phật giáo. Nội dung cơ bản thể hiện trong “Bát chính đạo” (tám con
đường đúng đắn) đưa chứng sinh đến niết bàn, đó là: chính kiến (hiểu biết đúng),
chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (lời nói chân thật), chính nghiệp (hành động
đúng đắn), chính mệnh (sống một cách chân chính), chính tinh tấn (thẳng tiến mục
đích đã chọn), chính niệm (ghi nhờ những điều hay lẽ phải), chính định (tập trung tư
tưởng vào một điều đúng đắn).Tám nguyên tắc (hay “bất chính đạo”) có thể thâu tóm
vào ba đIều học tập, rèn luyện lớn là: Giới - Định – Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực
hành thiền đinh và khai thông trí tuệ Bát nhã).
2.2 Triết học Vedanta
2.2.1 Điều kiện ra đời
Vedanta là học thuyết triết học tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn trong hệ thống
triết học chính thống ở Ấn Độ cổ đại. Nó ra đời từ phong trào tổng thuật, chú giải, khai
thác mặt triết lý có tính chất trừu tượng, uyên áo của kinh Veda và kinh Upanishad –
học thuyết có uy thế nhất torng lịch sử tư tưởng Ấn Độ cổ đại.
2.2.2 Quá trình hình thành và phát triển
Trường phái triết học Vedata hình thành vào khoảng thế kỷ IV đến thế kỷ III
TCN qua hình thức chú giải, tường thuật Veda và Upanishad của Badayarana trong bộ
kinh Bradman-sutras nổi tiếng gồm 555 cách ngôn. Sau đó Gaudapada (thế kỷ VII)
chú giải các sutra đó, dạy phần bí truyền, tức phần triết lý siêu hình của học thuyết đó
cho Govinda, Govinda lại dạy cho Sankara. Sau cùng Sankara đã soạn ra bộ chú giải
nổi tiếng, có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử tư tưởng Ấn Độ, đó là bộ Vedanta, và
ông đã trở thành một trong những triết gia lớn nhất Ấn Độ.
19
2.2.3 Các nét đặc trưng
Một là, bản chất sâu xa của mọi cái tồn tại, từ đó vạn vật trong vũ trụ nảy sinh

và hoà nhập về với nó khi tiêu tan, đó là Linh hồn vũ trụ tối cao Brahman. Brahman là
thực thể duy nhất, tuyệt đối, vĩnh viễn, bất diệt, “vô hình không thể nắm bắt, không thể
lấy gì tỉ nghĩ, không màu sắc, không mắt, không tai, không tay, không chân, những
hằng hữu không có gì không thấu, ở khắp cả và không thể đụng chạm, không có cái gì
không có nó…”. “Brahman là nguồn sáng của mọi nguồn sáng”, là nguồn sống, là
Linh hồn vũ trụ tối cao.
Hai là, linh hồn cá biệt (Atman) chỉ là hiện thân của Bradman trong mỗi chúng
sinh. Cho nên về bản chất Atman và Brahman là đồng nhất. Nhưng vì Atman thể hiện
trong mỗi thân xác con người với cảm giác, ý chí, dục vọng, nên con người đã lầm
tưởng rằng linh hồn cá nhân là khác với Linh hồn vũ trụ tối cao. Những hành động
của con người nhằm thoả mãn ý chí dục vọng của mình đã gây nên nghiệp báo, luân
hồi, làm cho linh hồn con người vốn bản lai thanh tịnh, trở nên lu mờ ám muội, phải
lặn lội trôi dạt trong thế giới phù du, đầu thai vào hết kiếp này sang kiếp khác, hết thân
xác này đến thân xác khác. Giải thoát chính là dứt bỏ mọi sự ràng buộc của thể xác và
nhục dục đối với linh hồn, phải dốc lòng tu luyện, suy tư, chiêm nghiệm để nhận ra
tính thần thánh của mình, đưa linh hồn bất tử trở về đồng nhất với Linh hồn vũ trụ tối
cao Brahman.
Ba là, coi thế giới vật chất là ảo ảnh vô minh của con người mang lại.
19
Chương 3: So sánh triết học Phật giáo và triết học Vedanta
3.1. Những điểm tương đồng
Căn cứ trên cái nhìn của triết học Phật giáo và Vêđanta với tư tưởng Veda vẫn
xứng đáng là nguồn cảm hứng cho sự bộc phát những tư tưởng triết học của dân tộc
Ấn Độ. Trong một giới hạn nào đó, giữa Vêđanta và Phật giáo đã tìm thấy nhau ở
những điểm chung:
3.1.1. Vấn đề trung tâm
Tư tưởng triết học, tôn giáo Ấn Độ tuy thiên sai, vạn biệt, song đều đưa đến
một điểm then chốt, đó là việc giải quyết vấn đề nhân sinh. Những nhà tư tưởng Ấn
Độ đi tìm chân lý không phải để triết lý về những điều trừu tượng viển vông và khô
khan mà đều tập trung vào một mục đích tối cao là “tìm ra chỗ quy hướng của kiếp

người, tìm lấy một phương châm thực tiễn để quyết định cho lẽ sống” và đạo sống của
con người. Chính ở đặc điểm này tính chất nhân bản của triết học Ấn Độ đã tỏa sáng
và luôn luôn là những bài học, những câu hỏi sống động, hấp dẫn làm day dứt bao con
tim và khối óc con người trên trái đất này.
3.1.2. Thế giới quan và nhân sinh quan
Hai trường phái triết học này đều cố gắng đi tìm cái chân bản của con người mà
về bản chất là đồng nhất với bản thể của vũ trụ hay nguồn sống của vũ trụ vĩnh hằng,
hay tìm ra cái vũ trụ tuyệt đối, sáng suốt, thanh tịnh trong cái ta giả, cái ta hiện tượng
đầy hư vọng và tham dục của con người. Có thể nói, những vấn đề về bản chất đời
sống tinh thần, tâm linh, đạo đức, tâm lý của nhân sinh là những vấn đề cốt lõi nhất
của triết học, tôn giáo Ấn Độ. Để tìm ra đạo sống của con người và để tinh thần con
người vượt qua được sự mê hoặc của thế giới hiện tượng giả tưởng, ảo vọng khát khao
vươn tới bản thể tuyệt đối tối cao, vĩnh viễn, là nguồn sống của vũ trụ, vạch ra sự
tương ứng tương đồng giữa nội tâm và ngoại giới, giữa cái “tiểu ngã” và cái “đại ngã”,
19
triết học Ấn Độ tất yếu phải lý giải về tất yếu của vũ trụ, và đằng sau thế giới hiện
tượng thiên hình, vạn trạng, luôn biến đổi như ảo ảnh phù du là một thực tại chân thực
có tính chất tuyệt đối và vĩnh viễn. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới, kể cả con
người chỉ là những biểu hiện khác nhau của một cái duy nhất, tuyệt đối, tối cao, được
gọi là “Tinh thần vũ trụ tối cao” – Bratman của phái Vedanta hay đó là Niết bàn của
phái Phật giáo.
3.1.3. Quan niệm yếm thế và giải thoát
Do ảnh hưởng của thuyết luân hồi mà xưa kia người ta cho rằng cõi trời là một
nơi sung sướng cao tột, song cuối cùng họ lại bảo đó không phải là một chỗ vĩnh viễn
yên vui. Từ sau thời kỳ các học phái mọc lên, trong tư tưởng giới Ấn Độ đều có
khuynh hướng yếm thế. Nhưng nói cho đúng, khuynh hướng yếm thế không nhất định
là do quan niệm luân hồi phát sinh. Dù sao chăng nữa thì quan niệm luân hồi cũng đã
làm khuynh hướng yếm thế biểu hiện một cách rõ rệt. Đó là một sự thật lịch sử hiển
nhiên, và kết quả của khuynh hướng ấy đã khiến cho toàn thể tư tưởng giới Ấn Độ đi
tìm sự giải thoát, nghĩa là muốn thoát khỏi cái kiếp người đầy lo âu để đến một cảnh

giới lý tưởng yên vui, bất biến. Cho nên nói giải quyết vấn đề nhân sinh, bất luận theo
ý nghĩa nào, đều lấy sự giải thoát làm mục tiêu. Tư tưởng giải thoát đã trở thành một
trong những đặc điểm nổi bật và xuyên suốt của triết học, tôn giáo Ấn Độ. Hai giáo
phái triết học này đều đi đến một mục đích chung, một lý tưởng cao cả nhất đó là giải
thoát.
3.1.4. Nguyên lý cơ bản
Vấn đề nghiệp lực được coi là nguyên lý cơ bản của hai trường phái này, đồng
thời cũng là của tất cả các trường phái triết học, tôn giáo Ấn Độ. Nghiệp là những
hành vy thiện hay ác, do “thân nghiệp, “khẩu nghiệp” mà con người đã tạo tác ở kiếp
trước rồi chất chứa trong tâm thức của con người để đến kiếp này trở thành động lực
chi phối đến vận mệnh. Làm điều thiện thì có nghiệp tốt ứng báo điều lành, điều tốt
19
cho đời sau. Gây điều ác thì có nghiệp xấu ứng báo điều xấu cho đời sau. Do đó linh
hồn con người phải chịu đầu thai vào hết loài này hay loài khác.
3.2. Những điểm khác biệt
3.2.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội
Phật giáo: trong xã hội Ấn độ cổ đại thời bấy giờ, với sự thống trị của tư tưởng
duy tâm – tôn giáo Bàlamôn và chế độ phân biệt đẳng cấp rất khe khắt, nghiệt ngã.
Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy thế của kinh Vêđa, phê phán
giáo lý Bàlamôn, lên án chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội; đòi tự do tư tưởng và bình
đẳng xã hội. Đó là sự thể hiện ý chí phản kháng của nhân dân lao động chống lại
những bất công trong xã hội Ấn Độ đương thời.
Vêđanta: đại diện cho tầng lớp Tăng lứ, quý tộc, giai cấp thống trị trong xã hội
Ấn Độ cổ đại ra sức bảo vệ quyền lời cho chế độ mình, biện hộ cho giáo lý Balamon,
thừa nhận uy thế của kinh Vêđa.
3.2.2. Thế giới quan
Phật giáo: Cho rằng thế giới về bản chất là một dòng biến ảo vô thường, không
do một vị thần sáng tạo ra cả. Do vậy, trong thế giới không thực có vật, không thực có
cái ngã, không có thực thể nào tồn tại thường định và vĩnh viễn. Theo triết lý Phật
giáo, sở dĩ vũ trụ vạn vật biến hóa vô thường chính là do vạn vật trong vũ trụ chịu sự

chi phối của luật nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả nhờ duyên mà thành
nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên mà thành quả mới…; cứ như thế, vạn vật biến đổi,
hợp – tan, tan – hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.
Quá trình đó có thể diễn ra trong nháy mắt hay trong từng giai đoạn thay đổi hẳn về
chất lượng. Sự biến hóa, vận động không ngừng của vũ trụ do nhân duyên mà Phật
giáo gọi đó là” chư hành vô thường”.
Do chủ trương vô ngã, thừa nhận linh hồn bất tử, cho nên quan niệm luân hồi
của Phật giáo căn bản được thể hiện ở tư tưởng về nghiệp và tái sinh.
19
Vêđanta: Cho rằng bản chất sâu xa của mọi cái tồn tại, từ đó vạn vật trong vũ
trụ nảy sinh va hòa nhập về với nó khi tiêu tan, đó là linh hồn vũ trụ tối cao Bratman.
Bratman là thực thể duy nhất, tuyệt đối, vĩnh viễn, bất diệt, vô hình, vô danh, vô sắc, là
bản chất của tất cả, xâm nhập và bao hàm tất cả, ở ngoài giới hạn của không gian và
thời gian. Linh hồn cá nhân chỉ là một bộ phận cái toàn bộ, tuyệt đối, tối cao Bratman.
Nhưng vì Atman thể hiện trong mỗi thân xác con người với cảm giác, ý chí, dục vọng,
nên con người lầm tưởng rằng linh hồn cá nhân là cái khác với Linh hồn vũ trụ tối cao.
3.2.3. Quan niệm về giá trị con người
Phật giáo: Phật giáo đã xác định sự bình đẳng giữa người với người, không có
ai là quý tộc và cũng không có ai là hạ tiện. Quý tộc hay hạ tiện không phải do nơi giai
cấp quy định. Đây là một tư tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo và nó được thể hiện rất rõ
trong suốt quá trình hoằng dương thánh giáo của Ngài. Đức Phật mở rộng cánh cửa
giải thoát nhằm tiếp nhận tất cả mọi người bất kể sang giàu, cao thượng hay hèn hạ.
Đức Phật luôn đề cao giá trị của con người, bất luận là nam hay nữ. Ngài cho rằng ai
cũng có thể tu tập và đạt được giác ngộ giải thoát. Nghĩa là một người cho dù xuất
thân từ giai cấp Balamon cao quý hay ở những giai cấp thấp, nếu thực hành theo giáo
pháp của Ngài thì đều được thưởng thức hương vị thánh đạo.
Điểm đặc biệt nhất là Phật giáo đã tiếp nhận nữ giới vào trong giáo đoàn. Vì
Ngài thấy rõ “người nữ có khả năng thành tựu các đạo và các quả”. Có thể nói đây là
một cuộc cách mạng về giới tính đầy tính nhân văn.
Vêđanta: Quan niệm về giá trị con người hết sức bất công và không có sự bình

đẳng. Đây là sự phân biệt chủng tộc, màu da, cũng như về nguồn gốc xuất thân. Những
người thuộc giai cấp dưới phải tuân thủ nghiêm ngặt và phải tin tưởng tuyệt đối vào sự
an bài này. Thân phận con người không được tôn trọng như nhau, những người thuộc
giai cấp trên thì được tôn trọng tuyệt đối, còn những người thuộc giai cấp dưới được
19
coi là những kẻ nô lệ. Đời sống vật chất của những người thuộc giai cấp thấp còn chưa
đầy đủ, thì làm gì có cơ hội thăng hoa trong đời sống tinh thần.
3.2.4. Tư tưởng giải thoát
Phật giáo: Cho rằng giải thoát tức là trạng thái đời sống tin thần của con người
vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc của thế giới nhục dục, là sự “diệt” hết mọi dục vọng và
đạt tới cảnh trí Niết bàn với cái tâm tuyệt đối thanh tĩnh, không vọng động, an lạc, bất
sinh, bất diệt và tự do tự tại, bằng con đường tu luyện đạo đức giữ nghiêm giới luật và
tu luyện tri thức, thiền định, thực nghiệm tâm linh để đạt tới giác ngộ theo “Tam học”
(giới, định, tuệ).
Bằng học thuyết “Tứ diệu đế”, “Thập nhị nhân duyên” và “Bát chính đạo”, Phật
giáo đã chỉ ra căn nguyên biến đổi không ngừng của vũ trụ và thế gian, tìm ra nguồn
góc của nỗi khổ cuộc đời con người, từ đó vạch ra con đường, cách thức để giải thoát
chúng sinh ra khỏi nghiệp báo, luân hồi, đó là con đường trung đạo. Trong kinh
Chuyển Pháp Luân, Đức Phật đã nói: “Người xuất gia có hai cực đoan cần tránh, một
con đường thấp hèn chủ trương cuộc sống chỉ cần khoái lạc, một con đường cực nhọc
vô ích như chủ trương của phái khổ hạnh ép xác. Con đường trung đạo thì ở giữa hai
thái cực kia, có thể dẫn đến giác ngộ và giải thoát”.
Vêđanta: Phạm trù giải thoát được định nghĩa là sự xóa bỏ mọi ràng buộc của
thế giới nhục dục, đưa tiểu ngã (Atman) hay linh hồn cá biệt phải nhận thức được và
hòa nhập vào đại ngã (Bratman). Con đường giải thoát là con đường nối liền tiểu ngã
tương đối với đại ngã tuyệt đối, bằng nhận thức trực giác nhận ra bản chất chân thực
của thực tại vũ trụ, chân bản của con người và thực tướng của vạn vật, vượt qua thế
giới hiện tượng hữu hình, hữu hạn, thường biến, giả tướng, đưa linh hồn cá biệt đồng
nhất với tinh thần thế giới vô ngã, tuyệt đối, tối cao.
19

KẾT LUẬN
Qua phân tích trên đã cho thấy giữa Phật giáo và triết học Vêđanta vẫn là hai
trào lưu tư tưởng với hai phương tiện khác nhau, nhưng lại giống nhau ở mục đích. Đó
là việc đem đến sự giải thoát cho con người khỏi mọi khổ đau ràng buộc, nhưng để đạt
được mục đích đó thì mỗi trào lưu dựa trên tưởng và giải pháp luận của riêng mình để
đưa ra những phương cách rất khác nhau như đã phân tích ở trên.
Tư tưởng về vũ trụ quan và nhân sinh quan của Vêđanta thì phong phú và đa
dạng. Nhưng cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề về thế giới và con người lại không
hiệu quả, bởi triết lý của họ mang nặng tính chất thần quyền, lễ nghi cúng bái. Trong
khi đó nền tảng triết lý của Đạo Phật lại trái ngược hẳn những gì Vêđanta từng tuyên
bố. Đức Phật cho rằng vạn vật do duyên sinh nên tất cả là vô thường, vô ngã. Lời
tuyên bố ấy đã đánh dấu một bước ngoặc vô cùng trọng đại, giải thoát nhân sinh ra
khỏi các triết lý thần khải.
Đối với xã hội, Đạo Phật đã làm một cuộc cách mạng xóa bỏ tư tưởng giai cấp
đầy bất công, về phương diện tu tập thì đạo Phật chủ trương thực hành giáo lý Trung
Đạo đả phá con đường khổ hạnh Chính vì giá trị thiết thực ấy đã làm cho Đạo Phật tồn
tại mãi với thời gian như lịch sử đã ghi nhận : “Tại các nước Á Đông, mọi nền đạo
học, thần học hết sức phong phú, nhưng cho đến nay dần dần tan biến đi để chỉ còn lại
một Đạo Phật tồn tại và đại diện cho Đông Phương trong thực tại sinh hoạt thế giới
hiện nay”. Tất cả những điều này minh chứng Đạo Phật có một bản sắc độc đáo riêng
mà các triết phái khác không có được.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mưa (2011), Triết Học Phần I – Đại Cương Về Lịch Sử Triết Học, Lưu
Hành Nội Bộ.
2. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử Triết học Đông Phương, Nxb Tp HCM.
3. Chandradhar Sharma (2005) (dịch giả: Nguyễn Kim Dân), Triết Học ấn Độ
Nghiên Cứu Và Phê Bình, NXB: Tổng Hợp Tp-HCM.
4. Doãn Chính (2012), Lịch Sử Triết Học Phương Đông, NXB: Chính Trị Quốc Gia
– Sự Thật.

5. Doãn Chính và Lương Minh Cừ (1991), Lịch Sử Triết Học ấn Độ Cổ Đại, NXB:
Đại Học Và Giáo Dục Chuyên Nghiệp.
6. Trang web: />60_14-1_15-1/
19
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Khái quát về triết học Ấn Độ thời cổ đại 2
1.1Bối cảnh Ấn Độ thời cổ đại 2
1.2Triết học Ấn Độ cổ đại 2
1.2.1. Đặc điểm triết học Ấn Độ cổ đại 2
1.2.2. Các trường phái triết học Ấn Độ cổ đại 3
Chương 2: Khái quát về triết học Phật giáo và triết học Vedanta 5
2.1Triết học Phật giáo 5
2.1.1. Điều kiện ra đời 5
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển 5
2.1.3. Các nét đặc trưng 6
2.1.3.1. Thế giới quan 6
2.1.3.2. Nhân sinh quan 7
2.2Triết học Vedanta 9
2.2.1. Điều kiện ra đời 9
2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển 9
2.2.3. Các nét đặc trưng 10
Chương 3: So sánh triết học Phật giáo và triết học Vedanta 11
3.1Những điểm tương đồng 11
3.1.1 Vấn đề trung tâm 11
3.1.2 Thế giới quan và nhân sinh quan 11
3.1.3 Quan niệm yếm thế và giải thoát 12
3.1.4 Nguyên lý cơ bản 12
3.2Những điểm khác biệt 13
3.2.1 Ý nghĩa chính trị - xã hội 13

3.2.2 Thế giới quan 13
3.2.3 Quan niệm về giá trị con người 14
3.2.4 Tư tưởng giải thoát 15
KẾT LUẬN 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
19
MỤC LỤC 18

×