Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.18 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
  

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài số 5:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC
NHO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC
THỜI CỔ ĐẠI


SVTH : PHẠM THỊ THÙY THANH
STT : 60
NHÓM : 07
LỚP : CHKT NGÀY 4 K22
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA






TP. HCM, tháng 12/2012
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 2

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
  




































Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 3

PHẦN MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Triết học Nho gia thời Trung Quốc cổ đại
5
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển
5
1.1.2 Những luận điểm cơ bản
6
1.2 Triết học Pháp gia thời Trung Quốc cổ đại
7
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển
7
1.2.2 Những luận điểm cơ bản
8
CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ
ĐẠI
2.1 Sự tương đồng
10

2.2 Sự khác biệt
11
2.2.1 Thuyết trị quốc và công cụ trị quốc
11
2.2.2 Bản tính của con người và giáo dục
13
2.2.3 Ý thức về sự vận động của xã hội
14
CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN
3.1 Kết luận chung
16
3.2 Ảnh hưởng của triết học Pháp gia đến lịch sử Việt Nam
16
3.3 Ảnh hưởng của triết học Nho gia đến nền văn hóa Việt Nam
17
TÀI LiỆU THAM KHẢO
19
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 4

MỞ ĐẦU
Xuất phát từ quan niệm coi Triết học chỉ là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
là một hình thức nhận thức tổng quát và dựa theo sự phân chia tiến trình lịch sử
nhân loại ra thành các hình thái kinh tế - xã hội, ta có thể phân chia lịch sử Triết
học ra thành Triết học Phương Đông và Triết học Phương Tây. Trong Triết học
phương Đông, Triết học Trung Hoa cổ đại là một hệ thống đồ sộ, bao quát nhiều
vấn đề Triết học. Tư tưởng Triết học có hệ thống hình thành từ thời Đông Chu,
có hàng trăm học giả với hàng trăm tác phẩm và được gọi là thời “Bách gia chư
tử”. Thời này có sáu phái lớn là Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp

gia, Danh gia. Trong đó, Nho gia là một trường phái Triết học lớn được hoàn
thiện liên tục và có ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài đến văn hóa tinh thần của Trung
Quốc nói riêng và của nhiều nước phương Đông nói chung. Bên cạnh đó, Pháp
gia là trường phái triết học có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất về tư
tưởng và chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại.
Do đó, nghiên cứu đề tài “Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Nho gia
và Triết học Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại” có ý nghĩa to lớn trong việc
giúp cho sự am hiểu đúng đắn và sâu sắc về hai trường phái này, từ đó vận dụng
những tinh hoa của hai hệ tư tưởng đó vào chuyên môn công việc cũng như công
cuộc xây dựng, phát triển kinh tế xã hội.
Dựa trên những kiến thức cơ bản trong giáo trình Triết học của Trường Đại học
Kinh Tế Tp. HCM và tham khảo thêm các tài liệu có liên quan, người viết đề tài
đi sâu vào giải quyết hai vấn đề chính:
- Sự tương đồng của Triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại
- Sự khác biệt của Triết học Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại
Do sự hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm, đề tài không tránh khỏi thiếu
sót. Tôi rất mong nhận được phê bình, góp ý đề hoàn thiện hơn đề tài của mình.
Nhân đây tôi cũng xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Bùi Văn Mưa đã giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu đề tài này.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Triết học Nho gia thời Trung Quốc cổ đại
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển
Nho gia được Khổng Tử sáng lập vào cuối thời Xuân Thu. Đến thời Chiến Quốc,
do bất đồng về bản tính con người mà Nho gia bị chia thành tám phái, trong đó
mạnh nhất là phái của Tuân Tử và phái của Mạnh Tử. Trong giai đoạn này,
Khổng tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục Kinh. Sau khi Khổng Tử
mất, học trò của ông tập hợp các lời ông dạy thành cuốn Luận Ngữ. Ngoài ra,
đáng chú ý còn có tác phẩm Đại học của Tăng Sâm và Trung Dung của Khổng
Cấp. Thời Chiến Quốc có sách Mạnh Tử ghi các tư tưởng của Mạnh Tử do học

trò của ông viết lại.
Sang thời Tây Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp và Lễ Ký. Hán Vũ Đế
nghe theo Đổng Trọng Thư đưa Nho giáo lên hàng Quốc giáo. Đổng Trọng Thư
đã hệ thống hóa kinh điển Nho gia thành Tứ thư và Ngũ Kinh, đưa ra quan niệm
Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng , Tứ đức. Những quan niệm này nhanh chóng
trở thành tiêu chuẩn đạo đức và nền tảng tư tưởng xã hội Trung Quốc. Khổng Tử
được suy tôn là Giáo chủ của Nho giáo.
Sang thời nhà Tống, Nho giáo phát triển mạnh mẽ. Đại học, Trung Dung được
tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận Ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Tứ
Thư và Ngũ Kinh là kinh điển của Nho giáo. Trong giai đoạn này, Chu Hy, Trình
Hạo, Trình Di đã bổ sung các yếu tố tâm linh (Phật giáo) và siêu hình (Đạo giáo)
để đào tạo quan lại và cai trị nhân dân.
Sang thời Minh – Thanh, Nho giáo không có phát triển mới mà càng ngày càng
khắc khe và bảo thủ. Sang thế kỷ XIX, Nho giáo thật sự trở nên già cỗi, không
còn sức sống. Sự phục cổ, bảo thủ của Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 6

của xã hội Trung Quốc vào cuối thời phong kiến, làm cho Trung Quốc không bắt
kịp các trào lưu văn minh của thế giới.
1.1.2 Những luận điểm cơ bản
Nho giáo nguyên thủy là triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người
quân tử và cách thức trở thành người quân tử, cách cai trị đất nước.
Nho gia nguyên thủy cho rằng nền tảng của xã hội – gia đình là những quan hệ
đạo đức, chính trị, đặc biệt là ba quan hệ vua – tôi, cha – con, vợ - chồng. Khi các
quan hệ này chính danh: vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra
chồng, vợ ra vợ thì xã hội ổn định, gia đình yên vui, và ngược lại. Vì vậy muổn
cải loạn thành tri, thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại ba quan hệ
đó.

Khổng Tử và Mạnh Tử xây dựng thuyết Thiên Mệnh, cho rằng vạn vật không
ngừng biến hóa theo một trực tự không gì cưỡng lại được mà tận cùng của trật tự
đó là Thiên mệnh. Dựa trên thuyết Thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng tính người là
do trời phú, nhưng do điều kiện, hoàn cảnh, môi trường sống khác nhau mà gây
biến tính ở con người, làm cho con người trở nên vô đạo, rồi cả nước, thiên hạ vô
đạo. Do vậy, phải lập đạo, tức là giáo dục để giữ được tính cho con người.
Trung tâm của đạo đức Nho gia là quan niệm về nhân và nghĩa cùa với các quan
niệm khác trở thành hệ thống phạm trù đạo đức của Nho gia: Nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín. Đây là Ngũ thường mà con người mà con người thường xuyên phải trau dồi.
Theo Nho gia, con người phải xác định và làm tròn trách nhiệm của mình trong
năm mối quan hệ, gọi là Ngũ luân, trong đó có ba quan hệ chính: Tam cương: là
vua tôi, cha con, chồng vợ. Đối với vua phải trung, đối với cha phải hiếu. Giữa
trung với hiếu thì trung đứng đầu. Khổng Tử cho rằng một quốc gia muốn thịnh
vượng thì người cầm quyền phải thực hiện được ba việc lớn là Thực túc, Binh
cường và Dân tín. Nhà cầm quyền phải tu dưỡng đạo đức cá nhân và dùng Đức
trị. Người trị dân phải có đức thì dân mới theo. Vua phải lấy đức để trị dân, làm
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 7

cho xã hội ổn định, làm cho dân giàu nước mạnh chứ không dùng cưỡng chế,
trừng phạt.
1.2 Triết học Pháp gia thời Trung Quốc cổ đại
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển
Pháp gia với đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử là trường phái triết học với nội dung
đề cao vai trò của pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước.
Pháp gia có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất về tư tưởng và chính trị
trong xã hội Trung Hoa cổ đại.
Người được coi là đã khởi xướng Pháp Gia là Quản Trọng. Vào thời Xuân Thu,
ông được coi là người đầu tiên bàn đến pháp luật như một cách để trị nước và

chủ trương công bố pháp luật rộng rãi trong dân chúng. Quản Trọng đã hiện đại
hóa nước Tề thông qua nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông,
người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hành, chính. Luật là để định danh phận
cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việt mà làm, Hình là để trừng trị những
kẻ làm trái lệnh và luật, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Quản
Trọng được đánh giá là thủy tổ của Pháp gia đồng thời là cầu nối của Nho gia và
Pháp gia.
Sang nữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị tiếp tục được phát triển. Để cai
trị đất nước, Thận Đáo chủ trương dùng thế, Thân Bất Hại chủ trương dùng thuật,
Ngô Khởi cho rằng muốn làm cho nước mạnh phải biết đạo nuôi quân, trả lương
hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình, còn Thương Ưởng được vua Tần tin
dùng, áp dụng chính sách pháp trị của mình, coi trọng hiến pháp, chủ trương
“pháp trị” thay “đức trị”, sử dụng các chính sách khuyến khích dân chúng lao
động, binh sĩ chiến đấu.
Sang cuối thời Chiến quốc, Hàn Phi là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời
Chiến Quốc theo trường phái pháp gia. Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là
Tuân Tử, cho rằng con người bẩm sinh vốn đại ác, do đó ông không bàn đến
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 8

nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử mà đề cao phương pháp dùng thế,
dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước. Ông là người đã tổng hợp ba quan
điểm về pháp, thế, thuật của ba nhà triết học trên thành một học thuyết có tính hệ
thống và đã trình bày trong sách Hàn Phi. Bên cạnh đó, Hàn Phi còn kết hợp ba
học thuyết Nho, Lão, Pháp với nhau, coi Nho gia là “vật liệu để xây dựng xã
hội”, Đạo gia là “Kỹ thuật thi công”, Pháp gia là “bản thiết kế”.
1.2.2 Những luận điểm cơ bản
Quan điểm của Pháp gia trước hết là quan điểm về đường lối xây dựng đất nước
và tư tưởng biện chứng của nó.

Phép trị quốc của Hàn Phi là một học thuyết có nội dung hoàn chỉnh được tổng
hợp từ Pháp, thế và thuật, trong đó pháp là nội dung của chính sách cai trị còn
thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó. Trong Pháp, ông đòi hỏi
bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp,
không hành động trái pháp. Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu
chính thể. Địa vị, thế lực, quyền uy đó phải là độc tôn. Muốn thi hành được pháp
phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau. Thuật là phương pháp, thủ thuật,
cách thức, mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà
không hiểu người sai dùng họ thế nào. Thuật gồm ba mặt là bổ nhiệm, khỏa hạch
và thưởng phạt. Phải dùng pháp như trời, dùng thuật như quỷ. Nếu pháp được
công bố rộng rãi trong quần chúng nhân dân thì thuật là cơ trí ngầm , là thủ đoạn
của vua được giấu kín. Nhờ thuật mà vua chọn được người tài năng, trao đúng
chực vụ, quyền hạn và loại được kẻ bất tài.
Pháp gia chủ trương dùng thưởng, phạt để điều khiển hành vi của dân chúng.
Theo Hàn Phi thì hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được sáu hạng người: bọn
hàng giặc, sợ chết; bọn lìa xa pháp luật; bọn ăn chơi xa xỉ; bọn bạo ngược, ngạo
mạn; bọn dung thứ lũ giặc, che giấu kẻ gian và bọn nói khéo, khoe khôn, dối trá.
Pháp gia chủ trương xay dựng pháp luật theo bốn nguyên tắc:
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 9

- Nguyên tắc 1: thiên thời, địa lợi, nhân hòa
- Nguyên tắc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân nhắc rõ ràng
- Nguyên tắc 3: Pháp luật phải soạn thảo sao cho dân dễ hiểu, dễ thi
hành, phải được áp dụng nhất loạt với mọi người.
- Nguyên tắc 4: Pháp luật phải công bằng và mang tính phổ biến
Cơ sở của thuyết pháp trị của Hàn Phi căn cứ trên ba điểm chính. Thứ nhất là ông
thừa nhận sự tồn tại của lý –tính quy luật hay những lực lượng khách quan trong
xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Con người phải nắm

lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp. Bên cạnh đó,
Hàn Phi thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Ông cho rằng không có chế
độ xã hội nào là bất di bất dịch do đó không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
Người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử và dựa vào đặc
điểm của thời thế để lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao
cho thích hợp. Ông cho rằng không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với
mọi thời đại. Cuối cùng, Hàn Phi thừa nhận bản tính con người là ác. Xã hội có ít
người tốt nhưng kẻ ác rất nhiều do đó không thể dựa vào người tốt mà phải ngăn
chặn kẻ ác không cho họ làm điều ác.







Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 10

CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ PHÁP GIA Ở TRUNG QUỐC THỜI CỔ ĐẠI
2.1 Sự tương đồng
Trong các quan điểm Triết học của Nho gia và Pháp gia, bên cạnh các khác biệt
cũng có những nét tương đồng. Đây đều là những trường phái Triết học mang tư
tưởng trị quốc, hướng đến xây dựng đất nước thái bình thịnh trị, những tư tưởng
này có tầm ảnh hưởng lớn và có giá trị cho đến ngày nay. Cả hai trường phải đều
đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền, cùng thừa nhận bản chất xã hội với những
bất bình đẳng của nó như một thực tế và đó là môi trường cho cá nhân suy ngẫm
và hành động.

Cả Nho gia và Pháp gia đều chú coi trọng việc phát triển nông nghiệp, xây dựng
thực túc, binh cường.
Bên cạnh đó, cả hai trường phái đều đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền. Nếu
như tư tưởng Nho gia cho rằng nhà cầm quyền phải có những tốt chất để vừa làm
gương cho dân, vừa dùng đức trị để dưỡng dân, giáo dân. Để dân tin tưởng, nhà
cầm quyền phải là tấm gương sáng cho dân noi theo, phải sáng suốt, hiểu cam
biết rộng, nhân từ, độ lượng, biết cách trị nước an dân. Về phía Pháp gia, mặc dù
dùng phương pháp trị nước khác với Nho gia nhưng trong quan điểm của mình,
Pháp gia cũng chủ trương cần một đấng minh quân , một nhà cầm quyền am hiểu
các quy tắc để cai trị đất nước. Pháp gia suy cho cùng cũng là một hình thức cụ
thể của nhân trị mà thôi.
Mục đích của các hai trường phái này đều là tìm phương cách giải quyết những
vấn đề trong thực tiễn liên quan đến chính trị - đạo đức – xã hội mà thời đại đặt
ra. Với những hiện thực trong đời sống, các Nho gia và Pháp gia đều cố lý giải và
tìm cách giải đáp nhằm tìm ra phương cách giải quyết, xây dựng xã hội, xây
dựng đất nước. Khổng Tử hướng tới việc xây dựng một xã hội “đại đồng”, là xã
hội có đời sống vật chất đầy đủ, quan hệ giữa người và người tốt đẹp. Hàn Phi
đưa ra thuyết Pháp trị cũng hướng tới xây dựng một xã hội ổn định, tiến tối xây
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 11

dựng đất nước có dân giàu nước mạnh, làm cho nhân dân được sống yên bình
hạnh phúc.
Tuy vậy, cả hai luồng tư tưởng này đều có những mặt hạn chế, yếu kém của nó.
Kết cục của cả hai tư tưởng này đều là đưa xã hội lâm vào bế tắc. Do những quan
điểm quá khắt khe và bảo thủ, Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh – Thanh thì
trở nên già cỗi, khắt khe, ngăn cản sự phát triển của đất nước. Trong khi đó, Pháp
gia quá coi trọng trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đọa đức, thủ tiêu văn
hóa giáo dục Nhà Tần là một minh chứng cho việc thực hiện triệt để tư tưởng

Pháp gia để cuối cùng dẫn đến mất nước.
2.2 Sự khác biệt
2.2.1 Thuyết trị quốc và công cụ trị quốc
Thuyết trị quốc của Nho gia thể hiện chủ yếu qua tư tưởng của Khổng Tử và
Mạnh Tử. Là người sáng lập ra Nho gia, Khổng Tử cho rằng trước hết phải thực
hiện chính danh. Chính danh nghĩa là một vật trong thực tại cần phải cho phù
hợp với cái danh nó mang. Trong xã hội, mỗi cái danh đều bao hàm một số trách
nhiệm và bổn phận mà những cá nhân mang danh ấy phải có những trách nhiệm
và bổn phận phù hợp với cái danh ấy. Ông cho rằng nền tảng của việc cai trị đất
nước là tự ước chế bản thân, “Bản thân mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh
thì người khác cũng thi hành; còn nếu bản thân không chính đáng, dù có mệnh
lệnh thì người khác cũng không tuân theo”. Ông không chủ trương dùng hình
phạt để cai trị dân mà theo ông, cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn
phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sĩ và thật lòng quy phục.
Nho gia kiên trì vương đạo và chủ trương lễ trị để trị nước an dân. Lễ là những
nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật tự của cuộc sống, đảm bảo sự phân định rõ
ràng, trên dưới không bị xáo trộn, ngăn ngừa những hành vi và tình cảm cá nhân
thái quá. Lễ là cơ sở, công cụ chính trị và cũng là vũ khí của một phương pháp trị
nước, trị dân lâu đời của Nho giáo.
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 12

Nho giáo chủ trương dùng nhân. Nội dung của đức trị là thực hiện ba điều: dân
đông, kinh tế phát triển, dân được học hành. Để thi hành đức trị, Nho gia chủ
trương thận trọng trong công việc, giữ chữ tín, tiết kiện trong tiêu dùng, thương
người, sử dụng sức dân hợp lý Để đạt tới đạo nhân, Khổng Tử rất quan tâm đến
giáo dục. Do không coi trọng cơ sở kinh tế - kỹ thuật của xã hội, giáo dục của
Nho gia chủ yếu hướng vào rèn luyện đạo đức con người.
Một đại diện khác của Nho gia là Mạnh Tử cũng chủ trương thực hành đường lối

đức trị dựa trên tinh thần quý dân, nhân chính và thống nhất.
Về phía Pháp gia, với đại diện xuất sắc là Hàn Phi Tử, đã lấy pháp, thế và thuật
là phép trị quốc. Trong ba nội dung đó thì pháp là nội dung của chính sách cai trị
còn thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó.
Theo nghĩa rộng, Pháp là thể chế quốc gia hay chế độ chính trị, theo nghĩa hẹp,
pháp là những điều luật, luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Nội dụng
chủ yễu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng và phạt và ông gọi đó là hai đòn
bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Song song với “thưởng hậu, phạt
nặng”, ông còn chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Ông cho
rằng sự trừng phạt không cần biết đến tước vị của giới quý tộc vì luật không xu
nịnh giới quý tộc.
Pháp gia cho rằng muốn luật pháp rõ ràng, minh bạch và được dân tuyệt đối tôn
trọng thì nhà vua phải có “Thế”. “Thế” trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của
người cầm quyền. Không những vậy, thế còn là sức mạnh của dân, của đất nước,
của vận nước. Để nâng cao thế của nhà vua, Pháp gia chủ trương trong nước mọi
thứ nhất nhất đều phải tuân theo lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng.
Nội dung thứ ba của phép trị quốc của Hàn Phi là “Thuật”. “Thuật” là cách thức,
phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người, dùng người, giao
việc, xét đoán sự vật, sự việc. Nhiệm vụ chủ yếu của thuật cai trị là phân biệt rõ
ràng những quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử
năng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ. Thuật còn thể hiện
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 13

trong thuật dùng người với các nguyên tắc cơ bản: “chính danh”, “hình danh”,
“thực danh”.
Ngoài các nội dung “pháp”, “thế” và “thuật” đã nêu ở trên, tư tưởng Pháp gia
còn hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn
tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ

lương thực và của cải làm cho đời sống xã hội no đủ. Nhìn chung, Pháp gia quá
nhấn mạnh biện pháp trùng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu
văn hóa giáo dục là những nét rất khác biệt so với Nho gia.
2.2.2 Bản tính của con người và giáo dục
Quan niệm về con người giáo dục con người cũng thế hiện sự khác biệt trong tư
tưởng của Nho gia và Pháp gia.
Khổng tử cho rằng, con người khi sinh ra đều có tính người đồng đều. Nhưng do
những điều kiện, hoàn cảnh, môi trường sống khác nhau hay do nhưng tập quán,
tập tục khác nhau mà con người dần dần trở nên khác nhau. Con người bị hoàn
cảnh làm cho biến tính, không còn giữ được tính do trời phú cho lúc ban đầu, do
đó trở nên vô đọa, làm cho cả nước và cả thiên hạ vô đạo. Vì vậy muốn giữ được
tính cho con người thì phải lập đạo, nghĩa là giáo dục. Mục đích của giáo dục là
làm cho mọi người, mọi nhà và cả thiên hạ hữu đạo. Khổng Tử cho rằng, nếu lập
đạo của trời, nói về âm và dương, lập đạo của đất, nói về cương và nhu, thì lập
đạo của người, phải nói về nhân và nghĩa. Nhà cầm quyền phải lấy đạo đức mà
giáo dục và cảm hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phái dùng đến biện pháp
cưỡng chế và hình phạt như Pháp gia.
Quan niệm về đạo đức con người thể hiện tính nhân bản sâu sắc của trường phái
Nho gia. Mạnh Tử cũng cho rằng con người “nhân chi sơ tính bản thiện”, khi
sinh ra mỗi con người đều có đủ nhân, nghĩa, lể, trí. Để vãn hồi tính thiện của
con người thì phải lập lại trật tự kỷ cương cho xã hội trên cơ sở thực hành đường
lối nhân nghĩa. “Thuyết tính thiện” của Mạnh Tử làm cho phần tốt trong con
người ngày càng phát triển, phần xấu ngày càng thu hẹp lại.
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 14

Nho gia xây dựng con người theo chuẩn mực đạo đức, hướng đến xây dựng mẫu
người quân tử theo ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Muốn trở thành người
quân tử phải tu thân, để tu nhân cần phải đạt đạo và đạt đức , thực hành đường

lối nhân trị.
Trong khi đó, Pháp gia thừa nhận bản tính con người là ác, trong xã hội kẻ xấu
nhiều hơn kẻ ác nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong
họ làm việc thiện mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm
điều ác.
Không giống như Nho gia, Pháp gia quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng
nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục Pháp gia chủ trương
nhà cầm quyền không phải chú trọng đến việc tu thân. Con người khó được đạo
nghĩa cảm hóa, nên thay vì sửa đổi bản tính bẩm sinh của con người, Hàn Phi chủ
trương điều chỉnh hành vi con người thông qua thưởng, phạt.
2.2.3 Ý thức về sự vận động của xã hội
Ít quan tâm đến các quy luật của xã hội, quan điểm của Khổng Tử về trời – đất,
quỷ - thần không rõ ràng. Ông xây dựng thuyết Thiên Mệnh, cho rằng vạn vật
không ngừng biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng của
trật tự đó là thiên mệnh. Sự hiểu biết thiên mệnh là điều kiện tiên quyết để trở
thành con người hoàn thiện. Xuất phát từ quan điểm thiên mệnh, Khổng Tử và
Mạnh Tử tìm kiếm sự thống nhất giữa trời, đất, người và vạn vật, đặc biệt là trên
bình diện đạo đức – chính trị - xã hội chứ không để ý đến khía cạnh sinh học – tự
nhiên trong con người. Khổng Tử đề cập đến xã hội lý tưởng của ông: đó là xã
hội phong kiến, có trật tự tôn ti từ thiên tử tới các chư hầu lớn nhỏ, quí tốc, bình
dân, ai có phận nấy, có quyền lợi và nhiệm vụ sống hoàn hảo với nhau. Xã hội đó
lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu để, yêu trẻ, kính già.
Trong khi đó, Hàn Phi thừ nhận sự tồn tại của lý – tính quy luật hay những lực
lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã
hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 15

hành động cho phù hợp. Với quan điểm thời biến, pháp biến, ông cho rằng mọi

chủ trương phải phù hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù
hợp. Không nên bắt chước người xưa mà phải xuất phát từ thực tế trước mắt,
không dùng lời lẻ cổ nhân để biện hộ cho sự yếu kém của mình. Ông cho rằng
“Thánh nhân không nhất định phải biển đổi hay không biến đổi, miễn việc trị
nước được thích nghi mà thôi”.
Pháp gia cũng thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, cho rằng do không có
chế độ xã hội nào bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
Hàn Phi cho rằng người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch
sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra
cách trị nước cho thích hợp. Ông cho rằng không có thứ pháp luật nào đúng với
mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn
thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn. Pháp gia cho
rằng điều hành đất nước, xã hội phải thực hiện đúng các quy luật, làm đúng các
phép tắc đã đề ra.










Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 16

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN
3.1 Kết luận chung

Hai trường phái tư tưởng Nho gia và Pháp gia đều chú trọng những vấn đề về con
người, cùng mong muốn giải quyết thế sự. Tuy nhiên, các nhà tư tưởng ở trong
hai bối cảnh xã hội lịch sử, môi trường tự nhiên khác nhau, và thân phận xã hội
khác nhau, nên suy tư, lý luận và giải quyết vấn đề theo những hướng khác nhau.
Cả hai trường phái dều có những cái hay và những hạn chế của nó.
Nho gia với chủ trương nhân trị, đề cao đạo đức, giáo dục con người trở thành
người quân tử đã chứa đựng nhiều giá tị nhân bản và toát lên tinh thần biện
chứng xuất sắc. Tuy nhiên, Nho gia với chủ trương xây dựng xã hội đại đồng
nhưng không dựa trên các quan hệ kinh tế, xã hội, không xuất phát từ việc xây
dựng nền sản xuất vật chất, không dựa vào quần chúng nhân dân mà chỉ dựa vào
tầng lớp thống trị là một chủ trương duy tâm, ảo trưởng, xa rời thực tế cuộc sống
lúc bấy giờ.
Pháp gia với chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn lúc bấy giờ. Tuy
vậy, phái này đã quá nhán mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình
cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục là đi ngược lại với xu hướng phát triển
của văn minh nhân loại.
Do đặc điểm của tự nhiên và lịch sử, cả hai trường phái đều có ảnh hưởng ít
nhiều đến văn hóa, lịch sử Việt Nam.
3.2 Ảnh hưởng của triết học Pháp gia đến lịch sử Việt Nam
Pháp gia không có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa Việt Nam như Nho gia.
Tuy vậy, những tư tưởng của Pháp gia đã được vận dụng vào quá trình xây dựng
và bảo vệ đất nước ở nước ta.
Nhà nước ta đã áp dụng triệt để tư tưởng Pháp gia để xây dựng một hệ thống
pháp luật rõ ràng. Vì thế trong mỗi lĩnh vực nhà nước đều ban hành một bộ luật.
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 17

Nhà nước cũng chủ trương ban hành luật pháp đến mỗi người dân Việt Nam,
đảm bảo mỗi người dân đều biết pháp luật, hiểu pháp luật và làm theo pháp luật.

Nhà nước ta chủ trương tất cả mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Luật
pháp khen thưởng những người tuân phục và trừng phạt những người bất tuân.
Đây là những tư tưởng trong quy tắc “Pháp” của Pháp gia.
Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng bộ máy chính
quyền trong sạch vững mạnh. Trong bất cứ thời đại nào, uy tín của người cầm
quyền luôn được đặt lên hàng đầu. Đây cũng chính là những luận điểm trong quy
tắc “Thế” của Pháp gia. Pháp gia giúp nhà nước ta củng cố quyền lực của mình,
giúp cai trị tốt hơn bằng hệ thống pháp luật nghiêm ngặt.
3.3 Ảnh hưởng của triết học Nho gia đến nền văn hóa Việt Nam
Không những là trường phái triết học có tầm ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài ở
Trung Hoa, Nho Gia còn là ý thức hệ phong kiến lâu bền nhất và có ảnh hưởng
sâu sắc nhất mà người Hán đưa vào nước ta từ thời kỳ Bắc thuộc. Ban đầu, Nho
Giáo được đưa vào nước ta với mục đích là “đồng hóa” dân tộc ta. Tuy nhiên,
qua quá trình tiếp xúc, nhân dân ta đã thấy được những cái hay cái đẹp của nó,
thế là từ chỗ bị ép buộc học nó, nhân dân ta đã tự nguyện học nó và ngày một
phổ biến nó một cách rộng rãi.
Ở Việt Nam, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn từ thế kỷ 15 và thịnh đạt nhất vào thời
Lê Thánh Tông. Lúc này, Nho giáo đã đáp ứng những nhu cầu của xã hội nước ta
thời bấy giờ. Một trong những nhu cầu đó là nhu cầu xây dựng và tổ chức bộ
máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lớn mạnh và nhu cầu củng cố
trật tự đã ổn định của xã hội phong kiến. Khi xây dựng nhà nước tập quyền của
mình, giai cấp phong kiến Việt Nam phải tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên
tắc tổ chức của nhà nước phong kiến tập quyền phương Bắc cùng với Nho giáo là
cơ sở lý luận của Nhà nước. Bên cạnh đó, nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục
nước ta cũng là cơ sở khách quan cho sự phát triển Nho giáo ở nước ta.
Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 18

Du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã củng cố và phát triển chế độ quân chủ và

những kinh nghiệm mẫu mực cho việc chấn chỉnh và mở rộng nhà nước phong
kiến tập quyền và có ảnh hưởng sâu rộng tới đới sống văn hóa, tinh thần của
người Việt Nam. Đặc biệt, Nho giáo ảnh hưởng đến nền giáo dục nước ta. Quan
điểm: “ Tiên học lễ, hậu học văn”, “ Thầy ra thầy, trò ra trò”… đó là tư tưởng
lễ và chính danh của Khổng Tử. Hệ thống giáo dục từ xưa là các nho sĩ học đi ra
làm quan, giúp vua giúp nước. Nho giáo cũng khẳng định sư giáo dục trong gia
đình cũng có tác động mạnh mẽ. Có thể nói Nho giáo ở Việt nam được sử dụng
như hệ tư tưởng chính thống. Nho giáo trở thành tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất
đạo đức của con người.
Bên cạnh mặt tích cực nho giáo cũng có những mặt tiêu cực là xem nhẹ dân,
không phát huy sức sáng tạo của dân. Tư tưởng coi thường người phụ nữ ăn sâu
vào đầu óc người Việt Nam từ xưa đến nay.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện trong tư tưởng và
nhiều câu chuyện Nho giáo của Người. Nhưng Người đã vượt qua những hạn chế
của Nho giáo, ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đã sáng lập
và giáo dục Đảng ta với phương châm : “Lấy dân làm gốc” làm tôn chỉ lãnh đạo
nhân dân ta trong cuộc dựng nước và giữ nước. Người cũng coi đạo đức là gốc,
chủ trương chọn lựa người tài để đảm đương việc nước.
Ngày nay, ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội Việt Nam vẫn tiếp tục. Noi
gương Hồ Chí Minh, chúng ta cần “gạn đục khơi trong”, loại bỏ những tư tưởng
không còn hợp thời và tiếp thu những cái hay cái đẹp của nó trong công cuộc xây
dựng kinh tế giàu mạnh và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ngày
nay.




Sự tương đồng và khác biệt của Nho gia và Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại

Phạm Thị Thùy Thanh – N4K22 – STT 60 Page 19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Kim Bình, Tư trưởng trị nước của Pháp gia và vai trò của
nó trong lịch sử, Đại Học Đà Nẵng, Tạp chí khoa học và công nghệ số 3
(26), 2009.
2. Nhiều tác giả, Giáo trình Triết học Mác – Lenin, Bộ Giáo dục và đào tạo,
NXB Chính trị quốc gia, 2006.
3. Phan Ngọc (dịch), Hàn Phi Tử, NXB Văn Học, 2001.
4. TS Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học, Phần I, Đại cương về lịch sử Triết
học, Khoa lý luận chính trị - Tiểu ban triết học, Trường ĐH Kinh Tế Tp.
HCM, Xuất bản năm 2011.



×