Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu Luận Triết SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.24 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Tiểu Luận Triết Học
Đề tài số 05
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
NHO GIA VÀ PHÁP GIA
HVTH : ĐỖ DIỆU THÚY
Stt : 65
Nhóm : 07
Lớp : Cao học ngày 4 – K22
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa
Tp HCM, Tháng 12 năm 2012
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 1
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
  
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………


…………………………………………………
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh nhân loại sớm nhất trên thế giới.
Đất nước này có khoảng hơn một trăm dân tộc với sắc thái ngôn ngữ và văn hóa đa
dạng và phong phú. Đại đa số người dân Trung Quốc luôn giữ phong tục thờ cúng tổ
tiên do ảnh hưởng của Khổng giáo, cũng như kết hợp với Phật Giáo và Đạo Giáo trở
thành "Tam giáo đồng nguyên" hay còn gọi là "Tôn giáo cổ truyền Trung Hoa" mà Phật
giáo Đại Thừa giữ vai trò chính.
Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Quốc
được nhà Tần thống nhất năm 256 TCN, tư tưởng Trung Quốc bước vào giai đoạn nở rộ
nhất của mình. Tất cả các trường phái tư tưởng lớn của Trung Quốc đều hiện ra ở giai
đoạn không thể tin nổi này của văn hóa Trung Quốc; các nhà sử học Trung Quốc coi
giai đoạn nảy nở văn hóa này là “Giai đoạn trăm nhà đua tiếng” (Bách gia chư tử) (551-
233 TCN). Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Phu Tử, người
sống vào khoảng giữa thế kỷ thứ sáu TCN. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ
không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình nhờ thế
có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn. Ông đã đưa ra trường phái Nho gia chủ trương tuân
theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực.
Trường phái lớn nữa là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp
gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp
nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng
của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự
trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là
lý do tại sao họ được gọi là "Pháp gia".
Hai trường phái Triết Học này đã có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan của Triết
học sau này, không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của
nền Triết học Trung Hoa, trong đó có Việt Nam.
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 3

Chính vì thế, việc tìm hiểu tư tưởng Triết học của Nho gia – Đạo gia và những ảnh
hưởng của của nó đến xã hội Việt Nam là một việc cần thiết để lý giải những đặc trưng
của Triết học Phương Đông, qua đó hiểu biết thêm về sự phát triển tư tưởng của Việt
Nam.
Do vậy, em xin chọn đề tài : ‘Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Đạo
gia’ để thực hiện tiểu luận môn Triết Học.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1. Triết học Nho gia thời Trung Quốc cổ đại.
1.1 Hoàn cảnh ra đời và phát triển:
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho gia là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho,
theo Hán tự từ “Nho” gồm từ “Nhân” đứng gần chữ “Nhu”. Nho gia còn được gọi là
nhà Nho người đã học sách thánh hiền được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp
luân thường, đạo lý…Nhìn chung “Nho” là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ
nghĩa.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Đức
Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ
thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ngài
là người sáng lập ra Nho giáo. Ông coi hoạt động đạo đức là nền tảng xã hội, là công cụ
để hoàn thiện xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân cho con người. Đến thời Chiến
Quốc, do bất đồng về bản tính con người mà nho gia bị chia thành 8 phái trong đó có
phái của Tuân Tử và Mạnh Tử là mạnh nhất. Mạnh Tử có đóng góp đáng kể trong sự
phát triển của Nho gia nguyên thủy.
Sang thời Tây Hán, Đổng Trọng Thư (179-104 TCN) đã dựa trên lợi ích giai cấp
phong kiến thống trị, khai thác lý luận âm dương – ngũ hành, đưa ra thuyết trời sinh
van vật, con người và thiên nhiên cảm ứng để hoàn chỉnh thêm Nho gia trong việc giải
thích vạn vật, con người và xã hội. Những quan điểm này nhanh chóng trở thành tiêu
chuẩn đạo đức và nền tảng tư tưởng xã hội của giai đoạn phong kiến Trung Quốc lúc
bấy giờ. Không những vậy Nho gia trong giai đoạn này còn mở rộng thành một hệ
thống niềm tin, tín ngưỡng – nghi thức được phổ biến trong toàn xã hội.

ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 4
Khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời, Nho giáo hấp thụ một số
tư tưởng của hai học thuyết này để tiếp tục phát triển. Sang nhà Tống, Nho giáo mới
thực sự phát triển mạnh với sự đóng góp của Chu Đôn Di (1017-1073) và Thiệu Ung
(1011-1077) khởi xướng ra lý học trong nho giáo.
Nho giáo tiếp tục chi phối đời sống tư tưởng xã hội Trung Quốc qua các thời đại
tiếp theo, nhưng đến thời Minh – Thanh không còn phát triển nổi bật mà ngày càng
khắc khe và bảo thủ. Đến thời cuối thời đại phong kiến, do tính phục cổ, bảo thủ của nó
mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung
Quốc không bắt kịp trào lưu văn minh của thế giới.
Nho giáo được độc tôn từ thời hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống của
Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Nho giáo cũng rất phát triển ở các nước châu Á như
Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Đến thế kỷ 20, với sự sụp đổ của chế độ phong
kiến, Nho giáo mất vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập
niên 1960-1970.
Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ 21, với sự vươn dậy về kinh tế nhưng đồng thời là sự
mai một về đạo đức tại Trung Quốc, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục
con người dần được tôn vinh trở lại. Chương trình Bách gia Giảng đường của Đài
Truyền Hình Trung Ương Trung Quốc (CCTV) đã khởi xướng phong trào đọc lại Luận
ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Ban Quốc học Đại Học Thanh Hoa, Đại Học
Phúc Đán đã mở các khóa học về đạo đức Nho gia và khóa học cổ văn ngoài giờ cho trẻ
em. Từ 2004 cho tới năm 2020, Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch thành lập hơn
1.000 Học Viện Khổng Tử trên khắp thế giới để quảng bá văn hóa truyền thống Trung
Hoa.
1.2Những luận điểm cơ bản:
Nho giáo là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có
hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người
lý tưởng này gọi là quân tử (Khổng Tử dùng từ "quân tử" để chỉ phẩm chất đạo đức:
"Quân tử sở tính Nhân nghĩa lễ trí" phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo
đức). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu

thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo
không đơn giản chỉ là đạo lí. Đạo ở đây là con đường để hoàn thiện chính mình, hoà
hợp đất trời trở về bản ngã “bổn thiện”).
Trong cuốn Đại học (Một trong Tứ Thư, những cuốn sách chính của Nho giáo) có
ghi chép: “Khi bản thân tu luyện, gia tộc hài hòa. Khi gia tộc hài hòa, đất nước mới
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 5
được thịnh trị. Khi đất nước được thịnh trị, khắp nơi sẽ thái bình. Từ bậc quân vương
cho đến kẻ dân thường trăm họ, tất cả phải coi tu luyện bản thân là điều quan trọng
nhất”. Thuyết về quản lý thế giới và làm lợi cho dân của Nho giáo là một phần của văn
hóa Trung Quốc truyền thống vốn rất sâu sắc. Nó đã tự thiết lập cho mình những lý
tưởng về đạo đức và hệ thống tiêu chuẩn giá trị mà đã đặt định ra nền tảng cho cả xã
hội Trung Quốc trong hàng ngàn năm. Nó giúp gìn giữ các tiêu chuẩn đạo đức của xã
hội ở một mức khá cao.
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng của gia đình – xã hội là những quan hệ
đạo đức – chính trị, đặc biệt là ba quan hệ tam cương đó là: vua – tôi, cha – con, chống
– vợ. Vua – tôi biểu hiện bằng đức trung, Cha – con biểu hiện bằng đức hiếu, Giữa
trung và hiếu thì trung đứng đầu. Các quan hệ này nho gia gọi là đạo. Khi các quan hệ
này chính danh thì xã hội ổn định, gia đình yên vui. Và ngược lại, nếu xảy ra bất ổn xã
hội để chấn chỉnh lại ba mối quan hệ này thì nho gia lấy giáo dục đạo đức làm cứu
cánh.
Khổng Tử dạy: "Con người nếu không hiếu cha mẹ, không kính tổ tiên thì bất cứ
việc xấu nào họ cũng dám làm. Một người hiếu cha mẹ, kính tổ tiên thì không những là
lời nói việc làm mà khởi tâm động niệm họ đều nghĩ rằng, nếu như việc này ta làm mà
không đúng pháp thì có lỗi với cha mẹ, làm nhục tổ tiên thì họ sẽ không dám làm."
Khổng Tử đã xây dựng thuyết thiên mệnh để làm chỗ dựa vững chắc cho lý luận
đạo đức của mình. Dựa trên thuyết thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng: Thiên mệnh chi vị
tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo và tính tương cẩn, tập tương viễn. Ông cho
rằng, nếu lập đạo của trời, nói về âm và dương; lập đạo của đất, nói về cương và nhu;
thì lập đạo của người , phái nói về nhân và nghĩa.
Đức Khổng Tử nêu lên ngũ luân với thuyết chính danh và chữ “Nhân” để làm

chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Người ta phải giữ năm đạo đó làm
thường, không nên để rối loạn. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, dũng.
 Nhân : Là lòng từ thiện. Khổng Tử nói: Khi ở nhà giữ gìn dung mạo khiêm
cung; khi ra làm việc thi hành một cách kính cẩn; khi giao thiệp với người, giữ lòng
trung thành. Dẫu đi tới các đoàn rợ phương đông và phương bắc, cũng chẳng bỏ ba đức
hạnh cung, kính và trung ấy, như vậy là người có đức nhân
 Nghĩa : Là việc nên làm hay là cách xử sự phải đường hoàng, hào hiệp. Hành
vi của con người phải tuân theo tính chính đáng, chú trọng quy tắc, tiêu chuẩn, trọng
tâm là nghĩa vụ và trách nhiệm. Trước khi làm gì phải xem xét hành vi đó có hướng đến
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 6
điều “thiện” hay không, có thể hiện tiêu chuẩn đạo nghĩa, ý thức trách nhiệm với cộng
đồng hay không.
 Lễ : Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người, mở rộng ra là việc
tuân thủ các quy tắc, nguyên tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Một cách căn bản, chính
nghi lễ và nghi thức làm cho cuộc sống quân bình. Lễ làm bền vững nền văn hiến của
một nước, lễ mà ại hoại thì văn hiến cũng tiêu tan. Khổng Tử nói: "Cung kính mà thiếu
lễ thì làm thân mình lao nhọc. Cẩn thận mà thiếu lễ thì trở thành nhút nhát. Dũng cảm
mà thiếu lễ sẽ trở thành rối loạn. Ngay thẳng mà thiếu lễ sẽ trở nên thô lỗ”.
 Trí : Óc khôn ngoan, sáng suốt. Cảm giác đúng và sai. Biết tiên liệu, tính toán
để hành động hợp đạo lý.
 Tín : Giữ đúng lời, đáng tin cậy. Chữ tín vốn nằm trong 4 điều trên, sau này
được tách ra để thành Ngũ thường. Tín là thước đo, là sự phản ánh 4 giá trị trên.
 Dũng: sức mạnh tinh thần, lòng can đảm, biết xấu hổ vì cái sai cái xấu để vứt
bỏ chúng mà làm theo nhân nghĩa…
Nhân, theo nội dung sách Luận ngữ, là sự phô bày rất thực tiễn và ngoại tại các
phẩm tính của con người. Khổng Tử chia loài người thành ba hạng:
 Thánh nhân: Bậc hiền giả, người thể hiện và chuyển giao minh triết.
 Quân tử: Người cao nhã, kẻ phấn đấu để làm điều chân chính.
 Tiểu nhân: Kẻ “hèn mọn”, hành động không màng tới đạo đức.

Khổng Tử nói: "Người quân tử sợ ba điều: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ
lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời, nên không sợ, (mà còn)
khinh nhờn bậc đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân. Người quân tử ung dung mà
không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không ung dung”.
Trong tu thân, sự học là rất quan trọng. Khổng Tử nói: “Ta đi học là học cho
ta, để gây cái phẩm giá của ta, chứ không phải là để khoe với người. Ta chỉ lo không
làm được những việc đáng cho người ta biết, chứ không lo người ta không biết mình”.
“Muốn nhân mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngu, muốn trí mà không muốn
học thì bị cái che mờ là cao kỳ, muốn tín mà không muốn học thì bị cái che mờ là hại
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 7
nghĩa, muốn trực mà không muốn học thì bị cái che mờ là ngang ngạnh, muốn dũng mà
không muốn học thì bị cái che mờ là loạn, muốn cương mà không muốn học thì bị cái
che mờ là táo bạo khinh suất”.
Muốn trở lại người có "lễ" thì phải học mà học thì phải thông qua chữ Văn. "Văn"
ấy có thể đã thành vǎn và cũng rất có thể đang ở dạng truyền ngôn, bất thành văn. Do
đó vai trò của người thầy là rất quan trọng, đặc biệt là ở tư cách đạo đức.
2. Triết học Pháp gia thời Trung Quốc cổ đại.
1.1Hoàn cảnh ra đời và phát triển:
Quản Trọng (Thế kỷ VI TCN) là người đầu tiên bàn về vai trò của pháp luật
như là phương cách trị nước. Đối với ông, người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình,
chính.Ông được xem là người khới xướng Pháp gia và cũng chính là cầu nối giữa Nho
gia và Pháp gia.
Sau Quản Trọng là Thân Bất Hại (401-337 TCN), Ông đưa ra chỉ trương ly
khai “Đạo đức”, chống “Lễ” và đề cao “Thuật” trong phép trị nước.
Thêm đại biểu nữa của triết học Pháp gia là Thương Ưởng (390-338 TCN) và
Thận Đáo (370-290 TCN). Trong phép trị nước Thương Ưởng đề cao “Pháp” theo
nguyên tắc “Dĩ hình khử hình” (dùng hình phạt để trừ bỏ hình phạt).Còn Thận Đáo là
người nước Triệu và chịu ảnh hưởng triết học về đạo của Lão Tử, nhưng về chính trị
ông lại đề xướng đường lối trị nước bằng tư tưởng pháp trị và đặc biệt là ông chủ
trưởng dùng thuật. Thận Đáo cho rằng Pháp luật phải khách quan như vật “vô vi” và

điều đó loại trừ thiên kiến chủ quan, riêng tư của người cầm quyền. Phải nói rằng đây là
một tư tưởng khá tiến bộ mà sau này Hàn Phi đã tiếp thu và hoàn thiện.
Cuối thời chiến quốc, Hàn Phi (280-233 TCN) người có công tổng kết và hoàn
thiện tư tưởng trị nước của Pháp gia. Ông đã tổng hợp ba quan điểm về pháp, thế, thuật
của ba nhà triết học trên thành một học thuyết có hệ thống và trình bày trong sách Hàn
Phi và ông còn kết hợp ba học thuyết Nho, Lão, Pháp lại với nhau. Từ đó, ông đã phát
triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và
thích ứng với thời đại bấy giờ.
1.2Những luận điểm cơ bản:
 Ba cơ sở của thuyết Pháp trị Hàn Phi:
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 8
Thừa nhận sự tồn tại của lý – tính quy luật hay những lực lượng khách quan
trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội vì vậy con người cần
nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa để hành động cho phù hợp.
Thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Xã hội luôn biến đổi vì vậy
người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của
thời thế để đặt ra chính sách, chế độ và cách trị nước cho thích hợp. Pháp luật biến
chuyển theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay
đổi thì thiên hạ loạn.
Thừa nhận bản tính con người là ác. Trong xã hội người tốt kẻ xấu lẫn lộn,
kẻ xấu thì nhiều hơn người tốt . Vì vậy phải thực hiện Pháp trị để ngăn chặn không cho
họ làm điều ác.
Phép trị quốc của Hàn Phi là học thuyết hoàn chỉnh được tổng hợp từ Pháp,
Thế, Luật, là các công cụ trị nước của bậc đế vương.
 Pháp (法 fǎ): luật hay quy tắc. Luật pháp phải được trình bày rõ ràng và
thông báo rộng rãi cho công chúng. Tất cả thần dân của nhà cai trị đều bình đẳng trước
pháp luật. Luật pháp phải thưởng cho những người tuân phục và trừng phạt những
người bất tuân. Vì thế, nó đảm bảo được rằng mọi phán xét của pháp luật là đều có thể
suy luận theo hệ thống để biết trước được (từ khi phát sinh hành động liên quan tới
pháp luật, đã có thể đoán trước phán xét của pháp luật cho hành động đó là như thế

nào). Hơn nữa, hệ thống luật pháp cai quản đất nước, chứ không phải là nhà vua cai trị.
Nếu có thể làm cho pháp luật có hiệu lực, thậm chí một vị vua kém tài cũng trở nên
mạnh mẽ.
 Thuật (術 shù): phương pháp, thủ đoạn hay nghệ thuật. Những thủ đoạn
đặc biệt và “bí mật” được vị vua cai trị dùng để đảm bảo rằng những người khác (quan
lại ) không thể chiếm quyền kiểm soát quốc gia. Điều đặc biệt quan trọng là không
một ai có thể biết được những động cơ thực sự của những hành động của nhà vua, và vì
thế không ai biết được cách đối xử thế nào để có thể tiến thân, ngoại trừ việc tuân theo
“pháp” hay các luật lệ.
 Thế (勢 shì): tính chính thống, quyền lực hay uy tín. Chính vị trí của
nhà vua cai trị, chứ không phải nhà vua, nắm giữ quyền lực. Vì thế việc phân tích
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 9
khuynh hướng, hoàn cảnh và những yếu tố thực tại là điều căn bản của một vị vua cai
trị thực sự.
 Hình phạt: Theo Pháp gia hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của
dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ
đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được
trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho
nhau”.
 Nông nghiệp và chiến tranh: Hàn Phi coi phú cường là mục tiêu tối cao
của quốc gia. Để đạt tới mục tiêu phú cường đó, Hàn Phi chủ trương áp dụng chính
sách "Canh chiến", đưa hết trăm họ vào hệ thống tổ chức "Canh chiến". Được như vậy
thì vào thời bình, nhân dân sẽ nỗ lực canh tác, làm cho nước giàu, nhờ có pháp lệnh
khuyến khích; một khi xây ra chiến tranh, thì khối nông dân đã được tổ chức sẵn trong
thời bình, đều trở thành lính chiến, có thể đưa ngay ra chiến trường chống giặc.
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 10
CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA
1. Sự tương đồng :
Qua tìm hiểu ở phần cơ sở lý luận ta nhận thấy có những điểm tương đồng giữa Nho

gia và Pháp gia khi so sánh hai quan điểm triết học được coi là có giá trị và có ảnh
hưởng này:
Nho gia và Pháp gia đều là những tư tưởng triết học đã đưa ra những phương cách
giải quyết để tìm cách giải đáp những yêu cầu của thực tiễn lịch sử xã hội Trung Quốc
thời cổ đại đặt ra hòng “cứu đời cứu người” theo cách của mình.
Cả hai phái Pháp gia và Nho gia đều có những tư tưởng xuất hiện giữa thời loạn lạc,
cảnh binh đao triền miên.
Hai phái cùng hướng đến sự thái bình, nhằm mục đích ổn định đất nước, người dân
được no ấm, hạnh phúc. Vì vậy hai phái đều thực hiện chính sách “Thực túc” bằng
Nông nghiệp, “Binh cường” bằng Chiến tranh. Họ mong muốn phát triển nông nghiệp
để nâng cao đời sống vật chất, muốn nước cường thịnh thì dân phải ăn no mặc ấm, gặp
chiến tranh sẽ bảo vệ đất nước chống ngoại xâm, với mục đích cuối cùng nhằm hướng
đến sự thái bình và ổn định đất nước.
Tuân Tử (Nho gia) coi con người sinh ra vốn bản chất là ác = Hàn Phi Tử cũng có cùng
quan điểm (Hàn Phi Tử là học trò của Tuân Tử)
Bên cạnh đó, cả hai hệ tư tưởng đều đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền. Họ nhìn
nhận cấu trúc xã hội cùng những bất bình đẳng như một thực tế đã định và cho phép
chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Cái giá phải trả để có sự hòa hợp xã hội là cá
nhân thuận theo xã hội.
Tuy nhiên, dù mang những ý nghĩa tích cực nhất định, nhưng do hai hệ tư tưởng Nho
gia và Pháp gia còn tồn tại những hạn chế nên cuối cùng cả hai cũng đều đưa xã hội
thời bấy giờ lâm vào bế tắc. Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh - Thanh trở nên già
cỗi, khắt khe và bảo thủ, còn nhà Tần do thực hiện triệt để tư tưởng Pháp gia quá nên
cuối cùng dẫn đến mất nước.
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 11

Mặc dù hai phái đều có mục đích hướng đến ổn định xã hội nhưng khi con người
áp dụng không có sự chọn lọc cho phù hợp với hoàn cảnh tình hình mà áp dụng một
cách rập khuân dẫn đến kết quả không như mong muốn.
2. Sự khác biệt:

Dựa vào cở sở lý luận đã nêu ở chương 1, ta nhận thấy sự khác biệt giữa Nho gia
và Pháp gia:
Sự khác
biệt
Nho gia Pháp gia
Thuyết
trị quốc
Quan điểm Khổng Tử phản đối
việc nhà cầm quyền dùng luật
pháp, hình phạt để cai trị dân. Ông
đề cao đức trị. Ông cho rằng,
nguyên nhân làm cho xã hội loạn
lạc, dân tình khổ sở là do không
“chính danh”, muốn xã hội ổn định
và phát triển thì phải giáo hoá đạo
đức và thực hiện “chính danh, định
phận”. “Chính danh, định phận” là
làm mọi việc cho ngay thẳng,
người nào có địa vị, bổn phận
chính đáng của người ấy cứ thế mà
làm, trên dưới, vua tôi, cha con,
chồng vợ trật tự được phân minh,
“Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha
cho ra cha, con cho ra con” (Luận
ngữ, Nhan Uyên, 11). Ông nói:“nếu
không chính danh thì lời nói sẽ
không đúng đắn, lời nói không
đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành
sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng
danh thì đúng với phận, với nghĩa,

đã xưng danh đúng với danh phận,
thì phải tùy theo đó mà làm” (Luận
ngữ, Tử Lộ, 3).
Khổng Tử cho rằng: cai trị dân
mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào
khuôn phép mà dùng hình phạt thì
Pháp gia đề cao "Thế" (Thận
Đáo), "Thuật" (Thân Bất Hại),
"Pháp"( Thương Ưởng) trong phép
trị nước và Hàn Phi Tử là người
đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó.
Ông cho rằng "Pháp", "Thế",
"Thuật" là ba yếu tố thống nhất
không thể tách rời trong đường lối
trị nước bằng pháp luật. Trong sự
thống nhất đó, "Pháp" là nội dung
trong chính sách cai trị được thể
hiện bằng luật lệ. Pháp được hiểu là
qui định, luật lệ có tính chất khuôn
mẫu mà mọi người trong xã hội
phải tuân theo; là tiêu chuẩn khách
quan để định rõ danh phận, trách
nhiệm của con người trong xã hội.
Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai
khiến bề tôi, không đặt ý ngoài
pháp, không ban ơn trong pháp,
không hành động trái pháp; "Thế"
là công cụ, phương tiện tạo nên sức
mạnh. Địa vị, thế lực, quyền uy đó
của người trị vì phải là độc tôn

(Tôn quân quyền). Theo Hàn Phi
Tử, thế quan trọng đến mức có thể
thay thế vai trò của bậc hiền nhân.
Muốn thi hành được “pháp” thì
phải có “thế”. Pháp và thế không
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 12
dân có thể tránh được tội lỗi nhưng
không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà
dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn
phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết
liêm sỉ và thực lòng quy phục. Nội
dung đường lối đức trị là thực hiện
3 điều: dân đông, kinh tế phát triển,
dân được học hành. Biện pháp để
thi hành là: thận trọng trong công
việc, gìn giữ chữ tín, tiết kiệm
trong tiêu dùng, thương người, sử
dụng sức dân hợp lý… Để xây
dựng xã hội đại đồng, cần dựa vào
sự nghiệp giáo dục để uốn nắn
nhân cách, bồi dưỡng đào tạo nhân
tài theo hai phương châm: tiên học
lễ, hậu học văn và học đi đôi với
hành, học để vận dụng vào thực tế.
Để học tốt, người học trò phải có
tinh thần khiêm tốn và cầu tiến, biết
suy tư và luôn tích cực trong học
tập… Mạnh Tử chủ trương thực
hành đường lối đức trị dựa trên tinh
thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc

thứ chi, quân vi khinh có nghĩa là,
Dân quý nhất, kế đến là đất nước
và lúa gạo, còn vua là cái quý sau
cùng), nhân chính và thống nhất…
Khổng Tử cho rằng: Danh
không chính thì ngôn chẳng thuận,
ngôn chẳng thuận thì việc không
thành, việc không thành thì lễ -
nhạc bất hưng, lễ - nhạc bất hưng
thì hình phạt không trúng lý, hình
phạt không trúng lý thì dân biết
bám víu vào đâu? Người quân tử
quan niệm được danh thì nói được,
nói được thì làm được.
Theo Mạnh Tử, thì cách cai trị
đất nước cũng bằng đức trị và thực
hành chính danh để xây dựng một
xã hội đại đồng, … Triết lý này
được trình bày thành một hệ thống
tách rời nhau."Thuật" là phương
pháp cách thức để thực hiện nội
dung chính sách cai trị. Là mưu
lược khiển việc, khiến người ta triệt
để thực hiện mệnh lệnh mà không
hiểu người sai dùng họ như thế nào.
Thuật bao gồm 3 mặt là bổ nhiệm,
khảo hạch và thưởng phạt. Tất cả
đều là công cụ của bậc đế vương.
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 13
bao gồm các tư tưởng về đạo đức –

chính trị – xã hội có quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Chính trị
xã hội
Khổng Tử – người sáng lập Nho
gia, đã làm hết sức nhằm mục đích
cho người quân tử cai trị đất nước.
Ông tin chắc rằng, nền tảng của
việc cai trị đất nước chính là tự chế
ước bản thân. Một vị quân chủ cao
quý nắm giữ chính quyền sẽ tự
nhiên mang lại hòa bình và ổn định
cho đất nước. Khổng Tử đã từng
nói: “Bản thân mà chính đáng, dù
không cần mệnh lệnh thì (người
khác) cũng thi hành; còn nếu bản
thân không chính đáng, dù có mệnh
lệnh thì (người khác) cũng không
tuân theo” (Kỳ thân chính, bất lệnh
nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy
lệnh bất tòng. Luận Ngữ. Tử Lộ).
Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua
đều phải như Nghiêu Thuấn –
thánh hiền mang tính lý tưởng,
song theo ông, tiền đề quyết định
sự thành bại trong việc trị nước
chính là đức hạnh của nhà vua đang
trị vì. Đức hạnh đó được gọi là
“nhân” và đạt được qua “lễ” (chế
ước bản thân quay về với điều lễ là

nhân. “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”).
Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ,
thường coi xưa hơn nay; tâm
nguyện của ông là làm sao để xã
hội có thể trở về trạng thái xưa cũ.
Mặc Tử, ông tổ phái Mặc gia, cũng
rất đề cao quá khứ. Theo ông, một
trong ba tiêu chuẩn của chân lý
(phép “Tam biểu”), là lời nói của
thánh nhân đời xưa, hay những gì
đã từng được nói đến trong quá
khứ.
Hàn Phi Tử đã phê phán một
cách hết sức sắc sảo loại quan
điểm này: “Khổng Tử, Mặc Tử đều
nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ
trương của hai người khác nhau.
Họ đều tự cho mình là Nghiêu,
Thuấn chân chính. Nghiêu, Thuấn
không sống lại, vậy ai sẽ quyết định
đạo Nho hay đạo Mặc là đúng với
Nghiêu, Thuấn? Đời Ân, đời Chu
đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời
Hạ trước đấy đã hơn hai ngàn năm
mà còn không quyết định được cái
đúng của đạo Nho và đạo Mặc. Nay
lại muốn nghiên cứu cái đạo của
Nghiêu, Thuấn cách đây đã ba ngàn
năm, chẳng phải là không thể nào
làm được sao? Nếu như không

tham nghiệm được mà lại quyết
định ngay thì đó là ngu. Nếu không
thể quyết định được mà lại theo
ngay thì đó là dối trá. Cho nên
chuyện nêu cao các tiên vương,
quyết định theo Nghiêu và Thuấn
nếu như không phải là ngu thì cũng
là dối trá vậy. Cái học ngu và dối
trá, cái hành động bác tạp và trái
pháp luật này vị vua sáng không
theo” [1, 561]. Các nhà Nho luôn
muốn thần thánh hóa bậc quân chủ,
song để pháp luật có được tính phổ
quát nhất định, hay nói cách khác,
để có được một nền pháp trị, Pháp
gia nói chung và Hàn Phi Tử nói
riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh
mà những kẻ cai trị luôn muốn tự
khoác lên mình.
Hàn Phi Tử quan niệm nhà
vua cũng chỉ là người bình thường
như bao người khác. Cái làm cho
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 14
đất nước trị hay loạn không phải là
ông vua của nước đó ra sao, mà là
nền pháp trị của nước đó như thế
nào. Hàn Phi Tử quan niệm pháp
luật là công cụ hữu hiệu nhất để
đem lại hòa bình, ổn định và công
bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái

thực tế của việc phải và trái, xét rõ
thực chất của việc trị và loạn, cho
nên trị nước thì nêu rõ pháp luật
đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm
khắc để chữa cái loạn của dân
chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên
hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn
át người yếu, kẻ đông không xúc
phạm số ít, người già cả được thỏa
lòng, người trẻ và cô độc được
trưởng thành, biên giới không bị
xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau,
cha con giữ gìn cho nhau”[4, 130].
Sở dĩ tư tưởng chính trị của
Hàn Phi Tử đối lập với tư tưởng
Nho gia là bởi ông có một quan
niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn.
Khác với Khổng-Mạnh mượn đời
xưa để phê phán đời nay hay lấy cái
quá khứ được tuyệt đối hóa để đo
hiện tại, Hàn Phi Tử cho rằng, mọi
suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý
luận phải đều được bắt nguồn từ
chính thực tiễn của đất nước. Các
nhà Nho trên mây trên gió bàn việc
chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con
nghịch đất, không thể đem lại hiệu
quả thực tế: “Trẻ con đùa nghịch
với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn
làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nhưng

chiều đến, thế nào cũng trở về nhà
ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể
đùa để chơi, nhưng không thể dùng
để ăn. Khen những điều truyền tụng
từ thượng cổ, hùng biện mà không
chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 15
của các tiên vương mà không biết
sửa đổi nước, thì đó cũng đều là
những điều có thể dùng để đùa chơi
chứ không dùng để trị nước” [4,
327].
Hàn Phi Tử phê phán một
cách gay gắt những người hủ Nho,
coi đó là “bọn học giả dốt nát ở đời
không biết bản chất của việc trị và
loạn, cứ nói năng nhảm nhí và dẫn
những sách của người xưa để làm
rối việc cai trị ở đời này Nếu
nghe lời họ thì nguy, nếu dùng kế
họ thì loạn. Đó là điều ngu hết sức
lớn và là mối lo hết sức lớn” [4,
129].
Hàn Phi Tử hiểu rất rõ và sâu sắc
về pháp luật, coi “pháp luật là
mệnh lệnh ban bố rõ ràng ở nơi cửa
công, hình phạt chắc chắn đối với
lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn
thận giữ pháp luật, nhưng phạt
những kẻ làm trái lệnh” [1, 478-

479]. Đây là một tư tưởng hết sức
tiến bộ so với đương thời. Cái gọi
là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi
cửa công” khác xa so với cách cai
trị bởi ý muốn chủ quan của các cá
nhân quý tộc nắm quyền đương
thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố
cho trăm họ, làm cho dân biết pháp
luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm
chuẩn tắc cho hành vi của mọi
người, chứ không phải là cái bẫy để
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 16
hại dân. Các điều luật minh bạch là
phương thức phòng bị tích cực, chứ
không phải là một thủ đoạn chế tài
tiêu cực.
Tố chất
nhà cầm
quyền
Người cầm quyền cần phải có
đức tức là dùng đức trị, phải là tấm
gương cho người dưới noi theo.
Coi trọng cái tài của nhà cầm
quyền.
Về tư
tưởng
biện
chứng
Nho gia: quan điểm bất biến
Theo quan điểm Nho giáo, trời là

lực lượng sinh ra thế giới và con
người, nên trời đóng vai trò chi
phối toàn bộ những gì vận động
xung quanh con người, lương tri,
lương năng của con người cũng do
trời phú mà có nên con người phải
biết kính trời, luôn suy nghĩ và
hành động theo ý trời.
Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn
từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối
tiếp và nâng cao nó lên. Trên trời
chỉ có một mặt trời và dưới đất
cũng chỉ có một ông vua mà thôi.
Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã
nói một câu lừng danh: Thiên bất
biến, Đạo diệc bất biến (Trời không
thay đổi thì đạo cũng không thay
đổi). Khổng Tử dựa vào ba luận
điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo
và thuyết chính danh
Thuyết thiên mệnh: Trời có một
sức mạnh siêu nhiên, mà con người
từ lâu vốn đã tin ở sức mạnh siêu
nhiên cho nên con người cúi đầu
trước Trời thì không thể không cúi
đầu trước con trời (Thiên tử)
Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục
của con người trước siêu nhiên.
Con người một khi đã thần phục
trước siêu nhiên thì cũng không

khó khăn lắm để chuyển sang thần
Pháp gia: quan điểm thời
biến
Pháp gia thừa nhận sự biến
đổi của đời sống xã hội: mọi chủ
trương phải thích hợp với thời, khi
tình hình thay đổi phải thay đổi cho
phù hợp. Do không có chế độ xã
hội nào bất dịch nên không có
khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
Hàn Phi Tử cho rằng, người
thống trị phải căn cứ vào nhu cầu
khách quan của lịch sử, dựa vào
đặc điểm của thời thế mà lập ra chế
độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách
trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi
Tử cho rằng, không có một thứ
pháp luật nào luôn luôn đúng với
mọi thời đại. Pháp luật mà biến
chuyển được theo thời đại thì thiên
hạ trị, còn thời thế thay đổi mà
phép trị dân không thay đổi thì
thiên hạ loạn
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 17
phục trước “siêu người”
Thuyết chính danh: bổ sung cho
thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo.
Ngôi vua là do trời định, thế nhưng
người làm vua cần phải nỗ lực chủ
quan để cái Thực phù hợp với cái

Danh.
Về quan
niệm đạo
đức con
người
Nho gia thể hiện tính nhân bản sâu
sắc trong những quan niệm về đạo
đức con người. Họ xét đạo đức con
người dựa trên hệ thống các phạm
trù như : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
dũng… Với nhân và nghĩa là quan
niệm trung tâm của đạo đức Nho
gia. Nhân là cách đối xử của con
người với con người, để tạo ra
người. Theo Khổng Tử, nhân đó là
lòng thương người (ái nhân), còn
Mạnh Tử cho rằng nhân đó là lòng
trắc ẩn. Nghĩa được hiểu là những
gì hợp đạo lý mà con người phải
làm, bất kể điều đó có đem lại lợi
ích gì cho người thực hiện việc làm
đó hay không (p59&60). Theo Nho
gia thì đạo đức là phương tiện chủ
yếu để cai trị đất nước, là điều kiện
quan trọng để hình thành và hoàn
thiện con người góp phần củng cố
và duy trì trật tự xã hội. (p64).
Pháp gia thừa nhận bản tính con
người là ác mà không xem xét vấn
đề đạo đức con người dựa trên các

phạm trù đạo đức như phái Nho
gia. Do khẳng định bản tính con
người là ác nên theo họ, trong xã
hội, người tốt thì ít mà người xấu
thì nhiều. Vì vậy để xã hội được
yên bình, không thể trông chờ vào
số ít người tốt làm việc thiện (thực
hiện nhân nghĩa trị) mà phải xuất
phát từ số đông, ngăn chặn không
cho họ làm điều ác (bằng cách thực
hiện Pháp trị : lấy pháp luật làm
căn bản trong việc cai trị đất nước,
đặt pháp luật một cách rõ ràng và
ban bố rộng rãi trong cho mọi
người cùng biết để tuân theo
nghiêm chỉnh). Vì quá nhấn mạnh
đến biện pháp trừng phạt nặng nề,
đồng thời thủ tiêu văn hóa, giáo dục
và phủ nhận tình cảm, đạo đức con
người. …nên phái Pháp gia đã đi
ngược lại xu hướng phát triển của
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 18
văn minh nhân loại (p75&76).
Về giáo
dục con
người
Thể hiện rõ ở thuyết nhân trị :
Quan niệm nhà cầm quyền phải lấy
đạo đức mà giáo dục và cảm hóa,
dẫn dắt dân chúng chứ không phải

dùng đến biện pháp cưỡng chế và
hình phạt như phái Pháp gia (p64).
Từ việc thừa nhận bản tính con
người là ác nên quan điểm về giáo
dục con người của phái Pháp gia
mang tính hà khắc. Thể hiện ở
thuyết Pháp trị qua ba quan điểm
Pháp, Thế, Thuật:
Pháp được hiểu là những qui định
có tính chất khuôn mẫu mà mọi
người trong xã hội phải tuân theo.
Thế được hiểu là địa vị, thế lực,
quyền uy của người cầm đầu chính
thể. Muốn thi hành được Pháp thì
phải có Thế.
Thuật được hiểu là phương pháp,
thủ thuật, cách thức, mưu lược điều
khiển việc, khiến người ta triệt để
thực hiện các mệnh lệnh mà không
hiểu người sai dùng họ như thế nào.
Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm,
khảo hạch và thưởng phạt (p75)
Về xây
dựng con
người
-Nho gia quan niệm xây dựng con
người theo chuẩn mực đạo đức, đó
là tiêu chuẩn của người quân tử :
muốn trở thành người quân tử phải
tu thân. Để tu thân phải đạt đạo (là

con đường phải theo, đó còn là
-Quan điểm của Pháp gia trong việc
xây dựng con người trong xã hội
không như Nho gia :
+ Vua : là người cai trị không phải
chú trọng nhiều đến việc tu thân,
theo nghĩa phải sáng suốt và am
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 19
quan hệ mà con người phải biết giữ
để biết ứng xử trong cuộc sống).
Ngoài đạt đạo, người quân tử phải
đạt đức, phải thể hiện được những
phẩm chất tốt đẹp trong cuộc sống,
đồng thời phải biết thi, thư, lễ, nhạc
(p63). Lấy tu thân làm gốc nhưng
người quân tử phải biết hành động
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để
hành động hiệu quả, người quân tử
phải thực hành đường lối nhân trị,
đó là cai trị bằng tình người, bằng
sự yêu người, coi người như bản
thân mình. Không những thế, người
quân tử còn phải chính danh (vua
cho ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha,
con ra con, chồng ra chồng, vợ ra
vợ).
-Với mong muốn xây dựng được
một xã hội đại đồng, Khổng Tử và
các học trò của ông đã đưa ra quan
điểm về xây dựng con người như

sau:
+ Vua : mang phẩm chất của người
cai trị, phải là người quân tử, không
thể là dân võ biền mà phải là người
có vốn văn hóa toàn diện. Vua phải
hiểu và thực hành đạo đức, khi đó
trên dưới sẽ hòa mục.
hiểu những nguyên tắc pháp trị, và
chịu khép mình trong những
nguyên tắc đó. Người cai trị phải
đặt ra hệ thống luật pháp một cách
rõ ràng, ban bố rộng rãi cho mọi
người cùng biết để tuân theo.
+ Tầng lớp nhân dân : hiểu rõ và
thực thi nghiêm chỉnh luật pháp đã
định.
Hàn Phi Tử đòi hỏi vua phải dùng
Pháp như trời (nghiêm minh, không
vị nể), dùng Thuật như quỷ (linh
động, uyển chuyển). Nghĩa là nếu
như Pháp được công bố rộng rãi
trong nhân dân, bắt buộc họ phải
tuân theo thì thuật là cơ trí ngầm, là
thủ đoạn của vua được dấu kín.
Nhờ Thuật mà vua chọn được
người tài năng, trao đúng chức vụ
quyền hạn và loại được kẻ bất tài
(p75&76).
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 20
+Tầng lớp nhân dân : lấy hiếu, đễ

làm gốc thì từ một nhà nhân hậu sẽ
làm cho cả nước nhân hậu. Xã hội
khi ấy sẽ thái bình và ổn định, có
trật tự kỷ cương, đời sống vật chất
đầy đủ, mọi người trong xã hội sẽ
được giáo hóa.
Tuy nhiên việc chỉ đơn thuần lấy
giáo dục đạo đức làm cốt yếu để
xây dựng một xã hội đại đồng như
Khổng Tử mong muốn là chưa đủ.
Vì nền tảng kinh tế của xã hội đó
với chế độ công hữu đã không còn,
khi mà chế độ tư hữu ngày càng
phát triển vào thời bấy giờ. (p64)
3. Nhận xét:
Sự khác nhau giữa Nho gia và Pháp gia về các quan điểm triết học xuất phát từ sự
khác nhau trong cách thức cải tạo xã hội Trung Hoa cổ đại thời bấy giờ. Nho gia với
quan niệm tu dưỡng đạo đức cá nhân đòi hỏi con người sống giản dị, đạo đức, coi trọng
nhân cách và chứa đựng giá trị nhân bản. Với quan niệm “sức dân như sức nước”, “lấy
dân làm gốc” Nho gia đã nhìn thấy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, tuy nhiên
khi cho rằng “lao tâm trị lao lực” thì giá trị xã hội của con người lại bị hạn chế. Do
hàng nghìn năm chịu ảnh hưởng của nề nếp, tôn ti trật tự, đẳng cấp, coi trọng dòng họ
mà phái Nho gia chưa thấy được tầm quan trọng của pháp luật. Điều này đối lập với
chủ trương pháp trị của Pháp gia, sử dụng pháp luật để trị nước. Ban đầu, chủ trương
pháp trị là đúng đắn, bằng việc kết hợp các yếu tố Pháp luật-Hình phạt-Nông nghiệp-
Chiến tranh-Thuật -Thế trong chính sách trị nước mà nhà Tần đã thống nhất được
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 21
Trung Hoa. Nhưng về sau, do triệt để nhấn mạnh các biện pháp trừng phạt nặng nề mà
chính sách pháp trị trở nên quá hà khắc, chính vì điều này mà nhà Tần mất nước.
Đa số các nhà triết học và tư tưởng chính trị Trung Quốc có cái nhìn rất tiêu cực

đối với Pháp gia, buộc tội nó là một xã hội mà ngày nay chúng ta gọi là xã hội chuyên
chế. Nhiều học giả Trung quốc tin rằng chính một phản ứng chống lại pháp gia đã làm
cho chính trị đế quốc Trung Quốc mang nhiều đặc tính cá nhân và đạo đức hơn là sự
nhấn mạnh vào sự cai trị của pháp luật. Tuy nhiên, quan điểm này về nhà Tần có thể là
có thành kiến, bởi vì đa số các sách sử Trung Quốc đều do các học giả Khổng giáo viết
ra, mà những nhà nho Khổng giáo lại bị đàn áp ở thời Tần.
Tuy có những mặt hạn chế nhưng ta nhận thấy cả hai đều hướng việc xây dựng
một xã hội tốt đẹp trên cơ sở những triết lý về con người, cách đối nhân và xử thế giữa
người với người. Tuy vậy, hai triết lý trên giải quyết cùng một vấn đền dựa trên hai
quan điểm khác nhau. Nho gia thì hướng đến đức trị còn Pháp gia thì hướng đến pháp
trị. Nho gia cho rằng để xây dựng một xã hội phồn vinh thì cần phải giáo dụng con
người sao có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… Trong khi đó, Pháp gia hướng đến việc
xây dựng một hệ thống luật lệ có thưởng phạt nghiêm minh.
CHƯƠNG III: MỞ RỘNG VÀ KẾT LUẬN
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 22
1. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho gia đối với xã hội Việt Nam:
 Tích cực:
Nho gia chiếm được vị trí chủ đạo trên vòm trời tư tưởng của chế độ phong
kiến Việt Nam, Nó làm cho sản xuất nông nghiệp và trao đổi hàng hoá được đẩy mạnh
hơn trước.
Nho gia đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá tinh thần của xã
hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, nó làm cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh
mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh Tông. Tạo được truyền thống ham học, truyền thống tôn
sư trọng đạo, truyền thống coi trọng người có học. Tạo được cơ chế tuyển dụng người
tài qua thi cử. Bất cả xuất thân ra sao (nông dân, người thợ, lính tráng ) nếu học giỏi
đỗ đạt thì có thể ra làm quan giúp nước (ở phương Tây thời kỳ này, chức tước chỉ được
chuyển giao nội bộ trong các gia đình quý tộc, dân thường hầu như không với đến)
Hơn nữa sự thịnh trị của Nho gia từ thế kỷ XV cũng là một hiện tượng góp phần
thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học thuyết tích cực
nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm hiểu những quan hệ xã

hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức.
Nho gia được xem là có sức lan tỏa và ảnh hưởng đến Văn học Việt Nam, điển
hình như hai bản tuyên ngôn độc lập như "Nam Quốc Sơn Hà" của Lê Hoàn và "Bình
Ngô Đại Cáo" của Nguyễn Trãi đề cao tính dân tộc, nguyện vọng dành độc lập của
Nhân dân Việt Nam, trong đó ở tác phẩm "Nam Quốc Sơn Hà"
Câu châm ngôn "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" đã có từ nghìn năm của dân tộc Việt
Nam, đối với Nho gia, chữ "Lễ" luôn nhắc đến người dân rằng phải học lễ độ, ứng xử
tôn ti trật tự, đề cao tính lễ kính với người và phải có trên dưới rõ ràng, còn chữ "Văn"
luôn nhắc nhở phải học
 Hạn chế:
Nhưng Nho gia Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng vẫn gắn liền
với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống trị và tư tưởng của giai
cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về trước tuy có một vai trò nhất định
nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân. Và bất cứ một giai cấp bóc lột nào
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 23
ngay cả khi đang lên cũng mang theo những vết bùn nhơ và bàn tay vấy máu của những
người lao động.
Nho gia ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã làm cho chủ nghĩa giáo điều
và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và trong địa hạt giáo dục
khoa học. Bệnh giáo điều và khuôn sáo này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và
nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này
bị dập vào những cái khuôn sẵn có
Nho gia đã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh hoạt
kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ
không hề đếm xỉa đến các tri thức về khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất
và lưu thông.
Nho giáo Việt Nam không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất
của đời sống và của vũ trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng
đến những quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn,
vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất

lực. Nó không giải đáp được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy
trừu tượng.
Khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc biệt phát triển mạnh. Khi
đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống giản dị, những quan hệ xã
hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực của suy sụp cùng với xã hội
phong kiến thì nó trở nên phản động, cổ hủ và lạc hậu.
Do đó,bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít tác
động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn còn là nhân tố kìm hãm sự phát triển văn hoá tại
các vùng nông thôn Việt Nam.
Tuy nhiên Nho giáo còn có những mặt hạn chế mà mỗi thời đại trong lịch sử Việt
Nam đều có sự nhìn nhận và kế thừa. Tóm lại, cả hai mặt tiến bộ và hạn chế của Nho
giáo đều để lại dấu ấn trên những con người Nho sĩ. Có người thì mặt tốt nhiều hơn mặt
xấu, có người thì ngược lại. Sự tốt xấu đó là kết quả của hoàn cảnh khách quan cũng
như yếu tố chủ quan của mỗi người quyết định.
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 24
Nho giáo Việt Nam được xem là một trong những tín ngưỡng quan trọng của Việt
Nam, đóng góp trong việc xây dựng chỗ dựa vững chắc trong việc phát triển kinh tế,
lịch sử, kiến trúc và tồn tại các triều đại phong kiến như nhà Lý, Trần Lê, Nguyễn,
Hiện nay có khoảng 3,5% đến khoảng 4% dân số theo Nho gia, nhưng hầu hết là ở Bắc
Bộ.
Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho gia đối với xã hội Việt Nam:
Trong lịch sử Việt Nam, không ai là một nhà tư tưởng theo phái Pháp gia thực sự
cả, vì học thuyết ấy không được truyền bá rộng ở ta. Tuy không theo hoàn toàn nhưng
Hồ Chí Minh cũng vận dụng những ưu điểm của tư tưởng “pháp trị” để thể hiện nổi bật
ở việc bảo đảm tính khoa học, hiệu lực và nghiêm minh của pháp luật.
2. Ảnh hưởng nho gia, pháp gia với tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thái độ nhất quán của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đối với Khổng Tử và Nho
giáo, thái độ ấy đã được Người nêu rõ trong bài nói tại Hội nghị huấn luyện toàn quốc
lần thứ nhất 1950: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử
có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”. Trong

suốt 60 năm hoạt động cách mạng phong phú và sôi nổi của mình, Hồ Chí Minh đã
hàng trăm lần vận dụng các mệnh đề tư tưởng Nho gia và đặc biệt trong lời kết thúc
buổi ra mắt của Đảng Lao Động Việt Nam năm 1951, Người đã dùng ba mệnh đề bất
hủ của Nho giáo nói về tiêu chuẩn của người quân tử là “Giàu sang không thể quyến rũ,
Nghèo khó không thể chuyển lay, Uy lực không thể khuất phục” để khái quát phẩm
chất của người cộng sản Việt Nam (Chính Người là kết tinh đẹp đẽ nhất, trong sáng
nhất của phẩm chất ấy).
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng nêu ra hạn chế trong tư tưởng trọng nam khinh nữ,
tư tưởng coi khinh lao động chân tay, bệnh danh lợi địa vị… phải triệt để phê phán.
Pháp luật là tất yếu cần cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, làm hình
thành mọi quan hệ xã hội hợp với chuẩn đã định. Không có pháp luật thì xã hội khó mà
tồn tại được. Cho nên trước Cách mạng Tháng Tám và ngay sau ngày tuyên bố độc lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghĩ đến, đã tự thân lo việc soạn thảo Hiến pháp và Luật
pháp.
ĐỖ DIỆU THÚY TRANG 25

×