Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học toán 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.7 KB, 18 trang )

PHẦN I . TÓM TẮT
Qua thực tế giảng dạy ở các trường Tiểu học hiện nay, tình trạng học sinh
còn gặp nhiều khó khăn trong môn Toán, nhiều em chưa có khă năng tư duy,
tính toán còn chậm, khi gặp vấn đề khó có ý lảng tránh, ngại giải quyết còn ỷ lại
vào thầy, vào bạn . Trong thực tế ở các trường tiểu học chất lượng học tập của
học sinh còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn. Một bộ phận không nhỏ học sinh
tỏ ra chán học, không có hứng thú hoặc ít hứng thú, nhút nhát, thiếu mạnh dạn
và tự tin, kết quả học tập thấp dẫn đến tình trạng sợ học môn Toán làm làm ảnh
hưởng đến chất lượng giáo dục của nhà trường.
Mặt khác môn học toán ở Tiểu học góp phần vào việc hình thành và phát
triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam.
Cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí quan trọng vì :
- Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng
dụng trong đời sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học
các môn học khác ở tiểu học và học tập tiếp môn Toán ở trung học.
- Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số
lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có
phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt
động có hiệu của trong đời sống.
- Môn toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương
pháp suy nghĩ, phương pháp luận, phương pháp giải quyết vấn đề, góp phần
phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt sáng tạo. Nó đóng
góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao
động như: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề
nếp và tác phong khoa học.
Qua môn học này, người giáo viên tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh :
- Hình thành hệ thống các kiến thức cơ bản, đơn giản, có nhiều ứng dụng
trong đời sống về số học các số tự nhiên, các số thập phân.
- Có những hiểu biết ban đầu, thiết thực nhất về các đại lượng cơ bản
như : độ dài, khối lượng, thời gian, diện tích…
- Biết cách giải và trình bày bài giải có lời văn


- Thông qua những hoạt động học tập để phát triển một số khả năng trí tuệ
và thao tác tư duy quan trọng như : so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát
hóa, cụ thể hóa…
- Hình thành tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có
kiểm tra, có hợp tác, độc lập và sáng tạo.
1
Để thực hiện được những nhiệm vụ và mục tiêu đó, việc ĐỔI MỚI PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC MÔN TOÁN là rất cần thiết, đặc biệt là đối với Toán lớp 5, nó góp
phần nâng cao chất lượng dạy học Toán cho học sinh lớp 5 nói riêng và cho
học sinh Tiểu học nói chung, giúp cho học sinh có kĩ năng học toán. Học sinh
có phương pháp tư duy Toán học, có khả năng biết suy luận logic, kĩ năng trình
bày lời giải cho bài Toán . Qua đó nhằm bồi dưỡng sự say mê học hỏi, say mê
nghiên cứu Toán học ở các em giúp cho các em thấy yêu môn Toán hơn và
cũng là góp phần giúp cho học sinh phát triển toàn diện.
Xuất phát từ những bối cảnh thực tế, mục đích và tầm quan trọng của môn
Toán nói trên, tôi thấy việc tổ chức một giờ học Toán sinh động, phong phú với
nhiều hình thức học tập là vô cùng cần thiết. Cùng với các môn học khác, nó sẽ
góp phần rèn luyện, phát triển khả năng tư duy của học sinh tiểu học.

2
PHẦN II - NỘI DUNG
I- Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình dạy học, tôi thấy tồn tại một số vấn đề sau :
- Về giáo viên: Do nhiệm vụ đặc trưng của người giáo viên tiểu học là phải
dạy nhiều môn, không có điều kiện chuyên sâu, nghiên cứu sâu về một vấn đề
nên từ trước đến nay, việc lựa chọn phương pháp dạy học cho một giờ lên lớp
còn hạn chế. Phương pháp chủ yếu trong dạy học Toán vẫn là truyền đạt, giảng
giải theo tài liệu có sẵn. Vì vậy, giáo viên thường làm việc một cách máy móc
và thường ít quan tâm đến khả năng sáng tạo của học sinh. Học sinh thường học
tập một cách thụ động, ghi nhớ và làm theo mẫu. Do đó, việc học tập thường ít

hứng thú, nội dung các bài học còn đơn điệu, nghèo nàn, ít quan tâm đến việc
phát triển năng lực cá nhân của học sinh.
- Về học sinh : Do tuổi các em còn nhỏ, tư duy còn cụ thể nên ít chịu suy
nghĩ những vấn đề trừu tượng. Hơn nữa, lối học thụ động, làm theo sự hướng
dẫn của thày cô, làm theo mẫu đã trở thành thói quen của các em. Lối học như
vậy đang cản trở việc hình thành những con người lao động năng động, tự tin,
linh hoạt, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với những đổi mới đang diễn ra hàng
ngày.
II- Lí do:
Dựa vào một số cơ sở thực tiễn trên, tôi đã chọn chuyên đề : “ MỘT
SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN 5” nhằm
gây hiệu quả trong giờ học toán, giúp các em học sinh có cách học mới, tích cực
và chủ động hơn trong giờ học. Qua đó, nâng cao chất lượng dạy và học, góp
phần thực hiện tốt việc thay sách ở tiểu học, cụ thể là môn toán 5.
III- Các vấn đề nghiên cứu trong đề tài:
* Một số hình thức tổ chức hướng dẫn hoạt động học tập Toán theo định
hướng đổi mới phương pháp dạy học.
1- Học cá nhân.
2- Học theo nhóm.
3- Học theo lớp.
4- Trò chơi học tập.
5- Hoạt động thực hành ở ngoài lớp học.
6- Hoạt động ngoại khóa về Toán.
* Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy học Toán 5.
3
1- Phương pháp trực quan.
2- Phương pháp thực hành, luyện tập.
3- Phương pháp gợi mở vấn đáp.
4- Phương pháp giảng giải, minh họa.


I- Khách thể nghiên cứu
- Học sinh lớp 5 của trường
- Giáo viên : Hai cô giáo dạy lớp 5 có lòng nhiệt tình và trách nhiệm cao trong
công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.
- Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 8 năm 2012 – đến tháng 2 năm 2013.
- Kế hoạch nghiên cứu: Qua tham khảo tài liệu kết hợp với kinh nghiệm của
bản thân và thực tế giảng dạy để tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
học Toán cho học sinh lớp 5.
II- Thiết kế:
Chọn hai lớp nguyên vẹn : lớp 5E1 là nhóm thực nghiệm và lớp 5E2 là nhóm
đối chứng. Chúng tôi dùng bài kiểm tra khảo sát đầu năm tác động. Kết quả
kiểm ta cho thấy điểm trung bình của hai nhóm có sự khác nhau, do đó chúng tôi
dùng phép kiểm chứng T- Test để kiểm chứng sự chênh lệch giữa điểm số trung
bình của hai nhóm trước khi tác động.
Kết quả:
Bảng 1: Kiểm chứng để xác định các nhóm tương đương
Đối chứng Thực nghiệm
TBC 6,0 6,3
P= 0,135
P= 0,135 > 0,05 , từ đó kết luận sự chênh lệch điểm số trung bình của hai nhóm
thực nghiệm và đối chứng không có ý nghĩa, hai nhóm được coi là tương đương.
Sử dụng thiết kế hai: Kiểm tra trước và sau tác động đối với các nóm tương
đương ( được mô tả ở bảng 1)
Bảng 2: Thiết kế nghiện cứu :
Nhóm Kiểm tra
trước tác động
Tác động Kiểm tra
sau tác động
Thực nghiệm O1 Dạy học có sử O3
4

dụng trực quan
hình ảnh động ,
trình chiếu
Projecter.
Đối chứng O2 Dạy học không sử
dụng trực quan
hình ảnh động ,
trình chiếu
Projecter.
O4
Ở thiết kế này chúng tôi sử dụng phép kiểm chứng T- Test độc lập.
- Do xác định được tầm quan trọng của môn Toán học trong chương trình và
đứng trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình mới, tôi
thiết nghĩ người giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Toán học cần phải nắm chắc
được nhiệm vụ yêu cầu của phân môn Toán, nắm được chương trình, nội dung
môn Toán của tất cả các khối lớp, phương pháp giảng dạy Toán học để giảng
dạy cho học sinh có được phương pháp học tập tốt nhất.
- Để đánh giá được kết quả học tập của học sinh cũng như sự tiến bộ trong học
tập của các em qua quá trình học tập được thông qua các bài kiểm tra.
III. Quy trình nghiên cứu :
* Chuẩn bị của giáo viên:
- Cô Hà dạy lớp đối chứng : Thiết kế bài học không sử dụng trực quan hình ảnh
động, trình chiếu(các tệp có định dạng Flash và Videoclip), quy trình chuẩn bị
bài như bình thường.
- Lớp thực nghiệm : Giáo viên thiết kế kế hoạch bài học có sử dụng trực quan
hình ảnh động, trình chiếu (sử dụng các tệp Flash và Video Clip); Sưu tầm , lựa
chọn thông tin tại các website baigiangbachkim.com, giaovien.net và tham
khảo các bài giảng của đồng nghiệp.
* Tiến hành thực nghiệm:
Thời gian tiến hành thực nghiệm vẫn tuân theo kế hoạch dạy học của nhà

trường và theo thời khóa biểu để đảm bảo tính khách quan.
IV- Đo lường và thu thập dữ liệu.
Bài kiểm tra trước tác động là bài kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm môn
Toán, do Phòng giáo dục ra đề thi chung cho các trường.
Bài kiểm tra sau tác động là bài kiểm tra giữa kì I, cuối kì I do Chuyên môn
trường và Phòng giáo dục ra đề.
Sau đó nhóm nghiên cứu cùng hai cô giáo tiến hành chấm bài theo đáp án đã
xây dựng.
5
Bảng 3: So sánh điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động:
Đối chứng Thực nghiệm
Điểm trung bình 7,21 8,09
Độ chênh lệch 0,93 0,72
Giá trị P của T- test 0, 00003
Chênh lệch giá trị TB
chuẩn (SMD)
0,9
Như phần trên cho thấy được kết quả của hai nhóm trước tác động là tương
đương. Sau tác động, kiểm chứng chênh lệch trung bình bằng T- Test cho kết
quả P= 0,00003, cho thấy sự chênh lệch giữa điểm trung bình nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng rất có ý nghĩa, tức là chênh lệch kết quả điểm trung
bình nhóm thực nghiệm cao hơn điểm trung bình nhóm đối chứng là không ngẫu
nhiên mà là do kết quả của tác động.
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD =
8,09 7,21
0,9
0,93

=
Theo bảng tiêu chí Cohen, chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD= 0,9 cho

thấy mức độ ảnh hưởng thực nghiệm là lớn.

6
PHẦN IV: PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ
I. Một số hình thức tổ chức hướng dẫn hoạt dộng học tập Toán theo định
hướng đổi mới phương pháp dạy học.
1. Học cá nhân.
- Hoạt động chủ yếu :
+ Khi bắt đầu mỗi hoạt động (học bài mới, thực hành, luyện tập, …) giáo
viên có thể hướng dẫn bằng lời ( nói ngắn gọn, rõ ràng )hoặc bằng viết (nêu
trong phiếu giao việc, phiếu học toán, phiếu bài tập…)
+ Học sinh tự học theo hướng dẫn của giáo viên với sự hỗ trợ của phiếu
học sinh, đồ dùng học Toán của sách giáo khoa, …để chiếm lĩnh tri thức mới, để
luyện tập, thực hành theo khả năng của cá nhân, để tự kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập.
+ Trong quá trình học của cá nhân, học sinh có thể hỏi ý kiến, trao đổi ý
kiến với giáo viên. Học sinh có thể rời chỗ ngồi đến hỏi ý kiến giáo viên để
không làm ảnh hưởng đến việc học tập của các bạn. Giáo viên có thể đến chỗ
ngồi của một số học sinh để theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, trao đổi ý kiến…Khi
cần thiết, giáo viên có thể cho một nhóm học sinh hoặc cả lớp ngừng hoạt động
để trao đổi chung, báo cáo kết quả, để nhắc nhở hoặc hướng dẫn chung.
- Điều kiện:
+ Học sinh phải chuẩn bị sẵn các đồ dùng học Toán, tài liệu học Toán của
cá nhân ( thường là các phiếu học toán, sách giáo khoa…)
*Một số kinh nghiệm:
+ Giáo viên có thể sử dụng các vở bài tập toán , hoặc Ôn luyện Toán theo
chuẩn kiến thức kĩ năng ( do NXB Giáo giục phát hành) cho học sinh làm bài
trong các giờ ôn luyện.
+ Nên khuyến khích cha mẹ học sinh tự làm các bộ đồ dùng học toán theo
sự hướng dẫn của giáo viên.

+ Giáo viên nên chọn một số hoạt động, bài luyện tập yêu cầu mọi học
sinh phải làm và có hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá. Không yêu cầu học sinh làm
việc “đồng loạt” mà nên khuyến khích học sinh làm theo khả năng cá nhân,
tránh hoặc hạn chế tình trạng học sinh đã làm xong bài nhưng phải chờ các bạn
khả rồi mới chuyển sang làm bài khác.
2. Học theo nhóm
- Cách chia nhóm: Tùy theo tính chất và nội dung của bài học, tiết học, có
thể chia nhóm trong dạy học toán như sau:
7
+ Nhóm hỗn hợp (có cả học sinh giỏi, khá, trung bình, …). Loại nhóm này
thường gọi là “nhóm học tập” và thướng hoạt động trong các tiết học Toán để
giúp đỡ lẫn nhau khi cần thiết.
+ Nhóm theo trình độ ( nhóm học sinh giỏi, nhóm học sinh trung bình)
Loại nhóm này thường thường làm trong một số tiết thực hành, luyện tập Toán
theo phiếu giao việc, phiếu bài tập Toán phù hợp với năng lực của từng đối
tượng học sinh.
+ Nhóm theo sở trường (chỉ dành cho đối tượng đặc biệt trong các hoạt
động nhoại khóa, tự chọn về Toán). Chẳng hạn, nhóm học sinh tham gia các lớp
bồi dưỡng học sinh giỏi toán, hoặc nhóm học sinh tự chọn theo trình độ nâng
cao…
Việc chia nhóm có thể cố định hoặc không cố định. Tùy theo yêu cầu của
tiết học, khả năng tổ chức của giáo viên và sự tiến bộ cũng như nguyện vọng
của học sinh, có thể cố định loại nhóm này nhưng không cố định loại nhóm
khác. Mỗi nhóm nên có nhóm trưởng để giúp giáo viên điều hành hoạt động của
nhóm.
- Hoạt động chủ yếu:
+ Theo hướng dẫn của giáo viên, các nhóm trưởng tổ chức các hoạt động
của nhóm: thực hành, luyện tập theo sự phân công của nhóm trưởng, thảo luận
nhóm để tìm cách giải quyết từng vấn đề của tiết học…
+ Nên phối hợp học nhóm với học cá nhân, đặc biệt khi cần giải quyết,

đánh giá một vấn đề mới.
- Điều kiện:
+ Nên có bàn học sinh thích hợp với sắp xếp chỗ ngồi để học nhóm. Tốt
nhất và động cơ hơn cả là loại bàn cá nhân làm bằng vật liệu nhẹ, bền, dễ di
chuyển.
+ Mỗi học sinh có đủ tài liệu, đồ dùng học tập, dụng cụ cần thiết để thực
hiện hạt động của nhóm( ở trong hoặc ngoài lớp).
- Kinh nghiệm:
+ Chỉ nên tổ chức học nhóm (ở trong lớp) khi có những vấn đề mà từng
học sinh có thể tự giải quyết được. Các hoạt động ngoài lớp nên tổ chức theo
nhóm để nâng cao chất lượng học tập và tự quản của học sinh.
+ Khi làm việc, học tập theo nhóm, học sinh thường mạnh dạn trao đổi ý
kiến. Vì vậy nên khuyến khích học sinh tìm tòi, sáng tạo, phê phán, đánh giá để
phát triển khả năng của cá nhân.
+ Giáo viên nên chuẩn bị sẵn các phiếu giao việc và thường xuyên liên kết
với các nhóm trưởng để giúp các nhóm hoạt đông học tập có hiệu quả.
3. Học theo lớp
8
- Hoạt động chủ yếu: thực hiện một số hoạt động chung của toàn lớp như:
+ Nghe giáo viên hướng dẫn cá nhân, học theo nhóm.
+ Trao đổi ý kiến, đánh giá kết quả, chữa bài chung của toàn lớp.
- Điều kiện:
Nội dung hoạt động chung của lớp cần được giáo viên, học sinh hoặc
nhóm học sinh chuẩn bị chu đáo để tiết kiệm thời gian hoạt động của cả lớp.
- Kinh nghiệm:
+ Nên lựa chọn nội dung, hình thức hoạt động học tập chung của cả lớpđể
nâng cao hiệu quả học theo lớp.
+ Nên phối hợp đúng mực giữa học cá nhân, học theo nhóm, học theo lớp.
4. Trò chơi học tập.
Trò chơi học tập bao gồm các trò chơi có mục đích học tập rõ rệt. Trong

dạy học Toán ở tiểu học các trò chơi học tập toán có nhiều tác dụng gây hứng
thú học tập, góp phần làm cho tiết học trở nên sinh động, kích thích trí tưởng
tượng, trí nhớ của học sinh.
- Hoạt động chủ yếu: tổ chức chơi theo từng nhóm, từng cá nhân hoặc cả
lớp. Khi chơi, học sinh phải sử dụng cùng một lúc nhiều kiến thức đã học.
- Điều kiện: Mọi tiết học đều có thể tổ chức trò chơi học tâp.
Giáo viên nên chuẩn bị nội dung trò chơi theo phiếu học toán để mọi học
sinh có thể được tham gia trò chơi.
- Kinh nghiệm:
+ Tùy theo yêu cầu, nội dung của từng tiết học mà chọn thời điểm tổ chức
trò chơi học tập.
+ Không nên nghĩ rằng cứ tổ chức trò chơi là lớp học sẽ ồn ào. Có những
trò chơi đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ nhiều nhưng sẽ mang lại cho các em
niềm vui trong hoạt động trí óc.
+ Nên phối hợp hoạt động cá nhân, của nhóm và của cả lớp khi tổ chức
trò chơi học tập.
- Có thể cho học sinh tham gia trò chơi tiếp sức theo nhóm. Đây là một trò
chơi tạo được nhiều hứng thú trong học tập của học sinh, phát huy được tư duy
sáng tạo, phản ứng nhanh nhạy của học sinh.
5. Hoạt động thực hành ở ngoài lớp học
- Hoạt động chủ yếu: thực hành đo độ dài, tham gia một số cơ sở sản xuất,
một số cửa hàng có sử dụng các dụng cụ đo khối lượng (các loại cân khác
nhau), đi thu thập số liệu phục vụ cho học tập toán…
- Điều kiện:
9
+ Giáo viên lập kế hoạch hoạt động thực hành ngoài lớp từng tháng, từng
kì, từng năm học.
+ Giáo viên cần nêu rõ mục đích, yêu cầu cụ thể cần đạt được và kế hoạch
thực hiện từng buổi hoạt động ở ngoài lớp.
- Kinh nghiệm:

+ Nên chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ để buổi học đạt kết quả tốt.
+ Nên dùng phiếu giao việc, trong đó chỉ rõ từng việc phải làm, kết quả
cần đạt…dưới dạng câu hỏi, các biểu bảng đơn giản, dễ thực hiện.
6. Hoạt động ngoại khóa về Toán.
- Hoạt động chủ yếu:
+ Tổ chức các nhóm bồi dưỡng học sinh giỏi toán, giúp đỡ các học sinh
học kém toán…
+ Tổ chức các cuộc thi : Giải toán, đố vui về toán, làm toán tuổi thơ, trò
chơi tiếp sức,
- Kinh nghiệm:
+ Nên kết hợp với các sinh hoạt chung ở lớp, ở trường để tổ chức các
cuộc thi về Toán.
+ Nên tổ chức các nhóm học sinh ham thích học Toán, hoặc nhóm học
sinh giỏi Toán hay nhóm học sinh cần có sự giúp đỡ thêm về Toán.
II. Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy học Toán.
1. Phương pháp trực quan.
Mục đích của việc sử dụng trực quan là tạo ra chỗ dựa để phát triển tư duy,
để dạy các nội dung trừu tượng, khái quát Sự gương mẫu của giáo viên khi
nói, viết, vẽ hình đều là hình ảnh trực quan thiết thực nhất để học sinh noi theo.
Tránh sử dụng tùy tiện.
Ví dụ: Khi dạy học một bài mới, dạng toán có lời văn, chẳng hạn dạng bài
nói về nhiều hơn một số đơn vị ( ở các tiết “ Cộng, trừ hai số thập phân”), ta
không cần phải vẽ sơ đồ rồi mới giải, vì học sinh đã có kĩ năng làm loại toán đó.
Việc dùng trực quan lúc này sẽ không hỗ trợ cho việc phát triển tư duy của học
sinh. Song khi dạy các tiết toán về hình học như trong việc hình thành khái
niệm, biểu tượng về diện tích hình tam giác, hình thang, hình hộp chữ nhật, hình
lập phương thì không thể thiếu được hình ảnh trực quan, hình ảnh trực quan
lúc này là rất cần thiết trong việc hình thành kiến thức chắc chắn cho học sinh.
2. Phương pháp thực hành, luyện tập.
Đây là phương pháp chiếm tới 50% tổng số thời gian học Toán. Qua thực

hành- luyện tập, học sinh càng hiểu và nắm vững kiến thức mới. Trong việc tổ
chức phưong pháp này, cần chú ý phát huy tính tích cực của học sinh, tránh áp
10
đặt cho học sinh. Nên cho học sinh thực hành nhiều để nắm vững kiến thức đã
học.
3. Phương pháp gợi mở vấn đáp.
Phương pháp gợi mở- vấn đáp là phương pháp dạy học không trực tiếp đưa
ra những kiến thức hoàn chỉnh mà sử dụng hệ thống các câu hỏi để hướng dẫn
học sinh suy nghĩ và lần lượt trả lời từng câu hỏi, từng bước tiến đến kết luận
cần thiết, giúp học sinh tự tìm ra kiến thức mới. Sử dụng phương pháp này sẽ
giúp lớp học sôi nổi, gây hứng thú học tập, tạo niềm tin vào khả năng học tập
của học sinh. Phương pháp này có thể sử dụng khi dạy học kiến thức mới, thực
hành- luyện tập, kiểm tra đánh giá, ôn tập củng cố kiến thức.
Ví dụ:Khi dạy bài: “Hỗn số” (tiếp theo), giáo viên có thể sử dụng một số
câu hỏi gợi mở sau:
- Hãy đọc hỗn số chỉ số phần hình vuông đã được tô màu?
- Hãy đọc phân số chỉ số phần hình vuông đã được tô màu?
- Dựa vào hình vẽ, hãy giải thích vì sao hỗn số (
5
2
8
) bằng phân số (
21
8
)?
- Gợi ý: + Hãy viết hỗn số (
5
2
8
) thành tổng của phần nguyên và phần

thập phân rồi tính tổng này?
Hay khi dạy bài: “Diện tích tam giác” ta có thể sử dụng câu hỏi gợi mở để
học sinh rút ra công thức tính diện tích tam giác như sau:
+ Hãy so sánh chiều dài DC của hình chữ nhật với độ dài đáy của tam
giác?
+ So sánh chiều rộng AD của hình chữ nhật và chiều cao EH của hình tam
giác?
+ Hãy so sánh diện tích tam giác và diện tích hình chữ nhật?
A B
CD
E
H
11
+ Từ công thức tính diện tích hình chữ nhật, hãy rút ra cách tính diện tích
hình tam giác?
Khi gọi học sinh trả lời, giáo viên và các học sinh khác cần chú ý để nhận
xét hoặc bổ sung. Câu hỏi cần hạn chế những câu mà học sinh chỉ cần trả lời :
“có” hoặc “ không”.
Giáo viên cần dự đoán những khả năng học sinh trả lời để chuẩn bị một số
câu hỏi phụ nhằm dẫn dắt học sinh đi đến câu trả lời vấn đề chủ yếu.
4. Phương pháp giảng giải, minh họa.
Phương pháp giảng giải, minh họa là phương pháp dùng lời để giải thích,
kết hợp với phương tiện trực quan ( làm mẫu, hình vẽ…). Nói chung giáo viên
nên ít sử dụng phương pháp này vì nó hạn chế khả năng tư duy của học sinh.
Khi cần giảng giải, giáo viên nên nói gọn, nói ít, rõ ràng. Nên kết hơp giảng giải
với gợi mở, vấn đáp.
III- Kết quả thu được:
Ứng dụng các hình thức và phương pháp dạy học trên, tôi đã thu được một
số kết quả sau:
- Giờ học trở nên nhẹ nhàng, sôi nổi, sinh động, phong phú hơn.

- Các em tích cực hoạt động và tự tìm ra được kiến thức mới.
- Các em nắm bài nhanh và nhớ lâu hơn.
- Điểm kiểm tra Toán chất lượng các tháng, lớp tôi đều đạt 100%.Tỉ lệ số
điểm giỏi môn toán tăng lên rõ rệt so với đầu năm, cao hơn hẳn so với lớp đối
chứng . Nhiều em trở nên mạnh dạn hơn trong giờ học, không rụt rè như trước.
Chất lượng học tập môn Toán của lớp tăng lên rõ rệt.
- Thông qua các bài kiểm tra định kì, các bài kiểm tra đột xuất của nhà trường,
của PGD quận, kết quả kiểm tra môn Toán của các em đã có sự tiến bộ rõ rệt,
cụ thể như sau:
- Kết quả giữa kì I:
Điểm 9- 10 Điểm 7- 8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5
16 em = 41% 18 em = 46% 4 em = 10% 1 em = 3%
- Kết quả kiểm tra cuối học kì I:
Điểm 9- 10 Điểm 7- 8 Điểm 5-6 Điểm dưới 5
22 em = 56% 16 em = 41% 1 em = 3% 0 em = 0 %
- Lớp chủ nhiệm của tôi luôn được nhà trường đánh giá là lớp có chất lượng học
tập tốt môn Toán . Nhiều em tham gia giải tốt giải Toán Violympic qua mạng,
12
giải Toán tuổi thơ. Các em hăng say, hứng thú trong học tập, tinh thần thi đua
học tập trong môn Toán cao.



13
PHẦN VI : KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học toán 5 đòi hỏi giáo
viên phải nắm chắc được tinh thần đổi mới, định hướng đổi mới, hình thức dổi
mới để thiết kế bài học một cách hiệu quả, đảm bảo giờ dạy theo đúng tinh thần
phát huy tính tích cực của học sinh. Mỗi giờ học, giáo viên đều phải lựa chọn
hình thức dạy học phù hợp để học sinh được phát huy tính chủ động của mình

trong học tập. Có như vậy, chúng ta mới thực hiện được mục tiêu giáo dục đã
đề ra trong quá trình đổi mới.
Qua quá trình giảng dạy, kết hợp với việc sử dụng các tệp có định dạng
Flash và Video clip vào giảng dạy nội dung môn Toán 5, tôi thấy hiệu quả của
giờ học phần lớn phụ thuộc vào sự chuẩn bị của giáo viên.Giáo viên chuẩn bị
tốt bài, chuẩn bị tốt phương án lên lớp thì chắc chắn giờ học sẽ đạt được hiệu
quả như mong muốn. Chính vì vậy, trước khi lên lớp, giáo viên cần:
Nghiên cứu kĩ bài dạy để xác định đúng mục đích, yêu cầu của
bài dạy.
Chọn kiến thức trọng tâm, đúng đặc trưng bộ môn.
Kết hợp các hình thức và phương pháp sao cho giờ học nhẹ
nhàng, sinh động.
Chú ý chọn đồ dùng thích hợp. Có thể sử dụng công nghệ thông
tin trong dạy học.
Tìm tòi thêm tư liệu tham khảo cho học sinh.
Kiên trì hướng dẫn học sinh tỉ mỉ việc học ở lớp cũng như ở nhà.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về việc Đổi mới phương pháp dạy
học Toán . Đề tài này đã được tôi cùng đồng nghiệp giáo viên khối 5 trong
trường áp dụng vào trong giảng dạy qua học kì I của năm học 2012- 2013 và đã
có được kết quả nhất định. Bản thân tôi sẽ tiếp tục áp dụng và chỉnh sửa trong
quá trình dạy học của mình.Tuy nhiên, dù sao đây cũng là ý kiến của cá nhân
tôi, chắc chắn cũng không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong được sự góp ý
của các bạn đồng nghiệp để tôi có thêm kinh nghiệm quý báu phục vụ cho việc
giảng dạy được tốt hơn nhằm nâng cao chất lượng học tập của các em hơn nữa.
Xin trân trọng cám ơn.
14
PHỤ LỤC
Các đề kiểm tra định kì trong năm học
Bài kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm
Thời gian : 40 phút

Bài 1: (1 điểm )Lựa chọn đáp án đúng trong các đáp án sau:
a) Số chia hết cho cả 2 và 5 là:
A- 2105 B- 4022 C- 2080 D- 8734
b) Số 37891 đọc là:
A- Ba bảy nghìn, tám trăm chín mươi mốt.
B- Ba mươi bảy nghìn, tám trăm chín mốt.
C- Ba bảy nghìn, tám trăm chín mốt.
D- Ba mươi bảy nghìn, tám trăm chín mươi mốt.
Bài 2: ( 2 điểm) Tìm x:
a) 425 + X x 123 = 28838 b) 918 : 9 + X = 1253+ 6391
Bài 3: ( 2 điểm)Tính:
a) 2346+ 4578 b) 9874 – 234 c) 456 x 123 d) 8025 : 25
Bài 4: ( 2 điểm) Viết thương sau dưới dạng phân số:
5 : 7 9 : 27 5 : 17 20 : 100
Bài 5: ( 3 điểm) Một vườn hoa hình chữ nhật có chu vi là 240 m. Chiều rộng
bằng
5
7
chiều dài.
a) Tính chiều dài, chiều rộng vườn hoa đó.
b) Người ta sử dụng
1
14
diện tích vườn hoa đó để làm lối đi. Hỏi diện tích lối
đi đó là bao nhiêu mét vuông?

15
ĐỀ KIỂM TRA MÔN TOÁN- GIỮA KÌ I
Bài 1: Viết các số sau dưới dạng số thập phân:
a – Ba mươi đơn vị, năm phần trăm.

b- Ba phần trăm, năm phần nghìn.
c- Một năm mốt đơn vị, ba hai phần trăm.
d- Một trăm đơn vị , ba mốt phần nghìn.
Bài 2: Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng:
a- Số thập phân hai mươi ba phẩy không nghìn một trăm linh năm viết là:
A- 23, 0105 B- 23, 1005 C- 23, 0150 D- 23, 105
b- Chữ số 5 trong số thập phân 123, 405 có giá trị là:
A- 5 B-
10
5
C-
100
5
D-
1000
5
c- Phân số
5
1
đượ viết dưới dạng số thập phân là:
A- 0,5 B- 0,05 C- 0,2 D- 0,02
d- Số thập phân 3, 005 viết dưới dạng hỗn số là:
A- 3
10
5
B- 3
100
5
C- 3
1000

5
D- 3
10000
5
Bài 3: Điền số thích hợp vào chỗ chấm:
123m
2
2dm
2
= dm
2
234 dm
2
= m
2
123,56 dm
2
= cm
2
2309,234 m
2
= dm
2

23 m
2
5 dm
2
= dm
2

4523 m
2
= dam
2
Bài 4: Tính :
a- 3, 235 + 23, 32 b- 125,6+ 45,48
c- 67, 98 + 0, 432 d- 12+ 23,98
Bài 5: Tìm x là số tự nhiên thỏa mãn :
a- 23,5 < x < 24,3
b- 456,7<x< 458,5
Bài 6: Một cửa hàng lương thực buổi sáng bán được 275 kg gạo, buổi chiều bán
được
5
4
số gạo bán buổi sáng. Hỏi cả ngày cửa hàng đó bán được mấy tạ gạo?

16
ĐỀ KIỂM TRA MÔN TOÁN- CUỐI KÌ I
Bài 1: Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng: (1,5đ)
a- Chữ số 5 trong 32, 056 có giá trị là:
A. 50 B. 5 C.
10
5
D.
100
5
b- 12
100
23
được viết dưới dạng số thập phân là:

A. 122,3 B. 1,223 C. 12,23 D.1223,100
c- Tỉ số phần trăm của 4,2 và 5 là:
A. 0,84% B. 8,4% C. 840% D. 84%
Bài 2: Đúng ghi đúng, sai ghi sai: ( 1 đ)
a- 16% của 750 m là 120m.
b- 43% của 213 m
2
là 915 m
2

c- 14% của A là 2,8 thì A là 0,2
d- 7,8% của B là 19,5 thì B là 250
Bài 3: Khoanh vào trước câu trả lời đúng: ( 0,5 đ)
33,75cm
2
là diện tích của hình tam giác có :
A. Độ dài đáy là 15cm, chiều cao là 4,5 cm.
B.Độ dài đáy là 1,5cm, chiều cao là 4,5 cm.
C.Độ dài đáy là 14, 25cm, chiều cao là 3,5 cm.
D.Độ dài đáy là 15cm, chiều cao là 45 cm.
Bài 4: Đặt tính rồi tính: (2đ)
a- 426,32 + 5,435 b- 23,567- 12,49
d- 7,43 x 5,04 d- 10,3 : 4,12
Bài 5 : Tính bằng cách thuận tiện nhất: (2 đ)
a- 34,65 x 5,2 + 15,35 x 5,2 b- 14,76 : 3,6 + 21,24 : 3,6
Bài 6: ( 3 đ) Một trường tiểu học có 450 học sinh khá, giỏi chiếm 75% số học
sinh toàn trường. Hỏi :
a- Trường đó có bao nhiêu học sinh?
b- Số học sinh còn lại chiếm bao nhiêu phần trăm số học sinh toàn trường.
17


MỤC LỤC
Nội dung Trang
PHẦN I: Tóm tắt 1
PHẦN II: Giới thiệu
I-Cơ sở thực tiễn
II- Lí do
III- Các vấn đề nghiên cứu trong đề tài
2
2
2
2
PHẦN III: Phương pháp
I-Khách thể nghiên cứu
II- Thiết kế
III- Quy trình nghiên cứu
IV- Đo lường và thu nhập dữ liệu
3
3
3
4
5
PHẦN IV: Phân tích dữ liệu và bàn luận kết quả
I- Một số hình thức tổ chức hướng dẫn hoạt động học tập Toán
theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học
II- Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy học Toán
III- Kết quả thu được
6
6
9

11
PHẦN VI: Kết luận và khuyến nghị 13
Tài liệu tham khảo 14
Phụ lục 15
18

×