ĐỀ TÀI:
!"
#$%&'
()
*+ ',(
."
TP HCM, tháng 12 năm 2012
/0/
1 *23456789:;<
Với lịch sử phát triển hàng ngàn năm và có một sự ảnh hưởng tư tưởng, văn
hóa đáng kể đến các quốc gia láng giềng, trong đó các tư tưởng triết học ra đời và
phát triển tại Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng. Tư tưởng Âm dương gia là
một trong những trường phái triết học lớn bắt nguồn từ Trung Quốc và có ảnh
hưởng sâu sắc đến xã hội phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Vì vậy, sự
cần thiết về việc nghiên cứu về tư tưởng Âm dương gia và ảnh hưởng của nó đến xã
hội phương Đông sẽ cho chúng ta có một cái nhìn toàn diện hơn về các khía cạnh
của xã hội xung quanh.
- =5:<>?5@A9:;<
Trên cơ sở làm rõ hoàn cảnh ra đời và lý luận của triết học Âm dương gia; ảnh
hưởng của nó đối với xã hội phương Đông, đề tài hướng đến mục tiêu: Làm rõ yếu
tố triết lý âm dương gia trong đời sống xã hội hàng ngày của người phương Đông
B 6CDE<8F6<>85G?
Thuyết Âm dương gia và sự ảnh hưởng của nó đến xã hội Phương Đông ngày nay.
' 6HI8F6JKF6<>8G?
Thứ nhất, phương pháp luận: Người viết sử dụng phương pháp duy vật bin chứng
v duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận cho đề tài.
Thứ hai, vận dụng phương pháp phân tích - tổng hợp để phân tích, khái quát kết quả
nghiên cứu của các mặt khác nhau trong đời sống xã hội hàng ngày có liên quan đến
đề tài.
5. L:5M?5@AN9:;<Gồm 3 chương:
6HI8F1 Cơ sở lý luận của đề tài
6HI8F- Ảnh hưởng của triết học Âm dương gia đến xã hội phương Đông.
6HI8FB Kết luận
O1O0*P*QRS
1 *T56UV6W86:6;86:X<L:675YD3HI8FF<A
Tư tưởng về Âm Dương và Ngũ hành là hai luồng tư tưởng xuất hiện rất sớm
từ thời nhà Thương. Đó là hai cách giải thích khác nhau về bản nguyên, về cấu tạo,
về tính biến dịch của thế giới-vũ trụ, vạn vật và con người. Sang thời Chiến quốc,
Trâu Diễn đã thống nhất hai luồng tư tưởng đó với nhau dưới tên gọi Âm dương gia.
Từ khi có sự hợp nhất giữa chúng thì đã làm cho những tư tưởng triết học Âm
dương - Ngũ hành mang một tính cách thực tế, có khả năng ứng dụng rộng rãi trong
nhiều lĩnh vực thiên văn, y học, dự trắc, xã hội học, địa lý, kinh tế, chính trị,
Học thuyết âm dương nói rõ sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách
quan với hai mặt đối lập thống nhất đó là âm dương. Âm dương là quy luật chung
của vũ trụ, là kỉ cương của vạn vật, là khởi đầu của sự sinh trưởng, biến hóa. Nhưng
nó sẽ gặp khó khăn khi lý giải sự biến hóa, phức tạp của vật chất. Khi đó nó phải
dùng thuyết ngũ hành để giải thích. Vì vậy có kết hợp học thuyết âm dương với học
thuyết ngũ hành mới có thể giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách
hợp lý.
Hai học thuyết này luôn luôn phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau, không thể
tách rời. Muốn nhìn nhận con người một cách chỉnh thể, đòi hỏi phải vận dụng kết
hợp cả hai học thuyết âm dương và ngũ hành. Vì học thuyết âm dương mang tính
tổng hợp có thể nói lên được tính đối lập thống nhất, tính thiên lệch và cân bằng của
các bộ phận trong cơ thể con người, còn học thuyết ngũ hành nói lên mối quan hệ
phức tạp, nhiều vẻ giữa các yếu tố, các bộ phận của cơ thể con người và giữa con
người với tự nhiên. Có thể khẳng định, trên cơ bản, âm dương ngũ hành là một khâu
hoàn chỉnh, giữa âm dương và ngũ hành có mối quan hệ không thể tách rời.
Âm dương gia là một trong những luồng tư tưởng cơ bản của người Trung
Quốc cổ đại. Đến thời Chiến quốc, học thuyết âm dương gia đã phát triển đến một
trình độ khá cao và trở thành phổ biến trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên. Song
học thuyết âm dương gia cũng như các học thuyết triết học Trung Quốc cổ đại là thế
giới quan của người Trung Hoa ở vào một thời kỳ lịch sử đã lùi vào dĩ vãng, lúc đó
lực lượng sản xuất và khoa học còn ở trình độ thấp, cho nên không khỏi có những
hạn chế do những điều kiện lịch sử đương thời quy định Đặc biệt, sự phát triển của
nó chưa gắn với những thành tựu của khoa học tự nhiên cận hiện đại, nó còn mang
dấu ấn của tính trực giác và tính kinh nghiệm. Song học thuyết đó đã trang bị cho
con người tư tưởng duy vật khá sâu sắc và độc đáo nên đã trở thành lý luận cho một
số ngành khoa học cụ thể.
- 6J<Z?J:E9:X<L:675YD3HI8FF<A
-1 *2[?\8]D3HI8F
Lý luận về âm dương được viết thành văn lần đầu tiên xuất hiện trong sách
"Quốc ngữ". Tài liệu này mô tả âm dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại phổ
biến trong vũ trụ, một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một dạng
có âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược Hai thế lực âm và dương tác động lẫn
nhau tạo nên tất cả vũ trụ. Sách "Quốc ngữ" nói rằng "khí của trời đất thì không sai
thứ tự, nếu mà sai thứ tự thì dân sẽ loạn, dương mà bị đè bên dưới không lên được,
âm mà bị bức bách không bốc lên được thì có động đất".
Học thuyết âm dương được thể hiện sâu sắc nhất trong "Kinh Dịch". Theo lý
thuyết trong "Kinh Dịch" thì bản nguyên của vũ trụ là thái cực, thái cực là nguyên
nhân đầu tiên, là lý của muôn vật: "Dịch có thái cực sinh ra hai nghi, hai nghi sinh ra
bốn tượng, bốn tượng sinh ra tám quẻ". Như vậy, tác giả của “Kinh Dịch" đã quan
niệm vũ trụ, vạn vật đều có bản thể động. Trong thái cực, thiếu dương vận động đến
thái dương thì trong lòng thái dương lại nảy sinh thiếu âm, thiếu âm vận động đến
thái âm thì trong lòng thái âm lại nảy sinh thiếu dương. Cứ như thế, âm dương biến
hoá liên tục, tạo thành vòng biến hóa không bao giờ ngừng nghỉ. Vì thế, các nhà làm
Dịch mới gọi tác phẩm của mình là "Kinh Dịch”. Ở "Kinh Dịch", âm dương được
quan nệm là những mặt, những hiện tượng đối lập. Như trong tự nhiên: sáng - tối,
trời - đất, đông - tây, trong xã hội: quân tử - tiểu nhân, chồng - vợ, vua - tôi Qua
các hiện tượng tự nhiên, xã hội, các tác giả trong "Kinh Dịch" đã bước đầu phát hiện
được những mặt đối lập tồn tại trong các hiện tượng đó và khẳng định vật nào cũng
ôm chứa âm dương trong nó: "vật vật hữu nhất thái cực" (vạn vật, vật nào cũng có
một thái cực, thái cực là ầm dương). Nhìn chung, toàn bộ “Kinh dịch” đều lấy âm
dương làm nền tảng cho học thuyết của mình.
Từ thực tế cuộc sống, người Trung Quốc cổ đại cho rằng bản thân vũ trụ cũng
như vạn vật trong nó được tạo thành nhờ vào sự tác động lẫn nhau của hai lực lượng
đối lập nhau là Âm và Dương, và mọi tai họa trong vũ trụ sở dĩ xảy ra cũng là do sự
không điều hòa được hai lực lượng ấy.
Âm là phạm trù đối lập với Dương, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện tượng,
tính chất, quan hệ …) và khuynh hướng như: giống cái, đất, mẹ, vợ, nhu, thuận, tối,
ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn, tĩnh, tiêu cực,…
Dương là phạm trù đối lập với Âm, phản ánh những yếu tố (sự vật, hiện tượng,
tính chất, quan hệ, …) và khuynh hướng như: giống đực, trời, cha, chồng, cương,
cường, sáng, khô, phía trên, bên trái, số lẻ, động, tích cực,…
Âm và Dương không chỉ phản ánh hai loại lực lượng mà còn phản ánh hai loại
khuynh hướng đối lập, không tách rời nhau, ôm lấy nhau, xoắn vào nhau; vì vậy,
trong Âm có Dương, và trong Dương có Âm. Đó cũng chính là sự thống nhất giữa
cái động và cái tĩnh, trong động có tĩnh và trong tĩnh có động và chúng chỉ khác ở
chỗ, bản tính của Dương là hiếu động, còn bản tính của Âm là hiếu tĩnh. Do thống
nhất, giao cảm với nhau mà Âm và Dương có động, mà động thì sinh ra biến; biến
tới cùng thì hóa để được thông; có thông thì mới tồn vĩnh cửu được. Như vậy, sự
thống nhất và tác động của hai lực lượng, khuynh hướng đối lập Âm và Dương tạo
ra sự sinh thành biến hóa của vận vật; nhưng vạn vật khi biến tới cùng thì quay trở
lại cái ban đầu.
-- *2[?\88F^6;86
Theo thuyết duy vật cổ đại, tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế
giới này đều do năm yếu tố ban đầu là “nước, lửa, đất, cây cỏ và kim loại” tức Ngũ
hành “thủy, hỏa, thổ, mộc, kim”
Ngũ hành tương sinh: thuộc lẽ thiên nhiên, nhờ nước cây xanh mọc lớn lên
(thủy sinh mộc), cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ (mộc sinh hỏa, tro tàn tích lại đất vàng
thêm (hỏa sinh thổ), lòng đất tạo nên kim loại trắng (thổ sinh kim), kim loại vào lò
chảy nước đen (kim sinh thủy).
Ngũ hành tương khắc: lẽ xưa nay rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày (mộc khắc thổ),
đất đắp đê cao ngăn nước lũ (thổ khắc thủy), nước dội nhiều nhanh dập lửa ngay
(thủy khắc hỏa), lửa lò nung chảy đồng sắt thép (hỏa khắc kim), thép cứng rèn dao
chặt cỏ cây (kim khắc mộc).
6?_L:F^6;86
Học thuyết Ngũ hành chủ yếu nói về mối quan hệ phức tạp thể hiện ở quy luật
sinh - khắc - chế - hoá và bổ sung cho thuyết Âm Dương hoàn bị hơn.
Tinh thần cơ bản của thuyết Ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ nhau
gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc kết
hợp với hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ nhằm biểu thị mọi sự biến hoá
phức tạp của sự vật.
Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để sinh trưởng, đem
Ngũ hành liên hệ với nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa
lẫn nhau.
Mộc sinh Hoả = Can sinh Tâm
Hoả sinh Thổ = Tâm sinh Tỳ
Thổ sinh Kim = Tỳ sinh Phế
Kim sinh Thuỷ = Phế sinh Thận
Thuỷ sinh Mộc = Thận sinh Can.
Trong luật tương sinh của Ngũ hành còn hàm ý là hành nào cũng có quan hệ về
hai phương diện: Cái sinh ra nó và cái nó sinh ra, tức là quan hệ mẫu tử. Trong quan
hệ tương sinh lại có quan hệ tương khắc để biểu hiện cái ý thăng bằng, giữ gìn lẫn
nhau.
Luật tương khắc:
Mộc khắc Thổ = Can khắc Tỳ
Thổ khắc Thuỷ = Tỳ khắc Thận
Thuỷ khắc Hoả = Thận khắc Tâm
Hoả khắc Kim = Tâm khắc Phế
Kim khắc Mộc = Phế khắc Can
Tương khắc có nghĩa là ức chế và thắng nhau. Trong tình trạng bình thường sự
tương khắc có tác dụng duy trì sự thăng bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì
làm cho sự biến hoá trở lại khác thường. Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai
quan hệ: giữa cái thắng nó và cái nó thắng. Hiện tượng tương khắc không tồn tại
đơn độc; trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh, do đó vạn vật tồn tại và phát
triển.
Luật chế hóa: Chế hoá là chế ức và sinh hoá phối hợp với nhau. Chế hoá bao
gồm cả hiện tượng tương sinh và tương khắc. Hai hiện tượng này gắn liền với nhau
nhằm biểu thị sự cân bằng trong vạn vật; nhưng nếu có hiện tượng sinh khắc thái
quá hoặc không đủ thì sẽ xảy ra sự biến hoá khác thường. Quy luật chế hoá Ngũ
hành là:
− Mộc khắc thổ, thổ sinh kim, kim khắc mộc.
− Hỏa khắc kim, kim sinh thủy, thủy khắc hỏa.
− Thổ khắc thủy, thủy sinh mộc, mộc khắc thổ.
− Kim khắc mộc, mộc sinh hỏa, hỏa khắc kim.
− Thủy khắc hỏa, hỏa sinh thổ, thổ khắc thủy.
O-`0RYOab
Oc
1 X<L:675YD3HI8FF<AE;G8F3=8F:X48F898_675K6HI8Fd8F
Triết học Âm dương gia được ứng dụng vào trong nền y học nói chung và y
học cổ truyền nói riêng của người phương Đông từ rất sớm. Bắt đầu từ thời Chiến
Quốc đã xuất hiện tác phẩm Hoàng đế Nội kinh, đây là pho sách về y học hoàn
chỉnh đầu tiên của y học cổ truyển Trung Quốc. Đến thời Hán, xuất hiện nhà y học
vĩ đại Trương Trọng Cảnh với hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Thương Hàn
Luận và Kim quỹ yếu lược. Học thuyết Âm dương ngũ hành đều là cơ sở triết học
của những tác phẩm kiệt xuất này.
11$8F3=8F:X48FK6]856<A:e56G55I:6f
Thân thể con người được chia ra như sau: Bên ngoài (lưng) là dương, bên
trong (bụng, ngực) là âm; lục phủ gồm tâm, can, tỳ, phế, thận thuộc âm; còn ngũ
tạng gồm tiểu trường, đởm, vị, đại trường, bàng quang, tam tiêu thuộc dương…Còn
theo thuyết ngũ hành, các nhà y học đã đề ra thuyết ngũ tạng để tạo ra một mô hình
tự điều chỉnh gồm năm chức năng của cơ thể là: tâm, can, tỳ, phế, thận và mỗi tạng
của cơ thể đều được ứng với một hành. Ví dụ như can ứng với hành mộc bởi vì tính
của cây gỗ thì cứng cỏi…Ngoài ra cách phân chia dựa theo công năng cơ thể để tìm
sự tương ứng với hành nào đó trong ngũ hành cũng được chấp nhận. Ví dụ hành
mộc và sự vận động, hành hỏa và sự phát nhiệt…
1-$8F3=8F:X48FK6]8:g568F?_>886]8E;56?h8N4J8ij86:\:
Theo các nhà y học cổ truyền thì nguyên nhân của bệnh tật là do sự mất cân
bằng về âm dương trong cơ thể, và mất cân bằng âm dương giữa cơ thể con người
và thiên nhiên. Sự mất cân bằng này được biểu hiện thành sự thiên thắng hay thiên
suy: Dương thắng gây chứng nhiệt: sốt, mạch nhanh, khát nước, táo, nước tiểu đỏ;
Âm thắng gây chứng hàn: người lạnh, chân tay lạnh, mạch trầm, tiêu chảy, nước tiểu
trong…Dương suy như trong các trường hợp lão suy hội chứng hưng phấn thần kinh
giảm; Âm hư gây mất nước, ức chế thần kinh giảm…
Sau khi đã tìm được nguyên nhân gây bệnh, người thầy thuốc sẽ căn cứ vào
các biểu hiện của bệnh nhân thông qua bốn phương pháp tiếp xúc với bệnh nhân (tứ
chẩn) là vọng (nhìn), văn (nghe), vấn (hỏi), thiết chẩn (xem mạch, sờ nắn) rồi kết
hợp triệt để với các tiêu chí ngũ sắc, ngũ chí, ngũ khiếu tìm ra bệnh thuộc tạng nào
rồi lựa chọn cách chữa bệnh hiệu quả nhất.
1B$8F3=8F:X48FN<9?:XTij86:\:
Bệnh phát sinh là do mất cân bằng âm dương cho nên nguyên tắc chữa bệnh cơ
bản nhất là lập lại sự mất cân bằng ấy thông qua các phương pháp khác nhau: Dùng
thuốc, châm cứu, xoa bóp, khí công…
Bệnh ở phần dương thì chữa vào âm, bệnh ở phần âm thì chữa vào dương.
Nguyên tắc Dương bệnh trị âm, âm bệnh trị dương được lập ra dựa trên sự cân bằng
âm dương trong cơ thể con người. Bởi vì phần dương thắng thì phần âm bị bệnh,
phần âm thắng thì phần dương bị bệnh.
Các phương pháp điều trị cơ bản của y học cổ truyền phương Đông như châm
cứu, dùng thuốc điều trị áp dụng triệt để học thuyết trên. Các thầy thuốc sẽ phân
chia các huyệt trên cơ thể con người theo âm dương, ngũ hành để khi chữa bệnh đạt
hiệu quả tốt nhất.
1'$8F3=8F:X48FK6k8Fij86
Bệnh tật nảy sinh là do sự mất cân bằng âm dương. Vì thế, một trong những
nguyên tắc phòng bệnh cơ bản nhất chính là sự cân bằng giữa hai yếu tố âm dương.
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cũng cần biết điều hòa âm dương, ví dụ
khi ăn nước mắm, người ta cho vào ít chanh (vị chua - âm) và cho thêm vào ít
đường (vị ngọt – dương). Như vậy, âm dương mới điều hòa…Đó là những thói quen
rất tốt mà chúng ta cần duy trì
- X<L:675YDHI8FF<AE;hD:6l5
-1l6;<6kAYD3HI8F5@Am6J56:6f
Để tạo nên những món ăn có s$ h%i h&a âm dương, thức ăn được phân biệt
theo năm mức âm dương, ứng với ngũ hành: hn (lạnh, âm nhiều =
thủy); nhit (nóng, dương nhiều = Hỏa); ôn (ấm, dương ít = mộc);lương (mát, âm ít
= kim), và b$nh (trung tính = thổ).
Gia vị, ngoài tác dụng kích thích dịch vị, làm dậy mùi thơm ngon của thức ăn,
chứa các kháng sinh thực vật có tác dụng bảo quản thức ăn, hạn chế sự phát triển
của vi sinh vật, còn có tác dụng đặc biệt là đi&u h'a âm dương, hn nhit của thức
ăn.
Chẳng hạn, g(ng tính nhiệt (dương), cho nên thường dùng kèm theo với những
thực phẩm có tính hàn (âm hơn so với gừng) như bí đao, rau cải, cải bắp, cá, thịt
vịt (rau cải nấu canh với gừng, thịt vịt chấm với nước mắm gừng ). )t cũng thuộc
loại nhiệt (dương), cho nên được dùng nhiều trong các loại thức ăn thủy sản (cá,
tôm, cua, mắm ) là những thứ vừa hàn (âm hơn so với ớt), lại có mùi tanh. Lá
l+t thuộc loại hàn (âm) đi với mít thuộc loại nhiệt (dương). Rau răm thuộc loại nhiệt
(dương) đi với trứng lộn thuộc loại hàn (âm), v.v.
Âm dương mới nhìn tưởng như tương khắc, nhưng biết dùng lại trở nên tương
hợp với nhau. Người phương Tây sẽ không hiểu nổi tại sao khi ăn chè, ăn dưa hấu
là những thứ ngọt mà chúng ta lại nêm thêm muối, chấm muối? Là bởi vì dưa hấu
ngọt, chè ngọt là âm (ngọt trong ngũ vị thuộc hành thổ trung hoà, nhưng so với mặn
thì là âm), có thêm chút muối mặn (dương) sẽ làm cho cái ngọt trở nên đậm đà hơn.
Ngược lại, những món như cá kho, thịt kho mà khi nấu trót cho mặn quá thì cách
chữa tốt nhất chính là cho thêm chút đường cho âm dương tương hợp.
--l6;<6kA]D3HI8F5@A56@:6f
Để tạo nên sự h%i h&a âm dương trong cơ thê, ngoài việc ăn các món đã được
chế biến có tính đến sự quân bình âm dương, còn sử d/ng các thức ăn như nh0ng vị
thu+c đ1 đi&u ch2nh s3 mất quân b$nh âm dương trong cơ th1. Mọi bệnh tật đều xuất
phát từ nguyên nhân gốc là sự mất quân bình âm dương trong cơ thể; vì vậy, một
người bị ốm do thái âm cần được cho ăn đồ dương và ngược lại, ốm do thái dương
sẽ được cho ăn đồ âm để khôi phục lại sự cân bằng đã mất.
Ví dụ, đau b/ng nhit (dương) thì cần ăn những thức hàn (âm) như chè đậu
đen, nước sắc đậu đen (màu đen là âm), trứng gà, lá mơ Đau b/ng hn (âm) thì
dùng các thứ nhiệt (dương) như gừng, giềng Bệnh s+t c7m l8nh(âm) thì ăn cháo
gừng, tía tô (dương); còn s+t c7m n9ng (dương) thì ăn cháo hành (âm)
Truyền thống này không có trong văn hoá phương Tây. Phương Tây chủ yếu
chữa bệnh bằng thuốc, và phòng bệnh cũng bằng thuốc.
-Bl6;<6kA]D3HI8FF<nA56@:6fEo<m6d8FF<A8
Mỗi quốc gia, vùng có địa hình, khí hậu khác nhau sẽ tạo nên môi trường có
tính âm/dương khác nhau và do vậy đòi hỏi đồ ăn cũng phải mang tính âm/dương
phù hợp.
Đông Nam } là xứ nóng (dương), phù hợp cho việc phát triển mạnh các loài
thực vật và thủy sản (âm). Phương Tây là xứ lạnh (âm), phù hợp cho việc chăn nuôi
các loài động vật, tạo nguồn thức ăn thịt, mỡ, bơ sữa (dương). Điều đó cho thấy
chính tự thân thiên nhiên đã có sự cân bằng rồi. Và tuy rằng phương Tây không
nhận thức được quy luật âm dương, nhưng cách ăn truyền thống của họ đã tuân theo
luật âm dương một cách vô thức.
Ngay trong phạm vi một quốc gia thì các vùng khác nhau cũng có truyền thống
ẩm thực khác nhau - sự khác biệt này chủ yếu không phải do thói quen mà chính là
bị chi phối bởi sự khác biệt về môi trường sống. Miền lạnh nên ăn nhiều mỡ hơn, có
nhiều món ăn chế biến bằng cách xào nấu hơn; miền nóng quanh năm nên ăn nhiều
rau hơn, cách chế biến phổ biến là ăn sống, luộc, gần đây là nấu lẩu. Miền lạnh nên
ăn mặn (vị mặn hợp với hành thuỷ - âm), và chống nóng bằng đồ chua. Miền nóng
nên ăn ngọt (vị ngọt hợp với hành thổ - trung hoà) và phải dùng tới thứ cực âm là đồ
đắng mới đủ chống nóng.
Không phải ngẫu nhiên mà các tôn giáo phương Đông nói chung và ở Việt
Nam nói riêng đều khuyến khích p856A_. Ngoài ý nghĩa giáo dục (giới luật cấm sát
sinh), việc ăn chay (ăn thức ăn thực vật) chính là một cách để thông qua chế độ dinh
dưỡng tạo nên những con người âm tính, hiền hòa.
-'l6;<6kA]D3HI8FF<nA56@:6fEo<64C:Nq8F
Làm những công việc nặng nhọc, những nghề hay di chuyển, cần tăng cường
thức ăn dương tính. Người bình dân lao dộng chân tay nặng nhọc, ra nhiều mồ hôi,
cần ăn đồ mặn (dương) để bù vào. Các ngư dân sống bằng nghề biển, thường phải
ngâm mình trong nước (âm), thức ăn phổ biến của dải đất ven biển này là các thứ
hải sản mang tính hàn (âm) nên bù lại phải ăn cay và mặn (dương) rất nhiều (trước
khi lặn xuống biển phải uống nguyên cả chai nước mắm cốt)
B X<L:675YDHI8FF<AE;Ul[lA567886;r3lA:X>8K648F:6@_5@Ast
6q<K6HI8Fd8F
Vì tầm quan trọng của nhà ở với quan niệm truyền thống “nhà ở là cái gốc của
con người, con người xem nhà ở là mái ấm”; xã hội phương Đông đặc biệt chú trọng
vấn đề “phong thủy”. “Phong” và “thủy” là hai yếu tố quan trọng nhất tạo thành tạo
thành vi khí hậu của một ngôi nhà. Phong là gió (thuộc dương); thủy là nước, tĩnh
hơn, thuộc âm. Trong nhà, nếu có gió quá nhiều hoặc nước tù quá đọng đều không
tốt. Người ta vẫn xây dựng các bình phong để lái gió hoặc dựng hòn non bộ để điều
thủy (âm dương điều hòa) là vậy. Ngoài ra, tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên
kết với nhau bằng “mộng”. “Mộng” là cách ghép theo nguyên lý âm dương, nghĩa
là: Phần lồi ra của bộ phận này phải khớp với chỗ lõm tương ứng của bộ phận khác.
Kỹ thuật này tạo nên sự liên kết rất chắc chắn mà vẫn linh động giúp tháo dỡ dễ
dàng.
Đứng dưới góc độ Phong thuỷ, khi mà công trình kiến trúc tồn tại được trong
một thời gian dài thì các yếu tố về cân bằng Âm dương và ngũ hành phải đạt đến
mức độ chuẩn mực. Tức là nó phải bao hàm cả yếu tố thẩm mỹ và tính hài hoà cân
đối. Khi các yếu tố về Âm dương và ngũ hành cân bằng – tức là tính thẩm mỹ, tính
hài hoà và cân đối cao - thì tự bản thân công trình sẽ có tác động tích cực đến ý thức
con người, khiến ngưòi ta có những ý nghĩ trân trọng và có ý nghĩ bảo tồn nó.
Trong cân bằng có yếu tố cân bằng động và cân bằng tĩnh, nhưng chung qui
vẫn cần có sự cân bằng. Để có được sự cân bằng này thì việc điều chỉnh các mảng
đối lập nhau như mảng đặc đối với mảng rỗng, phần gồ ghề với phần phẳng nhẵn,
miếng có kính đối với phần thịt còn lại, phần diện tích sân vườn và phần diện tích
công trình phải tìm được sự hài hoà nghĩa là đạt được những tỉ lệ chuẩn mực. Những
yếu tố cần về sự hài hoà trong kiến trúc hiện đại trên đây cũng chính là quan niệm
của phong thuỷ với khái niệm hài hoà Âm Dương và tính tương sinh của Ngũ hành.
' X<L:675YDHI8FF<AE;86n8F:J5Nq8FNL8Ep86uAv:g88FHw8F5@A
8FHx<<j:
Trong điều kiện tự nhiên và lịch sử - xã hội đặc thù (nóng ẩm mưa nhiều, nông
nghiệp lúa nước, ngã tư đường của các luồng văn minh ) mà người Việt hình thành
và phát triển, triết lý âm dương được nhận thức, vận dụng thể hiện sự quân b$nh –
hi h'a âm dương nhưng thiên v& âm tính.
Ở thành tố văn hóa nhận thức, triết lý âm dương được vận dụng vào giải thích
bản chất của vũ trụ và con người – tiểu vũ trụ. Mọi vật, kể cả con người đều do sự
kết hợp và chuyển hóa của hai yếu tố âm - dương (mẹ - cha; đực – cái) mà thành.
Triết lý âm dương cũng là cơ sở để giải thích về cấu trúc không gian vũ trụ (tam tài,
ngũ hành) và thời gian vũ trụ (lịch âm dương - hệ đếm can chi).
Trong thành tố văn hóa tổ chức đời sống, triết lý âm dương thể hiện qua việc tổ
chức đời sống tập thể và tổ chức đời sống cá nhân của người Việt. Ở bộ phận tổ
chức đời sống tập thể, ba thiết chế xã hội được khảo sát là gia đình (nhà), làng,
nước. Trong tổ chức gia đình, sự quân b$nh âm dương thiên v& âm tính thể hiện ở
việc chú trọng sự hòa thuận, đề cao vai trò của người phụ nữ, cùng với quá trình vận
động trong sự đối lập các mặt: trọng nam, trọng trưởng / trọng nữ; tôn ty trật tự /
tình cảm, cộng đồng, hòa thuận; tập trung tài sản, sở hữu cộng đồng / phân tán tài
sản, sở hữu cá nhân. Trong tổ chức làng xã, triết lý âm dương biểu hiện ở tính tự trị
và tính cộng đồng, tính tôn ty và tính dân chủ, trong đó tính tự trị và tính dân chủ
vừa là nền (trên cở sở nông nghiệp lúa nước) vừa luôn có xu thế lấn lướt (quân bình
âm dương nhưng thiên về âm tính). Trong tổ chức quốc gia – Nước, triết lý âm
dương thể hiện ở quan niệm về Nước. Nước là sự kết hợp của hai yếu tố âm dương
(Lạc Long Quân – Âu Cơ, Đất – Nước). Nhà nước quản lý xã hội bằng cả luật pháp
và phong tục (biểu hiện ở sự song song tồn tại của phép nước và lệ làng). Và ở trong
dân gian, lệ làng có biểu hiện nổi trội (Phép vua thua l lng) – đề cao lệ, đề cao
tình (âm tính).
Ở bộ phận văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, các lĩnh vực được khảo sát bao
gồm: tín ngưỡng, phong tục (lễ hội, cưới hỏi, tang ma) và nghệ thuật (nghệ thuật
thanh sắc và nghệ thuật tạo hình). Đây là bộ phận thể hiện sâu đậm và sinh động
triết lý âm dương. Quân b$nh âm dương thiên v& âm tính trong tín ngưỡng là: tín
ngưỡng đa thần, sự tồn tại lâu dài, phổ biến của tín ngưỡng phồn thực và sự nổi trội
của nữ thần. Trong lĩnh vực phong tục, quân bình âm dương thể hiện qua các nghi
lễ, trò diễn, tục lệ: ở lễ hội, đó là sự quân bình giữa phần lễ với phần hội, giữa phần
thế tục với phần linh thiêng; trong hôn nhân, các nghi thức, các lễ vật luôn thể hiện
cặp đôi đực - cái; trong tang ma, các nghi thức các tục lệ thể hiện quan niệm về quan
hệ giữa thế giới người sống (dương) với thế giới người chết (âm). Trong nghệ thuật
dân gian, bộ phận nghệ thuật thanh sắc thể hiện triết lý âm dương ở giọng ca luyến
láy, ở nhạc cụ nhấn nhá và trong diễn xướng đối ca, đối tỷ; bộ phận nghệ thuật tạo
hình thể hiện triết lý âm dương trong hình thức trình bày cặp đôi, trong nội dung thể
hiện biểu tượng âm dương… Đặc điểm nổi trội của của triết lý âm dương trong tổ
chức đời sống cá nhân là tín ngưỡng phồn thực tồn tại lâu dài và thấm đượm trong
mọi hoạt động của người Việt, từ nghi lễ cho đến trò diễn, trò chơi và sáng tạo nghệ
thuật…
Triết lý âm dương trong ứng xử với môi trường tự nhiên thể hiện qua hai mặt
hoạt động: tận dụng môi trường tự nhiên và ứng phó với môi trường tự nhiên. Ở mặt
tậm dụng môi trường tự nhiên (ăn uống, chữa bệnh), người Việt luôn hướng tới sự
quân bình âm dương giữa các nguyên liệu chế biến thức ăn, giữa thức ăn với cơ thể
và giữa cơ thể với môi trường. Cũng do ở xứ nóng nên cơ cấu bữa ăn của người Việt
thiên về thực vật (nhiều rau, bột) - âm tính. Mặt ứng phó với môi trường tự nhiên thể
hiện trong việc mặc và ở. Mặc của người Việt cũng hướng tới sự quân bình bằng
cách làm giảm cái nóng (dương) của thời tiết qua cách mặc thoáng mát. Quân bình
âm dương trong ở của người Việt thể hiện qua việc chọn hướng nhà (hướng nam),
chọn đất theo thuật phong thủy (tránh luồng khí, dòng nước ngưng tụ hoặc quá
mạnh = quá âm hoặc quá dương), hướng tới sự hài hòa thiên – địa – nhân.
Ở khía cạnh tạo nên tính cách người Việt, triết lý âm dương là bộ phận quan
trọng của nhận thức với vai trò là thế giới quan, nhân sinh quan. Xuất phát từ nhận
thức âm dương l g+c của mọi vật nên người Việt luôn hướng tới sự quân b$nh âm
dương. Với người Việt, quân b$nh âm dương vừa biểu hiện cho sự hoàn thiện, viên
mãn, mà vuông tr&n là một biểu tượng, vừa được xem như là nguyên tắc ứng xử.
Cũng từ sự nhận thức về âm dương chuyển hóa mà người Việt có lối
sốngthanh thản, lạc quan (Không ai gi%u ba họ, không ai khó ba đời -tục ngữ),
ứng xử linh hoạt v khả năng thích nghi cao (Ăn theo thuở, ở theo thì -tục ngữ).
OB*Q
Tư tương Âm Dương gia xuất hiện như một học thuyết triết học bao trùm mọi
phương diện trong vũ trụ. Âm Dương – Ngũ Hành cùng song song tồn tại để bổ
khuyết, chế hóa, cùng thúc đẩy sự sinh trưởng, biến hóa vô cùng của vạn vật. Học
thuyết Âm dương nói rõ sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan với hai
mặt đối lập thống nhất đó là Âm dương. Âm dương là quy luật chung của vũ trụ, là
kỉ cương của vạn vật, là khởi đầu của sự sinh trưởng, biến hóa nhưng nó sẽ gặp khó
khăn khi lý giải sự biến hóa, phức tạp của vật chất. Khi đó phải dùng thuyết ngũ
hành để giải thích. Vì vậy sự kết hợp thuyết âm dương với thuyết ngũ hành mới có
thể giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách hợp lýThuyết Âm dương
ngũ hành trang bị cho con người tư tưởng duy vật khá sâu sắc và độc đáo nên đã trở
thành lý luận cho một số ngành khoa học cụ thể, trong đó có y học.
Việc tìm hiểu và nghiên cứu thuyết Âm dương ngũ hành thông qua tiểu luận
này đã giúp cho bản thân có cách nhìn sâu sắc hơn về sự tồn tại của thế giới, vạn
vật, con người,… Hiểu biết hơn về sự đóng góp và ảnh hưởng của học thuyết đối
với các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội phương Đông nói chung cũng như
xã hội người Việt nói riêng.
Nhân đây, Chân thành cảm ơn các đồng sự nhóm 9 triết học có nhiều đóng góp
công sức và hỗ trợ nhau trong thời gian hoàn thành tiểu luận này. Đặc biệt, chân
thành cảm ơn thầy Tiến sĩ Bùi Văn Mưa có rất nhiều bài giảng hay.
*
/0/ 1
OO0*P*QRS 2
1. Lịch sử hình thành triết học Âm dương gia 2
2. Khái quát về triết học Âm dương gia…………………………………………………… 3
2.1 Lý luận âm dương 3
2.2 Lý luận ngũ hành 4
O-`0RYOab
Oc 7
1. Triết học Âm dương gia và ứng dụng trong y học phương Đông………………7
1.1 Ứng dụng trong phân chia tổ chức cơ thể 7
1.2 Ứng dụng trong phân tích nguyên nhân và chuẩn đoán bệnh tật 7
1.3 Ứng dụng trong điều trị bệnh tật 8
1.4 Ứng dụng trong phòng bệnh 8
2. Triết học Âm Dương gia và ẩm thực 8
2.1 Sự hài hòa Âm dương của khách thể 8
2.2 Sự hài hòa âm dương của chủ thể 9
2.3 Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với không gian 10
2.4 Sự hài hòa âm dương giữa chủ thể với hoạt động 11
3. Triết học Âm Dương gia và những tác động đến văn hóa, tín ngưỡng của
người Việt 12
OB*Q 15
*`
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin – NXB Chính trị Quốc gia 2006
2. Triết học phần 1: Đại cương về lịch sử triết học, 2011.
3. Âm dương cuộc sống đời thường. Tác giả: GS –TS Nguyễn Tiến Đức. NXB
Thông tin và truyền thông, 2011.
4. Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam – Tác giả: GS – TS Trần Ngọc Thêm
– NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2006
5. Phong thủy Âm dương hội – NXB Thời đại 2012
6. Tạp chí triết học.
7. Trung tâm nghiên cứu Lý học đông phương:
8. Triết lý Âm dương trong văn hóa dân gian người Việt – Luận văn thạc sĩ Lưu
Hoàng Chương