Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo luật sở hữu trí tuệ và luật cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.42 KB, 39 trang )

Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
Theo Khoản 2, Điều 3 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi bổ sung năm
2009, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý,… và một số đối tượng khác là đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu đối với các đối
tượng trên đều có thể bị xử lý theo quy định tại Phần thứ năm của Luật này. Tuy nhiên,
trong một ngành luật khác – Luật cạnh tranh năm 2004, Mặc dù không được đề cập đến
như là một đối tượng bảo hộ trực tiếp, tuy nhiên việc quy định các hành vi xâm phạm
quyền đối với các đối tượng trên dưới góc độ là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh
một lần nữa cũng gián tiếp đề cập đến vấn đề bảo hộ các đối tượng này và đương nhiên
cũng quy định một cơ chế điều chỉnh riêng biệt. Cụ thể, theo Điều 39 Luật cạnh tranh
năm 2004 về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tại Khoản 1 và Khoản 2, hành vi
xâm phạm bí mật kinh doanh và sử dụng các chỉ dẫn gây nhầm lẫn cũng được quy định
và có các cơ chế điều chỉnh quy định cụ thể ở Mục 8 Chương 5. Việc áp dụng các quy
phạm trong hai ngành luật trên sẽ dẫn đến những hệ quả pháp lý khác nhau, mỗi ngành
luật sẽ có những ưu điểm và hạn chế riêng nhưng đều có thể được chấp nhận. Vấn đề đặt
ra là trong trường hợp cụ thể của mình các chủ thể nên áp dụng ngành luật nào để đạt
được một cơ chế bảo hộ tối ưu, hiệu quả cao hơn cũng như đạt được mục đích cuối cùng
mà mình đặt ra đối với vụ việc liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Lựa chọn đề tài “Cơ
chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh trong Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh
tranh”, sử dụng bí mật kinh doanh như một đối tượng nghiên cứu mẫu, thông qua việc so
sánh đối chiếu và phân tích những quy định của hai ngành luật trên, nhóm nghiên cứu hi
vọng sẽ đưa ra được những điểm khác biệt về cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh
doanh, từ đó trình bày các ưu khuyết điểm và đưa ra một số định hướng đối với các chủ
thể kinh doanh khi lựa chọn một trong hai ngành luật để bảo vệ quyền của mình.
NHÓM FRIENDS Page 1
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
Tên đề tài: “Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và
Luật cạnh tranh”
• Chú thích tên đề tài và thuật ngữ “cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh
doanh theo Luật cạnh tranh” trong đề tài:


Về bản chất pháp lý, việc bảo hộ BMKD trong Luật SHTT và các quy định về hành
vi xâm phạm đối với BMKD trong Luật cạnh tranh là hai vấn đề khác nhau. Bảo hộ
BMKD trong luật SHTT là bảo hộ đối với một đối tượng sở hữu công nghiệp, bảo hộ đối
với một tài sản vô hình được tạo ra từ trí tuệ của con người, và các hành vi xâm phạm đối
với BMKD trong luật SHTT là hành vi xâm phạm đối với đối tượng được bảo hộ này.
Còn hành vi xâm phạm BMKD trong Luật cạnh tranh là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, việc xâm phạm quyền đối với BMKD là nhằm mục đích cạnh tranh không lành
mạnh và pháp luật quy định các cơ chế xử lý cũng như các hành vi cấm xâm phạm đối
với BMKD chủ yếu là để xử lý hành vi nói trên chứ không phải mục đích bảo hộ và xử lý
hành vi xâm phạm đối tượng được bảo hộ. Tuy nhiên, xét về mặt hành vi xâm phạm cũng
như đối tượng bị xâm phạm thì không có sự khác biệt giữa hai ngành luật – có chăng
cũng chỉ là sự khác biệt về mục đích cuối cùng như đã phân tích. Có thể khẳng định rằng,
Luật cạnh tranh không bảo hộ đối với BMKD nhưng việc quy định các hành vi cấm xâm
phạm BMKD lại tạo nên một hệ quả pháp lý tương đồng với cơ chế bảo hộ BMKD trong
Luật SHTT. Do đó, trong phạm vi nghiên cứu về đề tài này, nhóm nghiên cứu muốn đi
sâu vào sự tương đồng về hệ quả pháp lý đó và sử dụng thuật ngữ “bảo hộ đối với
BMKD trong Luật cạnh tranh” là để nói lên sự tương đồng vừa nêu chứ không phải nói
về bản chất nội tại của vấn đề xâm phạm BMKD trong Luật cạnh tranh.
• Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật
kinh doanh, theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh. Với giả định hành vi xâm
phạm bí mật kinh doanh được đề cập đến thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu của hành vi
hạn chế cạnh tranh tức là hành vi này nhằm mục đích cạnh tranh không lành
mạnh.
NHÓM FRIENDS Page 2
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
• Mục đích nghiên cứu: Đưa ra những ưu và nhược điểm nhằm định hướng chủ thể
có quyền bị xâm phạm cách lựa chọn luật áp dụng hiệu quả. Việc so sánh, đối
chiếu còn đưa ra được một cái nhìn tổng quan về một số hạn chế trong các quy
định của hai ngành luật.
• Phạm vi nghiên cứu: Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh.

• Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu sử dụng phương
pháp phân tích để thấy rõ được cơ chế bảo vệ bí mật kinh doanh ở mỗi ngành luật,
sau đó thực hiện đối chiếu, so sánh, đánh giá các quy định giữa hai ngành luật với
nhau; trên cơ sở đó tổng hợp vấn đề và đưa ra ra kết luận.
• Bố cục đề tài: Đề tài gồm có 3 phần chính:
- Phần mở đầu:
- Nội dung đề tài:
I. Tổng quan
II. Cơ chế bảo hộ bí mật kinh doanh trong Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
III. Nhận xét
- Phần kết luận
NHÓM FRIENDS Page 3
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
MỤC LỤC
Nếu chỉ dừng lại ở việc áp dụng biện pháp hành chính – Tức là chủ thể bị xâm phạm đang phân
vân giữa việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo Luật SHTT hay khiếu nại lên
cơ quan quản lý cạnh tranh về hành vi xâm phạm BMKD thì sự khác biệt sẽ dẫn đến hai sự khác
biệt như sau 32
Thứ nhất về mức độ xử lý hành vi xâm phạm, Luật SHTT quy định mức phạt tối đa 30 triệu . Các
hình thức xử phạt bổ sung khoản 11 điều 11 và các biện pháp khắc phục hậu quả Khoản 12 Điều 11
Nghị định 97/2010. Trong khi đó theo Luật cạnh tranh mức phạt tối đa chỉ đến 20 triệu và các hình
thức xử phạt bổ sung,biện pháp khắc phục hậu quả ở Khoản 3 Điều 31 Nghị định 120/2005. Về mặt
này, chế tài xử lý theo Luật SHTT có phần nghiêm khắc hơn và mang tính chất trừng phạt cao hơn
trong Luật cạnh tranh. Các Doanh nghiệp cần phair căn cứ vào mục đích yêu cầu giải quyết của
mình để lựa chọn 32
Thứ hai, về cơ quan giải quyết và thủ tục giải quyết tương ứng. Nếu yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền giải quyết theo Luật SHTT thì các cơ quan cụ thể có thẩm quyền giải quyết là cơ quan
Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp và giải quyết theo thủ
tục tố tụng hành chính. Còn nếu khiếu nại lên cơ quan quản lý cạnh tranh – cụ thể là cục quản lý

cạnh tranh và thủ tục sẽ được quy định riêng trong Luật cạnh tranh 32
DANH SÁCH THÀNH VIÊN 39
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
SHTT Sở hữu trí tuệ
LSHTT Luật Sở hữu trí tuệ
LCT Luật Cạnh tranh
BLDS Bộ luật Dân sự
BLTTDS Bộ luật tố tụng Dân sự
CSHQ Chủ sở hữu quyền
SHCN Sở hữu công nghiệp
NHÓM FRIENDS Page 4
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
CGQSD Chuyển giao quyền sử dụng
BMKD Bí mật kinh doanh
WIPO Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
NHÓM FRIENDS Page 5
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
I. Tổng quan
1.1. Khái niệm bí mật kinh doanh:
Theo Khoản 23, Điều 4, Luật Sở hữu trí tuệ thì“Bí mật kinh doanh là thông tin thu
được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng
trong kinh doanh”. Khái niệm trên đã phản ánh được những đặc điểm mang tính bản chất
của bí mật kinh doanh như tính thông tin, tính bí mật và khả năng được sử dụng. Các dấu
hiệu cơ bản có thể tạo nên một bí mật kinh doanh có thể được hiểu thông qua khái niệm
là bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ có thể được tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo
dựa trên những thông tin, tri thức, kinh nghiệm, bí quyết và kỹ thuật mới, nó là kết quả
của quá trình đầu tư tài chính, nghiên cứu và sáng tạo ra, chưa được bộc lộ nên không thể
dễ dàng có được hay hiểu biết hết được. Hơn nữa, nó có khả năng sử dụng trong kinh
doanh, tạo ra những lợi thế và giá trị kinh tế cho chủ sở hữu, doanh nghiệp khi sử dụng.
Luật cạnh tranh năm 2004 không đưa ra một định nghĩa cụ thể thế nào là bí mật kinh

doanh, tuy nhiên nếu căn cứ vào các điều kiện để một thông tin được xem là bí mật kinh
doanh được quy định tại Khoản 10, Điều 3 thì dễ dàng nhận thấy một cách hiểu tương
đồng giữa hai ngành luật.
Bí mật trong kinh doanh có thể bao gồm nhiều loại thông tin, có thể là là các bí
quyết khoa học, kỹ thuật, công thức chế tạo sản phẩm, chiến lược kinh doanh, số liệu, dữ
liệu, thông tin thương mại, quy trình kỹ thuật, thiết kế sản phẩm, hồ sơ khách hàng, nhà
cung cấp chiến lược kinh doanh, thông tin tài chính, cơ cấu giá, các chương trình, kế
hoạch của công ty về sản xuất sản phẩm, về thị trường mục tiêu, hệ thống phân phối…
Thông tin trong bí mật kinh doanh có tính bí mật, có nghĩa là thông tin hoặc phần quan
trọng của chúng phải không được dễ biết hoặc dễ suy đoán. Tất nhiên điều đó cũng
không có nghĩa là mỗi phần của thông tin phải là bí mật. Sự bí mật có thể đơn thuần chỉ
là sự kết hợp của tất cả những điều đã biết. Phạm vi quyền đối với bí mật kinh doanh
được xác định theo phạm vi bảo hộ bí mật kinh doanh, gồm tập hợp các thông tin tạo
thành bí mật kinh doanh, được sắp xếp theo một trật tự chính xác và đầy đủ đến mức có
NHÓM FRIENDS Page 6
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
thể khai thác được
1
. Tất cả những thông tin này đều có giá trị rất lớn, rất có ý nghĩa đối
với hoạt động của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh riêng của chủ sở hữu
bí mật kinh doanh, của doanh nghiệp này so với nhiều doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh
khác. Tuy nhiên, tùy từng điều kiện và do sự lựa chọn của chủ sở hữu mà chúng có thể
được bảo hộ dưới các hình thức khác nhau.
Nhìn chung, khái niệm bí mật kinh doanh vẫn còn mang tính chung chung, chưa cụ
thể, chưa làm rõ phạm vi các thông tin được bảo hộ và dễ dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau về bí mật kinh doanh. Pháp luật các nước thường quy định tương đối rõ ràng hơn về
vấn đề này, khái niệm bí mật kinh doanh thường được giải thích tương đối cụ thể, dễ hiểu
hơn và cũng thuận lợi hơn trong việc áp dụng trên thực tế.
Ngoài thuật ngữ bí mật kinh doanh (Trade secrets) thì còn tồn tại một số thuật ngữ
có liên quan đến bí mật kinh doanh như “thông tin bí mật” (confidential information) và

“thông tin không được tiết lộ”, có thể hiểu như là những thông tin liên quan đến hoạt
động sản xuất kinh doanh, được giữ bí mật và các thông tin đó mang lại cho người nắm
giữ những lợi ích kinh tế nhất định. Ngoài ra trong kinh doanh, muốn đạt hiệu quả tối ưu
thì cần có những kiến thức, kỹ năng và cả những kinh nghiệm được tích lũy, người ta gọi
đó là bí quyết hay “know- how”
2
. Những kỹ năng, bí quyết này có giá trị rất lớn trong
thực tiễn, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và vì lợi ích to lớn của mình mà
những bí quyết, quy trình, phương pháp này được các doanh nghiệp giữ bí mật để sử
dụng riêng.
1.2. Vấn đề bảo hộ bí mật kinh doanh trong pháp luật Việt Nam và pháp luật
Quốc tế:
Trên thế giới, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự cạnh tranh ngày
một lớn trên thị trường sản xuất kinh doanh thì các sản phẩm trí tuệ, các thông tin có liên
quan đến hoạt động kinh doanh có thể được bảo hộ dưới nhiều hình thức khác nhau cho
những sản phẩm trí tuệ khác nhau ở một số nước. Ngoài việc nhờ đến các hình thức bảo
hộ của pháp luật cho một số sản phẩm trí tuệ thì đối với một số sản phẩm trí tuệ khác, các
1
Khoản 3 Điều 16 Nghị định 103/2006/NĐ-CP
2
Lê Nết (2006), Quyền sở hữu trí tuệ, NXB Đại học quốc gia.
NHÓM FRIENDS Page 7
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
nhà sản xuất kinh doanh cũng có thể tự mình giữ bí mật trong trường hợp họ nhận thấy bí
mật tạo ra lợi thế cạnh tranh và mang lại lợi ích cho họ. Vì vậy, các nước cũng bảo hộ
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh để bảo vệ quyền được cạnh tranh hợp pháp
trong môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo việc sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ,
các thông tin bí mật có thể tạo vị thế cạnh tranh xứng đáng với những đầu tư trí tuệ mà họ
bỏ ra. Và hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh được coi là một trong những hành vi có
tính chất cạnh tranh không lành mạnh.

Từ giữa thế kỷ XIX, Pháp và Bỉ đã ghi nhận trong pháp luật hình sự các tội phạm về
tiết lộ bí mật của nhà máy. Và trong luật cạnh tranh không lành mạnh của Đức năm 1909
đã quy định các chế tài dân sự cho người xâm phạm bí mật kinh doanh. Ở Anh, mặc dù
chưa có văn bản pháp luật cụ thể để áp dụng đối với vấn đề bí mật kinh doanh nhưng vấn
đề này đã được đặt ra từ rất sớm. Đến năm 1820, tòa án tối cao của Anh đã ban hành sắc
lệnh chống lại việc sử dụng và bộc lộ bí mật kinh doanh do vi phạm hợp đồng bảo mật.
Từ năm 1837, quan điểm bảo hộ bí mật kinh doanh nhằm đảm bảo sự trung thực trong
thương mại của Mỹ chịu ảnh hưởng của Anh cho tới ngày nay. Và Mỹ là một trong
những quốc gia có đạo luật riêng để bảo hộ bí mật kinh doanh. Tại Mỹ, chính phủ liên
bang và một số bang đã thông qua các quy định pháp luật nhằm ngăn chặn việc tiết lộ, rò
rỉ những thông tin bảo mật cũng như đưa ra các hình phạt với hành vi tiết lộ thông tin bất
hợp pháp. Phần lớn các nước hiện nay đều có quy định về bảo hộ bí mật kinh doanh.
Ngoài ra. các quốc gia khác quy định việc bảo hộ bí mật kinh doanh trong các văn bản
chung cho các đối tượng khác của quyền sở hữu trí tuệ
1
.
Vấn đề bảo hộ bí mật kinh doanh đã được qua tâm nhiều hơn từ năm 1883, khi
"Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp" có hiệu lực. Cụ thể tại Điều 10bis, Công
ước Paris có quy định “(1) Các nước thành viên của Liên minh có trách nhiệm bảo đảm
cho công dân của các nước thành viên đó sự bảo hộ có hiệu quả chống lại hành động
cạnh tranh không lành mạnh”
2
. Năm 1994, Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ - Hiệp định TRIPS ra đời thì thông tin bí mật trong
hoạt động sản xuất kinh doanh cũng được bảo hộ như là một đối tượng riêng biệt của
1
hộ bí mật kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam
2
Lê Nết (2006), Quyền sở hữu trí tuệ, NXB Đại học quốc gia.
NHÓM FRIENDS Page 8

Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
quyền sở hữu trí tuệ, quy định về việc bảo hộ thông tin bí mật tại mục 7, Điều 39. Theo
Hiệp định TRIPS việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với thông tin bí mật là nghĩa vụ
pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới nhằm
tạo dựng và phát triển các quan hệ thương mại lành mạnh và bình đẳng.
Theo Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, tại Khoản 1 Điều 2 Chương 2 về
thông tin bí mật: “1. “thông tin bí mật" bao gồm bí mật thương mại, thông tin đặc quyền
và thông tin không bị tiết lộ khác chưa trở thành đối tượng phải bị tiết lộ công khai
không hạn chế theo pháp luật quốc gia của Bên liên quan”. Cụ thể là bí mật kinh doanh
sẽ được công nhận bảo hộ trừ khi nó được bộc lộ công khai một cách hợp lệ hay khách
quan phù hợp với các nguyên tắc thiện chí và trung thực. Và quy định tại Khoản 3 Điều 2
Chương 2 của Hiệp định này coi bí mật kinh doanh như một trong các đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể: “3."quyền sở hữu trí tuệ" bao gồm quyền tác giả và quyền
liên quan, nhãn hiệu hàng hoá, sáng chế, thiết kế bố trí (topography) mạch tích hợp, tín
hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, thông tin bí mật (bí mật thương mại),
kiểu dáng công nghiệp và quyền đối với giống thực vật”.
Tại Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật và phù hợp với pháp luật
quốc tế, vấn đề bảo hộ đối với bị mật kinh doanh thì trước đây có Nghị định
54/2000/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 3/10/2000 cũng đã quy định về bảo hộ bí mật kinh
doanh và nó cũng được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự năm 2005. Hiện nay vấn đề này được
quy định cụ thể tại Luật Sở hữu trí tuệ và một số văn bản hướng dẫn thực hiện Luật sở
hữu trí tuệ và cả trong Luật cạnh tranh. Các tiêu chuẩn bảo hộ bí mật kinh doanh và cạnh
tranh không lành mạnh của nước ta cũng đã dựa trên các tiêu chuẩn và phù hợp với Công
ước Paris
1
.
Nhìn chung, pháp luật của quốc gia cũng như trong pháp luật các nước hay pháp
luật quốc tế bí mật kinh doanh đã được công nhận và được quy định là một đối tượng
riêng biệt của quyền sở hữu trí tuệ nói riêng và quyền sở hữu công nghiệp nói chung.
Pháp luật về bảo hộ bí mật kinh doanh ngày càng phát triển mạnh mẽ nhằm tạo ra sự ổn

định cho môi trường kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh buộc các doanh
nghiệp phải tuân theo các nguyên tắc công bằng, trung thực trong thương mại, đảm bảo
1
Lê Nết (2006), Quyền sở hữu trí tuệ, NXB Đại học quốc gia.
NHÓM FRIENDS Page 9
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
quyền cạnh tranh hợp pháp của doanh nghiệp, tạo mối quan hệ tốt đẹp trong kinh doanh
và tạo ra khung pháp lý nhằm đảm bảo việc thực hiện bảo hộ bí mật kinh doanh của
doanh nghiệp, khuyến khích trao đổi thông tin cần thiết trong quá trình hoạt động kinh
doanh nhưng không xâm phạm đến lợi ích của các nhà sản xuất kinh doanh khác hay
rộng hơn là lợi ích của người tiêu dùng và của cả xã hội.
1.3. Quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu BMKD và ý nghĩa của việc bảo hộ bí mật
kinh doanh:
1.3.1. Quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu BMKD:
Theo Điều 123 Luật SHTT, chủ sở hữu BMKD có các quyền:
Thứ nhất, sử dụng, cho phép người khác sử dụng BMKD. Được coi là “sử dụng”
BMKD khi chủ thể thực hiện một trong các hành vi được quy định tại Khoản 4 Điều 124
Luật SHTT, bao gồm: áp dụng BMKD để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương
mại hàng hoá; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm được sản xuất
do áp dụng BMKD.
Thứ hai, ngăn cấm người khác sử dụng BMKD. Chủ sở hữu BMKD không có
quyền ngăn cấm người khác thực hiện các hành vi sau
1
: Bộc lộ, sử dụng BMKD thu được
khi không biết và không có nghĩa vụ phải biết BMKD đó do người khác thu được một
cách bất hợp pháp; Bộc lộ dữ liệu bí mật nhằm bảo vệ công chúng. Đây là trường hợp
bộc lộ các kết quả thử nghiệm hoặc các dữ liệu liên quan đến việc lưu hành các dược
phẩm, các nông hoá phẩm đã được quy định cụ thể tại Điều 128 Luật SHTT; Sử dụng dữ
liệu bí mật liên quan đến các loại dược phẩm, nông hoá phẩm không nhằm mục đích
thương mại; Bộc lộ, sử dụng BMKD được tạo ra một cách độc lập. Trong trường hợp này

người tạo ra BMKD phải chứng minh được tính “độc lập” trong việc đã tạo ra BMKD mà
người đó sử dụng; Bộc lộ, sử dụng BMKD được tạo ra do phân tích, đánh giá sản phẩm
được phân phối hợp pháp với điều kiện người phân tích, đánh giá không có thoả thuận
khác với chủ sở hữu BMKD hoặc người bán hàng.
Thứ ba, định đoạt BMKD. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh được quyền chuyển giao
bí mật theo hợp đồng gọi là li-xăng bí mật kinh doanh. Việc chuyển giao quyền sử dụng
bí mật kinh doanh phải lập thành văn bản, nhưng không cần phải đăng ký hay phê duyệt.
1
Khoản 3, Điều 125 Luật SHTT
NHÓM FRIENDS Page 10
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
Về nghĩa vụ của chủ sở hữu BMKD trong trường hợp xin cấp giấp phép kinh
doanh, lưu hành dược phẩm, nông hóa phẩm phải cung cấp các kết quả thử nghiệm hoặc
bất kỳ dữ liệu nào khác là BMKD cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền
1
. Trong trường
hợp này, người phải cung cấp các kết quả thử nghiệm hoặc bất kỳ dữ liệu mật nào khác
có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thực hiện các biện pháp cần thiết để giữ bí mật
các thông tin đó “để các dữ liệu đó không bị sử dụng nhằm mục đích thương mại không
lành mạnh và không bị bộc lộ”. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền sẽ không phải
thực hiện nghĩa vụ trên, nếu “việc bộc lộ là cần thiết để bảo vệ công chúng”.
1.3.2. Ý nghĩa của việc bảo hộ bí mật kinh doanh:
Nếu không có pháp luật bảo hộ về vấn đề bí mật kinh doanh thì việc lấy cắp và sử
dụng ý tưởng của người khác sẽ trở nên phổ biến, và việc đầu tư mọi thời gian, tiền bạc
để nghiên cứu phát triển một sản phẩm hay quy trình mới rất vất vả, tốn kém nhưng kết
quả nghiên cứu đều có thể bị đánh cắp bởi đối thủ cạnh tranh hay bị bán bất cứ lúc nào
bởi nhân viên của công ty mình. Như vậy, việc bảo hộ bí mật kinh doanh là cần thiết, nó
tạo ra sự ổn định trong môi trường kinh doanh, tạo sự bình đẳng, công bằng trong hoạt
động thương mại, bảo vệ quyền cạnh tranh hợp pháp của các nhà sản xuất kinh doanh, xa
hơn là bảo vệ lợi ích xã hội…cho nên cần tối đa hóa sự bảo hộ của nhà nước đối với bí

mật kinh doanh bằng các hình thức, cơ chế khác nhau được quy định trong pháp luật. Bảo
hộ bí mật kinh doanh sẽ thừa nhận cho chủ sở hữu quyền độc quyền khai thác, sử dụng bí
mật kinh doanh và chống lại các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh có thể gây thiệt hại
và đe dọa gây thiệt hại cho chủ sở hữu hay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Pháp
luật bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu bí mật kinh doanh bằng cách trừng phạt người có
hành vi xâm phạm các thông tin thuộc bí mật kinh doanh của mình và chủ sở hữu có
nghĩa vụ chứng minh thông tin bị xâm phạm thỏa mãn điều kiện của bí mật kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ với sự hạn chế về vốn, công nghệ, hạn chế về
khả năng thanh toán các khoản chi phí khi thực hiện đăng ký bảo hộ thì việc bảo hộ bí
1
Khoản 1, Điều 128 Luật SHTT
NHÓM FRIENDS Page 11
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
mật kinh doanh sẽ dễ dàng hơn, ít tốn kém hơn là việc đăng ký bảo hộ với danh nghĩa các
đối tượng sở hữu công nghiệp khác mặc dù có thể vẫn phải tốn chi phí cho các biện pháp
bảo mật
1
. Thêm vào đó, so với việc bảo hộ dưới các dạng đối tượng sở hữu công nghiêp
khác, BMKD được bảo hộ tự động
2
và không bị giới hạn về mặt thời hạn
3
. Cơ chế này
đảm bảo cho thông tin được xem là bí mật kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không bị bộc
lộ công khai rộng rãi (doanh nghiệp sẽ không phải giải trình công khai các thông tin bí
mật, không đặt ra yêu cầu công bố thông tin và các doanh nghiệp khác sẽ không biết
được các thông tin đó). Cơ chế bảo hộ tự động còn giúp tiết kiệm chi phí, thời gian đăng
ký bảo hộ, vì lợi ích mang lại thường cao hơn là bảo hộ dưới hình thức khác.
Tuy nhiên, khả năng bộc lộ BMKD thường rất cao và khi đã được bộc lộ công khai

thi mọi biện pháp bảo vệ đều trở nên vô nghĩa, việc quản lý, kiểm soát sẽ rất khó khăn,
bởi vì đặc tính vô hình của tài sản trí tuệ nói chung là rất khó kiểm soát, chiếm hữu một
cách thông thường. Trong khi đó việc bảo hộ bí mật kinh doanh lại không hề đơn giản,
muốn bảo hộ BMKD phải tìm ra những cách thức bảo mật cần thiết để hạn chế việc phổ
biến thông tin. Những biện pháp này thường tốn nhiều chi phí và điều kiện vật chất và
thường đòi hỏi yêu cầu rất cao nhất là trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, các đối thủ có
thể tìm mọi cách tiếp cận thông tin, dùng mọi thủ đoạn để bí mật đó bị lộ, việc người lao
động nghỉ việc, bất mãn trong doanh nghiệp và họ có quyền lựa chọn và thay đổi nơi làm
việc có thể chứa nguy cơ mang theo thông tin đến nơi làm việc mới thường là những
doanh nghiệp cạnh tranh với doanh nghiệp cũ và thông tin có thể bị tiết lộ. Bên cạnh đó,
một số quy định về trường hợp chủ sở chủ sở hữu bí mật kinh doanh không có quyền
ngăn cấm người khác sử dụng BMKD theo Khoản 3 Điều 125 Luật SHTT cũng là một
điều hạn chế.
II. Cơ chế bảo hộ bí mật kinh doanh trong Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh
tranh:
2.1. Điều kiện bảo hộ bí mật kinh doanh:
Theo quy định tại Điều 84 Luật SHTT, để một bí mật kinh doanh được bảo hộ cần
1
hộ bí mật kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam
2
Xem mục 2.1
3
Việc bảo hộ bí mật kinh doanh sẽ còn được kéo dài tới chừng nào bí mật đó còn chưa bị bộc lộ ra công chúng.
NHÓM FRIENDS Page 12
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
“1. Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;
2. Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh
lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó;
3. Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó

không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được”.
Về cơ bản, theo quy định của Luật SHTT, BMKD được bảo hộ phải đáp ứng được
các điều kiện cơ bản sau: Thứ nhất là phải có tính sáng tạo. Tức là các thông tin chứa
đựng bí mật kinh doanh không phải là những hiểu biết thông thường hay không dễ dàng
có được. Các thông tin này là thành quả của quá trình đầu tư tài chính của chủ sở hữu, sự
đúc kết của cả quá trình đầu tư trí tuệ hay sự kết tụ của cả đầu tư tài chính và trí tuệ. Nếu
một người có trình độ trung bình trong lĩnh vực tương ứng sẽ không thể thu được những
hiểu biết được gọi là bí mật kinh doanh. Những thông tin được gọi là bí mật kinh doanh
bao giờ cũng hàm chứa một lượng tri thức sáng tạo nhất định. Thứ hai là tính hữu ích hay
giá trị thương mại của BMKD. Các thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính và trí
tuệ phải có khả năng sử dụng trong kinh doanh thực tiển của chủ thể kinh doanh. Khi sử
dụng chúng thì sẽ có lợi hơn so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin
đó. Thứ ba là tính bảo mật. Thông tin phải tồn tại trong tình trạng bí mật, có nghĩa là
những người thường xuyên xử lý loại thông tin đó không biết đến hoặc không thể dễ
dàng tiếp cận được thông tin đó dưới dạng thông tin toàn bộ. Một thông tin cũng được coi
là bí mật nếu như chỉ có một số lượng người hạn chế biết về thông tin đó. Hơn nữa thông
tin đó phải được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết như hạn chế việc biết
được hoặc tiếp cận được thông tin hay biện pháp chống bộc lộ thông tin (kí kết hợp đồng
bảo mật, hợp đồng quy định trách nhiệm của người biết hoặc tiếp cận được với thông
tin…)
Tuy nhiên, không phải bất cứ thông tin bí mật nào cũng được bảo hộ. Điều 85 của
Luật SHTT đưa ra danh mục các loại thông tin không được bảo hộ với danh nghĩa
BMKD bao gồm: “1. Bí mật về nhân thân; 2. Bí mật về quản lý nhà nước; 3. Bí mật về
quốc phòng, an ninh; 4. Thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh” và các
BMKD trái với đạo đức xã hội, xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, có
NHÓM FRIENDS Page 13
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
hại cho quốc phòng, an ninh sẽ không được pháp luật Việt Nam bảo hộ
1
.

Quyền SHCN đối với BMKD phát sinh khi BMKD đáp ứng được các điều kiện do
pháp luật quy định. Khác với các đối tượng khác của quyền SHCN, quyền SHCN đối với
BMKD của các chủ sở hữu không được xác lập thông qua hình thức cấp văn bằng bảo hộ
mà được bảo hộ “tự động”. Có nghĩa là quyền SHCN đối với BMKD sẽ phát sinh khi đáp
ứng đầy đủ các quy định của pháp luật mà không cần thông qua bất cứ một thủ tục đăng
ký nào. “Quyền SHCN đối với BMKD được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp
pháp BMKD và thực hiện việc bảo mật BMKD đó”
2
. Quyền sở hữu công nghiệp đối với
bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở đầu tư tài chính, trí tuệ hay bất kỳ cách thức
hợp pháp nào để tìm ra, tạo ra hoặc đạt được thông tin và bảo mật thông tin tạo thành bí
mật kinh doanh đó mà không cần thực hiện thủ tục đăng ký
3
. Việc bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp đối với bí mật kinh doanh không đồng nghĩa với việc bắt buộc phải cấp văn
bằng bảo hộ chúng. Khi sử dụng quyền và giải quyết tranh chấp đối với bí mật kinh
doanh chủ thể có bí mật kinh doanh phải chứng minh quyền của mình bằng các chứng cứ
thể hiện hoạt động mà trong đó thông tin tạo thành BMKD được tạo ra, tìm ra, có được
và biện pháp bảo mật thông tin đó
4
. Điều này hoàn toàn phù hợp với tính chất đặc thù của
BMKD
5
cũng như các quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tuy nhiên, thời điểm chấm dứt quyền SHCN đối với BMKD lại chưa được pháp luật Việt
Nam đề cập tới dẫn đến nhiều khó khăn cho việc giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện
liên quan đến BMKD. Như vậy, về mặt lý luận thì bí mật kinh doanh được bảo hộ vô thời
hạn và không cần làm thủ tục đăng ký.
Luật cạnh tranh cũng có những quy định tương tự với luật SHTT về các điều kiện
để một thông tin được xem là bí mật kinh doanh. Theo Khoản 10 Điều 3 Luật cạnh tranh:

“10. Bí mật kinh doanh là thông tin có đủ các điều kiện sau đây:
a) Không phải là hiểu biết thông thường;
b) Có khả năng áp dụng trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người
1
Điều 8 Luật SHTT
2
Điểm c, Khoản 3, Điều 6 Luật SHTT
3
Khoản 2 điều 6 Nghị định 103/2006/NĐ-CP
4
Theo tiểu mục 1.7 phần 1 mục 1 thông tư 01/2007/TT-BKHCN
5
Theo cơ chế đăng ký bảo hộ thì phải buộc bí mật đó được công bố, công khai rộng rãi cho mọi người biết để tránh
vi phạm. Yêu cầu này sẽ làm cho bí mật kinh doanh của doanh nghiệp nhanh chóng bị bộc lộ, mất hết giá trị và trở
thành không còn bí mật nữa.
NHÓM FRIENDS Page 14
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng
thông tin đó;
c) Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để thông tin đó không bị
tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.”
Như vậy, xét về điều kiện bảo hộ, đối chiếu Điều 84 Luật SHTT với Khoản 10 Điều
3 Luật CT có thể rút ra một số kết luận sau:
Mặc dù có nhiều sự tương đồng trong việc quy định các điều kiện để một thông tin
được bảo hộ dưới dạng bí mật kinh doanh trong hai ngành luật - BMKD được bảo hộ khi
đáp ứng đủ điều kiện Luật định (tính giá trị, tính bí mật, và được chủ sở hữu áp dụng các
biện pháp bảo vệ), tuy nhiên so với Điểm a, Khoản 10 Điều 3 Luật Cạnh tranh thì Khoản
1, Điều 84 Luật SHTT có phần cụ thể hơn. Theo Khoản 1 Điều 84 Luật SHTT một trong
những điều kiện chung để BMKD được bảo hộ là: “1. Không phải là hiểu biết thông
thường và không dễ dàng có được”. Còn Điểm a, Khoản 10 Điều 3 Luật Cạnh tranh lại

quy định BMKD là thông tin hội đủ các điều kiện : “a. Không phải là hiểu biết thông
thường.” Vậy, một thông tin là không phải là hiểu biết thông thường nhưng dễ dàng có
được thì không đáp ứng đủ điều kiện của Luật SHTT nhưng vẫn đáp ứng đủ điều kiện
của Luật Cạnh Tranh. Quy định khác biệt trong hai ngành luật riêng biệt tạo ra khả năng
lựa chọn và cơ hội được bảo vệ BMKD cao hơn đối với những doanh nghiệp có BMKD
không phải là hiểu biết thông thường nhưng không chứng minh được là không dễ dàng
có được thì việc lựa chọn và áp dụng Luật Cạnh Tranh sẽ là giải pháp giúp doanh nghiệp
có được điều kiện để được bảo hộ. Về mặt này, việc chứng minh khả năng đáp ứng đủ
điều kiện bảo mật đối với bí mật kinh doanh của mình sẽ trở nên dễ dàng hơn là việc cố
gắng chứng minh BMKĐ của mình không dễ dàng có được khi mà điều kiện của doanh
nghiệp đó không đáp ứng được.
Khi nhận thấy có hành vi xâm phạm đối với bí mật kinh doanh cần phải chứng
minh hai vấn đề sau đây:
Thứ nhất, chứng minh doanh nghiệp có bí mật kinh doanh đáp ứng đủ các điều kiện
luật định để được bảo hộ
Thứ hai, chứng minh có hành vi vi phạm luật định về bí mật kinh doanh của doanh
nghiệp mình.
Việc lựa chọn Luật Cạnh tranh hay Luật sở hữu trí tuệ không những giúp mở rộng
NHÓM FRIENDS Page 15
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
khả năng chứng minh đối với các điều kiện bảo hộ như đã trình bày trên đây mà đối với
việc chứng minh các hành vi xâm phạm quyền đối với BMKD cũng sẽ dẫn đến những hệ
quả khác nhau.
2.2. Các hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh:
Về hành vi xâm phạm BMKD, theo Khoản 1, Điều 127 Luật SHTT, hành vi vi
phạm BMKD bao gồm các hành vi sau:
a) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc BMKD bằng cách chống lại các biện pháp bảo
mật của người kiểm soát hợp pháp BMKD đó. Người kiểm soát BMKD trong trường hợp
này bao gồm chủ sở hữu BMKD, người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng
BMKD;

b) Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc BMKD mà không được phép của chủ sở hữu
BMKD đó (loại trừ các trường hợp ngoại lệ đã được nêu tại Khoản 3, Điều 125 Luật
SHTT);
c) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ,
lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ
BMKD;
d) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc BMKD của người nộp đơn theo thủ tục xin cấp
phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật
của cơ quan có thẩm quyền;
đ) Sử dụng, bộc lộ BMKD dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết BMKD đó do
người khác thu được có liên quan đến một trong các hành vi vi phạm BMKD đã được
pháp luật quy định;
e) Không thực hiện nghĩa vụ bảo mật đối với các cơ sở dữ liệu, kết quả thử nghiệm
theo quy định của pháp luật.
Khi không thuộc các trường hợp ở Khoản 3 Điều 125 Luật SHTT thì các hành vi
xâm phạm quyền đối với BMKD Điều 127 Luật SHTT gồm 6 khoản liệt kê các dạng
hành vi xâm phạm kể trên.
Chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh có quyền yêu cầu
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người thực hiện hành vi xâm phạm quyền của
mình phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại. Chủ sở hữu quyền sở hữu
công nghiệp đối với bí mật kinh doanh có nghĩa vụ chứng minh điều kiện xác lập quyền
NHÓM FRIENDS Page 16
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
và phạm vi quyền của mình; nêu rõ tên, địa chỉ của người đã thực hiện hành vi xâm
phạm; cung cấp các chứng cứ về phạm vi, mức độ của việc xâm phạm đó. Trong trường
hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại thì chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật
kinh doanh phải chứng minh mức độ thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra.
Xâm phạm BMKD được xem là hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật
cạnh tranh quy định tại Điều 39 Luật Cạnh tranh. Và theo Điều 41 Luật cạnh tranh quy
đinh 4 dạng hành vi xâm phạm đối với BMKD:

1. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc BMKD bằng cách chống lại các biện pháp bảo
mật của người sở hữu hợp pháp BMKD đó;
2. Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc BMKD mà không được phép của chủ sở hữu
BMKD;
3. Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ
bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc BMKD của chủ sở hữu BMKD
đó;
4. Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người
này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan để kinh doanh, làm thủ tục lưu
hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước
hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp phép liên quan đến
kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm;.
Hành vi tiếp cận, thu thập thông tin thuộc BMKD là việc doanh nghiệp tìm cách có
được thông tin bí mật của doanh nghiệp khác một cách bất chính, không lành mạnh. Tính
chất bất chính của hành vi thể hiện thông qua cách mà doanh nghiệp sử dụng để tiếp cận
thu thập thông tin. Theo đó chủ thể vi phạm thực hiện các hành vi sau: chống lại các biện
pháp bảo mật của chủ sở hữu hợp pháp; vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng
lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật; vi phạm khi chỉ sở hữu BMKD làm thủ tục theo
quy định của pháp luật lien quan đên kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc
bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước.
Hành vi tiết lộ thông tin thuộc BMKD, tiết lộ theo Từ điển Tiếng Việt là để cho
người khác biết một việc phải giữ kín. Để thực hiện hành vi này thì doanh nghiệp vi
phạm đang có hoặc biết được BMKD, việc biết được hay có được này là hợp pháp nhưng
NHÓM FRIENDS Page 17
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
lại để cho người khác biết khi không được phép của chủ sở hữu hay vi phạm hợp đồng
bảo mật, lợi dụng, lừa gạt lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật.
Sử dụng bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác khi không được phép của chủ sở
hữu hoặc nhằm mục đích kinh doanh, xin giấy phép liên quan đến BMKD hoặc lưu hành
sản phẩm. Trong trường hợp này, pháp luật không quan tâm đến nguồn gốc, tính hợp

pháp của BMKD mà chỉ cần xác định tính không được phép của chủ sở hữu đối với việc
sử dụng là đủ điểu kiện về sự vi phạm.
Cũng giống như một số quy định đã phân tích ở các phần trước thì những hành vi
xâm phạm quyền đối với BMKD được quy định tại Điều 41 Luật Cạnh Tranh nhìn chung
là giống với Điều 127 Luật SHTT. Tuy nhiên trường hợp có hành vi xâm phạm của bên
thứ 3 có được BMKD từ người có hành vi trực tiếp xâm phạm dù biết rằng BMKD này
thu được một cách bất hợp pháp theo như quy định tại Điểm đ, Khoản 1, Điều 127 Lật
SHTT thì Luật cạnh tranh cũng không đề cập đến. Về mặt này Luật SHTT có quy định
rộng hơn và cụ thể hơn quy định ở Luật Cạnh Tranh. Luật SHTT còn tiến bộ hơn khi quy
định những trường hợp không được xem là vi phạm ở Khoản 3 Điều 125, mà Luật cạnh
tranh không đề cập tới.
Xét về chủ thể quyền bị xâm phạm, nếu như các quy định trong pháp luật về cạnh
tranh đối với hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh tiếp cận theo hướng “Quyền của chủ
sở hữu hợp pháp đối với BMKD” thì Luật SHTT mở rộng phạm vi chủ thể quyền sang cả
“Người được chuyển giao hợp pháp BMKD” và quy định chung là “Người kiểm soát
BMKD”. Điều này dẫn đến một kết quả là sự mở rộng đối với phạm vi các chủ thể có
quyền đối với các đối tượng được bảo hộ. Quy định trên khá hợp lý khi xét về địa vị pháp
lý của cả hai nhóm chủ thể trên là gần như ngang bằng nhau (xét trong quan hệ với chủ
thể xâm phạm quyền).
Sự khác biệt trong quy định của hai ngành luật dẫn đến những hướng áp dụng khác
nhau cho các chủ thể có quyền bị xâm phạm. Cụ thể, khi nhận thấy doanh nghiệp khác vi
phạm BMKD của mình thuộc trường hợp Điểm đ Khoản 1 Điều 127 thì việc lựa chọn
Luật SHTT là cách duy nhất vì Luật Cạnh Tranh sẽ không điều chỉnh. Các trường hợp
còn lại tại Điểm a, b, c, d, e thì có thể lựa chọn 1 trong 2 ngành luật tùy thuộc vào mục
NHÓM FRIENDS Page 18
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
đích và điều kiện của chủ thể có quyền.
Trong trường hợp chủ thể có quyền bị xâm phạm BMKD không phải là chủ sở hữu
trực tiếp thì không thể áp dụng Luật cạnh tranh để điều chỉnh đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh nhằm đạt được các ưu điểm của Luật Cạnh tranh như đã và sẽ phân tích

mà chỉ có Luật SHTT mới có đủ cơ sở pháp lý để giải quyết. Đối với các trường hợp hạn
chế quyền đối với bí mật kinh doanh, trong một giới hạn nhất định các chủ thể bị xâm
phạm quyền không thể yêu cầu giải quyết theo Luật SHTT nhưng nếu chỉ xét đơn thuần
về mặt cơ sở pháp lý thì vẫn có một lựa chọn cho các chủ thể này đó là yêu cầu giải quyết
đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật cạnh tranh. Tuy nhiên, vấn đề này
cũng rất hạn chế vì mặc dù Luật cạnh tranh không quy định các trường hợp hạn chế
quyền của chủ sở hữu đối với BMKD nhưng nếu căn cứ thêm các quy định khác quy định
chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh như Khoản 4, Điều 3 Luật Cạnh tranh định
nghĩa hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì thật ra vẫn tồn tại một số hạn chế quyền.
Khoản 4 Điều 3 quy định “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh
của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về
đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Như vậy, các
hành vi xâm phạm trong luật cạnh tranh cũng chỉ có thể là các hành vi xâm phạm có mục
đích thương mại còn các hành vi không có mục đích thương mại thì vẫn không có cơ sở
để giải quyết.
Tóm lại, khi xảy ra hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu đối với BMKD, việc lựa
chọn căn cứ nào để làm cơ sở xác định hành vi chủ yếu phụ thuộc vào nhận thức và đánh
giá chủ quan của chủ thể có quyền bị xâm phạm, về mặt này thì cơ sở chứng minh của
Luật canh tranh sẽ mạnh và dễ áp dụng hơn, về một mặt khác thì ưu thế lại thuộc Luật
SHTT, khi hành vi xâm phạm không thuộc quy định của Luật này thì vẫn nên xem xét để
yêu cầu giải quyết theo quy định của luật còn lại. Tuy nhiên, một vấn đề cần lưu ý đối với
các chủ thể quyền khi đứng trước khả năng yêu cầu giải quyết theo cả hai ngành luật đó
chính là cần quan tâm nhiều hơn đến cơ chế bảo vệ sẽ được trình bày trong mục tiếp theo
hơn là quan tâm đến khả năng chứng minh quyền được bảo hộ và chứng minh hành vi
NHÓM FRIENDS Page 19
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
xâm phạm cái nào dễ hơn cái nào. Vì xét đến cùng, việc bảo hộ hay không bảo hộ và bảo
hộ như thế nào cuối cùng cũng chỉ nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ quyền của chủ thể
có quyền một cách tốt nhất.

2.3. Bảo vệ quyền đối với bí mật kinh doanh trong luật sở hữu trí tuệ và luật cạnh
tranh:
2.3.1. Bảo vệ quyền đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật về Sở hữu trí
tuệ:
Luật SHTT 2005 không có quy định riêng về bảo vệ bí mật kinh doanh mà quy định
chung trong phần thứ 5 về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Theo quy định tại Điều 198 Luật
SHTT chủ thể quyền có thể áp dụng các biện pháp tự bảo vệ, yêu cầu cơ quan nhà nước
có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm bằng các biện pháp dân sự, hình sự, hành chính
tùy vào tính chất mức độ của hành vi xâm phạm .
Biện pháp tự bảo vệ: Tự bảo vệ BMKD được hiểu là việc chủ sở hữu BMKD áp
dụng mọi biện pháp công nghệ để bảo vệ BMKD tránh khỏi sự xâm hại của chủ thể khác
hoặc để hạn chế, khắc phục thiệt hại do hành vi xâm hại gây ra, tự bảo vệ còn là quyền tự
yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền đối với BMKD phải chấm dứt hành
vi xâm phạm quyền đối với BMKD phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính
công khai, bồi thường thiệt hại Tự bảo vệ BMKD là quyền của chủ sở hữu, các chủ thể
có thể chủ động áp dụng mà không phụ thuộc sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, đay là biện pháp nhanh gọn, tốn ít thời gian, tiết kiệm tuy nhiên trên thực tế “tự
bảo vệ” chỉ dừng lại ở việc các chủ thể có quyền đối với BMKD áp dụng các biện pháp
công nghệ để bảo mật BMKD của mình – các biện pháp phòng ngừa hành vi xâm phạm.
Còn các biện pháp nhằm giải quyết hậu quả của hành vi vi phạm ít được áp dụng vì
không có sự cưỡng chế của cơ quan nhà nước. Để tự bảo vệ BMKD chủ sở hữu cần phải
đánh giá đúng giá trị và tiềm lực của BMKD để có cơ chế bảo vệ thích hợp từ bên trong
và bên ngoài. Doanh nghiệp có thể kiểm soát việc tiếp cận bằng các biện pháp như nhận
dạng bí mật kinh doanh (các doanh nghiệp nên cân nhắc khi quyết định coi một thông tin
là bí mật thương mại), giáo dục nhân viên, hạn chế tiếp cận, đánh dấu tài liệu (xây dựng
NHÓM FRIENDS Page 20
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
hệ thông đánh dấu tư liệu thống nhất và nâng cao hiểu biết của nhân viên để tránh vô ý
bộc lộ thông tin), cách ly và bảo bộ về mặt vật lý (có thể thực hiện các biện pháp như nộp
lưu có khóa riêng biệt; kiểm soát truy cập; xé nhỏ thông tin; kiểm tra giám sát thường

xuyên), cách ly và bảo hộ dữ liệu điện tử (kiểm soát truy cập; mã hóa, xây dựng tường
lửa; giám sát kiểm tra dữ liệu đi và đến…)
1
. Tự bảo vệ còn là yêu cầu giải quyết bằng
phương thức thương lượng hòa giải, theo tố tụng Trọng tài đảm bảo bí mật và uy tín các
bên trong hoạt động kinh doanh hoặc khởi kiện ra tòa. Tuy nhiên, trên thực tế các biện
pháp này ít được áp dụng mà thông thường các chủ thể sẽ yêu cầu cơ quan nhà nước có
thẩm quyền Thanh tra, quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Ủy ban nhân dân các cấp
xử lý hành vi xâm phạm theo quy định của pháp luật.
Biện pháp dân sự: Việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự
được quy định tại chương XVII của Luật SHTT. Thông thường thì các biện pháp và trình
tự dân sự được ưu tiên áp dụng trong việc xử lý hành vi xâm phạm đối với BMKD. Bởi lẽ
việc xử lý hành vi xâm phạm BMKD bằng biện pháp dân sự được thực hiện theo yêu cầu
của chủ thể bị thiệt hại, kể cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành
chính hoặc hình sự. Bên cạnh đó ưu điểm của biện pháp dân sự còn được thể hiện ở sự
đền bù thiệt hại tương xứng với thiệt hại từ hành vi xâm phạm. Thủ tục yêu cầu áp dụng
biện pháp dân sự, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp dân sự tuân theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự. Tuy nhiên trong vụ án về bí mật kinh doanh nguyên
đơn có quyền yêu cầu tòa án xét xử kín để đảm bảo tính bí mật đối với BMKD trong vụ
án. Theo Điều 202 Luật SHTT thì tòa án có thể áp dụng các biện pháp sau: buộc chấm
dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
buộc bồi thường thiệt hại. Theo Điều 204 Luật SHTT và mục 2 Chương II Nghị định
105/2006/NĐ-CP, thiệt hại được xác định cho chủ thể quyền BMKD là các tổn thất thực
tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra. Ngoài ra có điểm khác
biệt trong quy định của Luật SHTT so với Bộ luật Tố tụng dân sự là chi phí luật sư do
chủ thể có hành vi xâm phạm quyền SHTT thanh toán còn trong Bộ luật Tố tụng dân sự
1
Theo 10 gợi ý cơ bản của WIPO giúp doanh nghiệp tự bảo hộ bia mật kinh doanh - />mat/bi-mat-kinh-doanh-va-phuong-thuc-bao-ve aspx
NHÓM FRIENDS Page 21
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh

là do người yêu cầu chịu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Như vậy xét một cách tổng
quan thì pháp luật Việt Nam có một cơ chế tố tụng dân sự tương đối đầy đủ để xử lý hành
vi xâm phạm BMKD đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu BMKD cũng
như hạn chế và khắc phục được thiệt hại do hành vi xâm phạm BMKD gây ra.
Biện pháp hành chính: Trong một số trường hợp hành vi xâm phạm BMKD cũng là
hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước nên xử lý xâm phạm bằng
biện pháp dân sự không khắc phục được thiệt hại mà hành vi xâm phạm gây ra đối với
nhà nước, người tiêu dùng và toàn xã hội. Để bổ sung cho vấn đề này, pháp luật nước ta
quy định về việc xử lý hành chính đối với hành vi xâm phạm BMKD thể hiện ở Điều 211
Luật SHTT và Nghị định 97/2010/NĐ-CP. Theo đó tổ chức, cá nhân bị xâm phạm có
quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi
xâm phạm BMKD của mình. Việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của
cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp.
Biện pháp hình sự: Theo Điều 212 Luật SHTT: Cá nhân thực hiện hành vi xâm
phạm quyền SHTT có yếu tố cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật. Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa quan tâm nhiều đến việc bảo
vệ BMKD bằng biện pháp hình sự, các hành vi xâm phạm BMKD có đủ yếu tố cấu thành
tội phạm hầu như chưa có. Hơn nữa trong luật hình sự Việt Nam chưa có quy định riêng
về tội xâm phạm BMKD mà chỉ quy định chung trong chương XVI “Các tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế”
1
. Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt
tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt
rất nặng như tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định.
Như vậy, khi phát hiện có chủ thể “đánh cắp” hoặc bộc lộ trái phép bí mật kinh
doanh của mình; chủ sở hữu bí mật kinh doanh có thể yêu cầu bên vi phạm chấm dứt
hành vi và bồi thường thiệt hại là hậu quả của hành vi vi phạm; hoặc yêu cầu cơ quan
1

theo />NHÓM FRIENDS Page 22
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
Nhà nước có biện pháp xử lý bằng biện pháp dân sự, hình sự, hành chính theo quy định
của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, dù các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có áp
dụng các biện pháp luật định để xử lý các hành vi xâm phạm đến BMKD; thì thiệt hại do
hành vi vi phạm gây ra chưa chắc có thể khắc phục đầy đủ. Do đó, các chủ thể sở hữu bí
mật kinh doanh phải có các biện pháp, chiến lược quản lý và bảo hộ bí mật kinh doanh
thích hợp.
2.3.2. Bảo vệ quyền đối với bí mật kinh doanh theo pháp luật cạnh tranh:
Luật cạnh tranh bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu BMKD bằng cách trừng phạt
người có hành vi xâm phạm các thông tin thuộc BMKD. Khi có hành vi xâm phạm, cơ
quan có thẫm quyền mới xác định tính BMKD của đối tượng bị xâm phạm theo nguyên
tắc chủ sở hữu có nghĩa vụ chứng minh các thông tin bị xâm phạm thỏa mãn 3 dấu hiệu
quy định tại Khoản 10 Điều 3 Luật cạnh tranh.
Khi vi phạm pháp luật cạnh tranh thì chủ thể vi phạm bị xử lý theo quy định của
Luật cạnh tranh. Căn cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 56 Luật cạnh tranh việc giải
quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh thực hiện
theo quy định của luật này và pháp luật xử lý vi phạm hành chính. Các hành vi đủ yếu tố
cấu thành tội phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
1
.
Xử phạt hành chính là biện pháp được áp dụng chủ yếu đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh nói chung và xâm phạm BMKD nói riêng. Theo Điều 117 Luật cạnh
tranh hướng dẫn chi tiết tại Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ,
tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính cảnh cáo; phạt
tiền đến 20 triệu
2
Đồng, chịu các hình thức xử phạt bổ sung sau như thu hồi giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu
tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Ngoài ra tổ chức,

cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả như:
Cải chính công khai; Loại bỏ những điều khoản vi phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng hoặc
1
Phân tích tương tự như phân tích đối với Luật SHTT
2
Điều 31 Nghị định 120/2005/NĐ-CP
NHÓM FRIENDS Page 23
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
giao dịch kinh doanh; Các biện pháp cần thiết khác để khắc phục tác động hạn chế cạnh
tranh của hành vi vi phạm.
Theo quy định tại Đoạn 2, Khoản 3 Điều 17 Luật Cạnh tranh, “Tổ chức, cá nhân có
hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, các nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật”. Như vậy, bên cạnh biện pháp hành chính, trong Luật cạnh tranh còn
đề cập đến việc bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, bồi thường thiệt hại chỉ được nhắc đến
như là một chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm cả
hành vi xâm phạm BMKD. Bồi thường thiệt hại là khôi phục, đền bù, nhằm bù đắp
những tổn thất về vật chất và tinh thần mà bên mang quyền phải gánh chịu do hành vi vi
phạm các quy tắc trong kinh doanh của bên kia gây ra. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh của
nước nào cũng quy định chế tài này. Theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, khi áp dụng
chế tài bồi thường thiệt hại thì phải dẫn chiếu đến pháp luật dân sự. Vấn đề khởi kiện đòi
bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong đó có hành vi xâm
phạm BMKD sẽ được áp dụng theo các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng và được quy tại Chương XXI của Bộ luật Dân sự năm 2005 và pháp luật
có liên quan. Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định được pháp luật thừa
nhận, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, chế tài bồi
thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác
1
. Tuy nhiên, việc khởi kiện
ra tòa án dân sự chỉ dừng lại ở việc đòi bồi thường thiệt hại như là một cơ chế tách rời

nhằm đảm bảo quyền lợi của các chủ thể bị xâm phạm quyền chứ không nằm trong tổng
thể của vụ việc liên quan đến hành vi xâm phạm BMKD. Bên cạnh đó, Luật cạnh tranh
cũng không có một điều khoản nào thêm nói về vấn đề trên nên xét về mặt tổng thể và
căn cứ vào Khoản 2 Điều 56 Luật cạnh tranh thì vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi
xâm phạm BMKD chỉ tồn tại một biện pháp bảo hộ duy nhất là biện pháp hành chính.
1
Xem Quách Thị Hương Giang (2011), “Chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế, />NHÓM FRIENDS Page 24
Cơ chế bảo hộ quyền đối với bí mật kinh doanh theo Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh
Như vậy, việc xử lí các biện pháp khi phát hiện các hành vi xâm phạm đến BMKD
thì có thể đưa ra cơ quan quản lí cạnh tranh hoặc hội đồng cạnh tranh để giải quyết vụ
việc. Hơn nữa doanh nghiệp có thể yêu cầu cơ quan quản lý cạnh tranh hoặc hội đồng
cạnh tranh có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với các hành vi ảnh hưởng đến
BMKD trong quá trình chứng minh việc vi phạm ấy.Việc xử lý các hành vi xâm hại đến
BMKD được quy định tại Điều 117 Luật canh tranh. Đồng thời nếu phát hiện và chứng
minh được có các hành vi xâm hại đến BMKD thì vụ việc được xử lí theo Điều 31 Nghị
định 120/2005/NĐ-CP ngày 30-9-2005 của Chính phủ về việc xử lý vi phạm pháp luật
trong cạnh tranh.
2.4. Ưu và nhược điểm của cơ chế bảo vệ quyền đối với bí mật kinh doanh trong
Luật SHTT và Luật cạnh tranh:
Đối với áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ và yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ - ở đây
là xâm phạm bí mật kinh doanh phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công
khai, bồi thường thiệt hại được quy định tại Điểm a, Điểm b, Khoản 1, Điều 198, xét về
bản chất, đó là hành vi mang tính chủ động và tính phòng ngừa của chủ sở hữu bí mật
kinh doanh, không nhấn mạnh vào cơ chế thực thi, các chế tài nhằm đảm bảo thực hiện,
cũng như trình tự thủ tục để thực hiện quyền nên không có sự khác biệt không đáng kể
trong hai ngành luật. Vì lí do đó, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, nhóm không đi sâu
vào phân tích biện pháp này mà chủ yếu đi sâu phân tích và so sánh các biện pháp có sự
khác biệt về hệ quả áp dụng trong hai ngành luật là các biện pháp dân sự trong Luật

SHTT và biện pháp hành chính theo luật cạnh tranh, so sánh biện pháp hành chính trong
Luật Canh tranh và hành chính trong Luật SHTT để bảo vệ quyền sở hữu đối với bí mật
kinh doanh.
Thứ nhất, xét về thời hiệu giải quyết các vụ việc liên quan đến xâm phạm bí mật
kinh doanh, Theo Khoản 2 Điều 58 Luật cạnh tranh “Thời hiệu khiếu nại là hai năm kể
từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh tranh được thực hiện”. Điều này
có nghĩa là bên khiếu nại chỉ có quyền khiếu nại vụ việc trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày
NHÓM FRIENDS Page 25

×