Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.6 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA SAU ĐẠI HỌC
  
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 11:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
TS BÙI VĂN MƯA BÙI NGỌC LAN ANH
LỚP: CHKT K20 ĐÊM 1
STT: 04 - NHÓM 1
Tp.Hồ Chí Minh, 2011
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
  
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………
……………………………………………………………


……………………………………………………………
……………………………………………………………
………………………………………………………….
2
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
PHẦN MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
1Lí do chọn đề tài 5
2Mục tiêu nghiên cứu 5
3Phương pháp nghiên cứu 6
4Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 6
5Cấu trúc nghiên cứu 6
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại 7
1.Khái quát triết học Phương Đông cổ đại 7
2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Ấn Độ Cổ 8
3.Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết học Trung Quốc cổ đại 13
Chương 2: Sự Tương Đồng giữa Triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại 18
1.Nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề đạo đức, con người 18
2.Trong triết học có sự đan xen yếu tố Duy vật và duy tâm không rõ ràng 22
Chương 3: Sự khác biệt giữa Triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại 23
KẾT LUẬN 25
Triết học Ấn độ cổ đại và triết học trung hoa cổ đại là có thể được xem là một trong
những chiếc nôi của nền Triết học phương Đông. Mặc Dù về sau có những trường
phái triết học mới ra đời và phát triển nhưng các trường phái này vẫn dựa trên hai
nền tảng này 25
Ở Việt Nam ta chịu ảnh hưởng nhiều nhất là từ tưởng triết học Trung Quốc cổ đại,
các quan niệm về con người, về cách đối nhân xử thế của các vị Khổng, Mạnh và
Nho Gia, Pháp Gia, đã tạo nên tính cách con người và tư tưởng Triết học Việt
Nam trong một thời gian dài. Cho đến tận bây giờ thì nhà nước ta vẫn áp dụng các

tư tưởng đó. Áp dụng “Đức Trị” và “Pháp Trị” trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam 25
Tư tưởng Phật Giáo của Ấn Độ thì cũng đã du nhập vào Việt Nam từ lâu và cho đến
hôm nay đã phát triển mạnh mẽ. Việt Nam cũng là một trong những nước có số
lượng tín đồ Phật Giáo rất đông. Có thể nói Đạo Phật đã góp một phần quan trọng
trong việc giáo dục tư tưởng con người chúng ta, dạy chúng ta biết yêu thương và
giúp đỡ nhau hơn, cùng hướng về một thế giới tốt đẹp mà ở đó giá trị đạo đức được
đưa lên hàng đầu và con người sống không tranh giành quyền lực, không tham, sân,
si 25
3
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Qua việc nghiên cứu tiểu luận này, đã giúp em hiểu sâu sắc hơn về nền Triết học
phương Đông nói chung và Triết học Trung Quốc cố đại cũng như Triết học Ấn Độ
cổ đại nói riêng. Từ đó sẽ vận dụng các tư tưởng, học thuyết đó vào thực tiễn cuộc
sống để suy nghĩ và giải quyết vấn đề logic hơn 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
4
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc
chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa
học về những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Lịch sử
Triết học đã trãi qua biết bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, có lúc phát
triển đến đỉnh cao như giai đoạn triết học của Arixtốt, Đêmôcrít và Platôn
nhưng cũng có lúc biến thành một môn của thần học theo chủ nghĩa kinh
viện trong một xã hội tôn giáo bao trùm mọi lĩnh vực vào thế kỷ thứ X – XV.
Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song song giữa hai nền Triết học

phương Tây và phương Đông. Do điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội,
văn hoá mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau. Nói đến triết
học phương Đông phải kể đến Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung
Quốc cổ đại. Đây là hai trong số những chiếc nôi Triết học sớm nhất, lâu
đời, phong phú và đã tạo nhiều dấu ấn đặc biệt cho nền lịch sử Triết học.
Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại đều có chung đặc
điểm là phân tích các vấn đề xuất phát từ nhân sinh quan, tuy nhiên do đặc
điểm kinh tế - chính trị, xã hội khác nhau nên mỗi nền triết học này cũng có
những đặc trưng khác nhau. Do đó nhóm 1 chọn đề tài: “Sự tương đồng và
khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để
phân tích sâu hơn về các vấn đề như sự hình thành, phát triển và nét đặc thù
cũng như những điểm tương đồng và khác biệt của hai nền Triết học này.
2 Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này đặt ra các mục tiêu cần nghiên cứu sau:
• Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ
đại
• Sự khác nhau giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ
đại
5
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
3 Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, tôi đã lựa chọn các phương pháp nghiên cứu sau.
a) Phương pháp luận theo chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận sự việc theo sự vận động
và phát triển của nó.
b) Thu thập dữ liệu:
– Thu thập thông tin từ sách vở, bài giảng, giáo
trình, báo, đài, internet.
4 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

Đề tài này giúp cho học viên cao học hiểu rõ hơn về nền Triết học Phương
Đông, chủ yếu là Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại. Chủ
yếu là học viên đi sâu vào sự tương đồng và khác biệt giữa hai nền Triết học
này để có sự hiểu biết đúng đắn và sâu sắc. Đồng thời, qua đó học viên nâng
cao trình độ tư duy lí luận và vận dụng sáng tạo tư duy biện chứng vào lĩnh vực
công tác chuyên môn của chính mình.
5 Cấu trúc nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 2: Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 3: Sự khác biệt giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
6
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn độ cổ đại và
Trung Quốc cổ đại
  
1. Khái quát triết học Phương Đông cổ đại
Lịch sử triết học Phương Đông nổi bật với hai hệ thống triết học lớn là triết
học Ấn Độ và triết học Trung Quốc
Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại trải qua hai
thời kỳ chính: Thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV đến thể kỷ VIII TCN) và thời
kỳ cổ điển (còn gọi là thời kỳ Bàlamôn – phật giáo, khoảng thế kỷ VI TCN đến
thế kỷ VI).
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ đại là quan tâm giải
quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng "hướng
nội", đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói:
sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết
học Ấn Độ cổ, trung đại (trừ trường phái Lokàyata), và hầu hết các học thuyết
triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều

duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên.
Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời Tam đại (Hạ,
Thương, Chu). Sự phát triển của triết học Trung Quốc cổ - trung đại là một quá
trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa các trường phái (Âm dương gia, Nho
gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia). Mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư
tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị -
đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và
đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng
của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình
chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn
mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung
Hoa thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc
về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn
7
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất
duy vật và biện chứng của người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới
thế giới quan triết học sau này không những của người Trung Hoa mà cả những
nước chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung Hoa.
2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết
học Ấn Độ Cổ
a) Điều kiện ra đời
• Điều kiện tự nhiên: Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn thuộc bán
đảo Nam Á có những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao (bao
gồm cả nước Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay), lại vừa có biển rộng;
vừa có sông Ấn chảy về phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông;
vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh,
lại có nắng cháy, nóng bức

• Điều kiện kinh tế - xã hội: Xã hội Ấn Độ cổ đại ra đời sớm, có điều kiện
và dân cư rất đa dạng. Ấn Độ cổ - Trung đại được chia thành 4 thời kỳ: Thời
kỳ văn minh sông Ấn, thời kỳ văn minh Vêđa, thời kỳ các vương triều độc
lập và thời kỳ các vương triều lệ thuộc. Từ trong nền văn minh sông Ấn của
người bản địa Đraviđa xa xưa, nhà nước Ấn Độ cổ đã xuất hiện, đến thế kỷ
XVII trước công nguyên, thiên tai (lũ lụt trên sông Ấn…) đã làm cho nền
văn minh này sụp đổ. Vào khoảng thế kỷ XV trước Công nguyên, các bộ lạc
du mục Arya ở Trung Á xâm nhập vào Ấn Độ. Họ định canh, định cư và tiến
hành quá trình nô dịch, đồng hóa, hỗn chủng với các bộ lạc bản địa Đraviđa.
Kinh tế tiêu biểu nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp mang tính tự
cung, tự cấp, lấy gia đình, gia tộc của người Arya làm cơ sở, đã tạo nền tảng
vững chắc cho các công xã nông thôn ra đời. Trong mô hình của công xã
nông thôn đã hình thành bốn đẳng cấp với sự phân biệt hết sức khắc nghiệt
và dai dẳng; ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nước của các đế vương;
nhà nước kết hợp với Tôn giáo thống trị nhân dân và bóc lột nông nô công
xã; tôn giáo bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội; con người sống nặng về
tâm linh tinh thần và khao khát được giải thoát. Sư phân biệt về đẳng cấp,
chủng tộc, dòng dõi, tôn giáo, nghề nghiệp v.v… đã tạo ra những xung đột
8
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
ngấm ngầm trong xã hội nhưng bị kìm giữ bởi sức mạnh tinh thần của nhà
nước – tôn giáo. Xã hội phát triển một cách chậm chạp và nặng nề.
• Điều kiện về văn hóa: Văn hóa Ấn Độ được hình thành và phát triển trên
cơ sở điều kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ cổ đại đã tích
lũy được nhiều kiến thức về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được
hiện tượng nhật thực, nguyệt thực ở đây, toán học xuất hiện sớm: phát
minh ra số thập phân, tính được trị số π, biết về đại số, lượng giác, phép
khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học đã xuất hiện những danh y
nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo mộc. Chữ viết

đã xuất hiện từ thời văn hóa Harappa; các bộ kinh Vêđa và sử thi sớm xuất
hiện; Nghệ thuật tạo hình như Kiến trúc, điêu khắc được thể hiện trong các
cung điện, đền chùa, tháp, lăng tẩm, trụ đá…; sản sinh ra nhiều tôn giáo lớn
như đạo Bàlamôn – Hinđu, đạo Phật, đạo jaina, đạo Xích,…
b) Các đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học Ấn Độ cổ đại là loại hình Triết học tôn giáo. Tôn giáo và Triết học
xen kẽ vào nhau. Trong Tôn giáo có màu sắc Triết học, trong Triết học có
màu sắc Tôn giáo. Tuy nhiên Tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội”
đi sâu tìm hiểu sức mạnh của đời sống tâm linh, tinh thần, không phải
“hướng ngoại” như các tôn giáo phương Tây tìm kiếm sức mạnh nơi thượng
đế.
Hầu hết các hệ thống Triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn đề nhân
bản, đó là vấn đề nhân sinh quan và con đường giải thoát.
Cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm xung quanh
các vấn đề: Bản nguyên vũ trụ + Con người, linh hồn, đạo đức.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học
Ấn Độ cổ đại
Người ta phân chia quá trình hình thành ra 2 thời kỳ chính:
- Thời kỳ thứ nhất: Thời kỳ Vêđa khoảng thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 8 TCN
Trong thời kỳ này con người quan niệm về thế giới, về đời sống bằng các
biểu tượng huyền thoại, đa thần. Những quan niệm đó được thể hiện trong
các tác phẩm chủ yếu là kinh Vêđa và Upanisal
9
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
+ Vêđa có nghĩa là hiểu biết, tri thức cao cả, thiêng liêng, nó cũng được dùng
với nghĩa là “Kinh thánh”.
+ Kinh Upanishad: Là những kinh sách bình chú tôn giáo - triết học, gồm
200 bài kinh giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của những tư tưởng thần thoại,
tôn giáo Vêđa. Nó thể hiện một tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự

ràng buộc của nghi lễ và bàn đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự.
-Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ cổ điển (hay Bà la môn và Phật giáo): Thế kỷ thứ
7 TCN đến thế kỷ 6 SCN. Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ Ấn Độ đã
phát triển cao, nhưng vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức
công xã nông thôn, cùng sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế
trung ương tập quyền và sự khắc nghiệt của chế độ đẳng cấp. Trong lĩnh vực
tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo được coi là hệ tư tưởng chính
thống, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết học thời kỳ
này với khuynh hướng đa dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau,
vừa mang tính chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo.
Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo
lên đến đỉnh cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Vêđa. Từ đó đã
hình thành cách phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái
triết học thành hai phái chính:
+ Hệ thống chính thống bảo vệ cho chế độ đẳng cấp xã hội thừa nhận uy thế
của kinh Vêđa (có 6 trường phái): 1) Samkhya, 2) Nyaya, 3) Vaisêsika, 4)
Mimamsa, 5) Yoga và 6) Védanta.
+ Phái triết học không chính thống (Nastika) bác bỏ uy thế tối cao của kinh
Vêđa, đạo Bàlamôn gồm 3 trường phái chính là: 1) Các trường phái triết học
vô thần, duy vật trong phong trào mới đòi tự do tư tưởng ở Đông ấn và
trường phái triết học duy vật tiêu biểu Lokayata hay chủ nghĩa duy vật khoái
lạc Charvaka; 2) Phật giáo và 3) Đạo Jaina.
d) Nội dung cơ bản của Triết học Ấn Độ cổ đại
Tư tưởng Triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu bàn về Thế
giới quan và Nhân sinh quan.
10
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
1/- Thế giới quan: (Thế giới quan: Quan niệm của con người về thế giới:

tự nhiên và xã hội)
Phật giáo đưa ra các luận điểm: Vô tạo giả, vô ngã, vô thường, nhân
duyên.
Vô tạo giả:
- Nghĩa là không có ai sáng tạo ra thế giới, bởi vì mọi vật đều có nhân,
có quả, không có nguyên nhân đầu tiên (Phật giáo không thừa nhận đấng sáng
tạo)
- Mọi vật trong vũ trụ, kể cả con người là tự có theo luật nhân quả.
Chúng biến đổi vô cùng vô tận.
Vô ngã: Phật giáo cho rằng thế giới (vạn vật và con người) được cấu tạo
từ các yếu tố vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Sắc và danh chỉ hội tụ nhau
trong một thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác, sinh sinh, hóa hóa,
tan hợp, hợp tan. Do đó vạn vật chỉ là dòng biến hóa hư ảo vô cùng, không có
gì là thường định. Phật giáo quan niệm: sự tồn tại của một con người ở trên đời
chỉ là ngắn ngủi bởi vì các yếu tố tạo nên con người chỉ nhóm lại trong chốc lát
rồi lại chuyển hóa thành cái khác.
Thủy + Hỏa + Thổ + Phong + Không/ 5 yếu tố vật chất (Sắc) + Thức /
1 yếu tố tinh thần (Danh)
Vô thường: Phật giáo quan niệm: Thế giới này không có cái gì là
thường định (ổn định), vĩnh hằng, đứng im một chỗ mà mọi vật đều thường
xuyên biến đổi theo một chu trình: Sinh, Trụ, Dị, Diệt. Sinh là sinh ra, Trụ là
tồn tại, phát triển trong một thời gian, Dị là biến đổi, Diệt là tiêu vong, là mất.
Nhân duyên: Nhân là nguyên nhân, duyên là điều kiện. Tất cả các sự
vật, hiện tượng trong thế giới này xuất hiện đều có nguyên nhân và điều kiện.
Duyên là điều kiện giúp cho nhân trở thành quả, quả lại do duyên mà thành
nhân khác, nhân khác lại do duyên mà thành quả mới. Cứ như thế không có
nguyên nhân đầu tiên và không có kết quả cuối cùng.
2/- Nhân sinh quan (quan điểm của con người về cuộc sống)
a) Thuyết luân hồi, nghiệp báo
 Luân hồi: Bánh xe quay tròn

Lý giải: Khi người ta chết thì chết về thể xác, còn linh hồn bất tử,
còn sống đầu thai sang kiếp khác.
 Nghiệp báo: là cái do hành động của ta gây ra, trong cuộc đời
hiện hữu của mỗi người đều phải gánh chịu hậu quả của những hành vi do
kiếp trước gây ra. Đạo Phật cho rằng một người tu nhân, tích đức ở kiếp này,
đời này thì đời sau thiện báo, còn đời này ác thì đời sau ác báo: Thiện giả 
11
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Thiện báo; Ác giả  Ác báo. Cuộc đời con người trong vòng số kiếp kiếp
này là quả của kiếp trước và lại là nhân của kiếp sau.
Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý.
Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm
nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà
bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo,
độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã
hội của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
b) Thuyết tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế là đạo lý căn bản của
Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý
Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
• Khổ đế : Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy
vì sao mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Theo
cách phân tích khác, Phật chia cái khổ ra làm 8 loại: Sinh, lão, bệnh, tử, Ái
biệt ly, Sở cầu bất đắc, Oán tăng hội, Ngũ uẩn
• Tập đế: Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ,
gồm ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) còn gọi là tam độc, là nguồn gốc
của mọi sự khổ. Nhân đế được diễn giải trong thuyết thập nhị nhân duyên
để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian gồm: Vô minh, Hành,

Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão - tử
• Diệt đế : Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống
thế gian để đạt tới cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự
tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng
thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
• Đạo đế : Đạo đế là con đường hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả
giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Nội dung cơ bản thể hiện trong thuyết
12
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Bát chính đạo, gồm có: Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh
tấn, Chính niệm, Chính định, Chính kiến, Chính tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ
hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ sung
cho nhau.
3. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết
học Trung Quốc cổ đại
a) Điều kiện ra đời:
• Điều kiện tự nhiên: Có hơn 60 dân tộc với 5 dân tộc lớn, lớn nhất là
Hán. Cờ có 5 ngôi sao tượng trưng cho sự đoàn kết của các dân tộc, ngôi
sao lớn tượng trưng cho dân tộc Hán
1. Chế độ phong kiến: Ra đời sớm, kết thúc muộn so với các nước phương
Tây – Trong lòng xã hội phong kiến không có yếu tố tư bản.
Phương Tây: phong kiến: thế kỷ 4 đến 15  11 thế kỷ  yếu tố Tư bản 
cách mạng tư sản.
Trung Quốc bước vào chế độ chiếm hữu nô lệ sớm  Nhà Hạ
2. Chiến tranh diễn ra liên miên

Thời Xuân thu: 3 thế kỷ với 483 cuộc chiến tranh.
Mạnh Tử: “Đánh nhau tranh thành thì thây chất đầy thành, đánh nhau giành
đất thì thây chất đầy đồng”.
b) Các đặc điểm Triết học Trung Quốc cổ đại
1. Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức
Thường những nhà triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham
mưu cho các vương triều đình – có đạo đức tiêu biểu cho xã hội đương thời –
như Khổng Tử.
2. Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu,
Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất có nhiều học thuyết gọi thời kỳ
này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà
đua tiếng”
3. Vấn đề cơ bản của triết học
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nói chung, trong triết học Trung Hoa nói
riêng là mối quan hệ: Thiên – Địa – Nhân.
13
Bùi Ngọc Lan Anh
5
Hán nho
3 TCN
Chiến
quốc
8 TCN
Chiếm hữu nô lệ
21 TCN
Chiếm hữu nô lệ suy tàn
Chế độ phong kiến hình thành phát triển
Khổng Tử: Mạnh Tử, Tuân Tử
Xuân
thu

Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chủ yếu diễn ra
xung quanh các vấn đề:
+ Khởi nguyên vũ trụ: Duy tâm: Trời (Đổng Trọng Thư). Duy vật: âm dương,
ngũ hành
+ Vấn đề con người: số phận, tính người. Duy tâm: Do trời – Mệnh trời: Sống
chết, giàu nghèo do thiên mệnh quy định. Duy vật: Hoàn cảnh và giáo dục
(quyết định).
+ Nhận thức: Duy tâm: 3 dạng: Thánh nhân + Thượng trí + Hạ ngu có học
cũng không biết. Duy vật: mọi tầng lớp phải học mới biết.
4. Trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc cổ đại các yếu tố: Duy
vật, duy tâm, vô thần, hữu thần đan xen vào nhau đôi khi khó thấy.
Phân biệt nhà triết học duy vật – duy tâm không như phương Tây.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học
Trung Quốc cổ đại
Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, nhiều học
giả đưa ra học thuyết của mình nhằm biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng
loạn lạc bấy lâu nay. Có hàng trăm học giả với hàng trăm học thuyết được ra
đời, cho nên, thời này còn được gọi là thời Bách gia chư tử. Trong hàng trăm
học thuyết đó có sáu học phái lớn là Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc
gia, Pháp gia, Danh gia. Sang thời kỳ phong kiến hưng thịnh, Nho gia đã
vươn lên vai trò thống trị. Từ thời Tần – Hán, rồi Lưỡng Hán, Ngụy - Tấn,
Tùy – Đường trở nên thiên hạ thống nhất, dựa vào năng lực chính trị, giai
cấp thống trị yêu cầu thống nhất, dựa vào quyền lực chính trị, giai cấp thống
trị yêu cầu thống nhất tư tưởng hoặc tôn Nho, hoặc sùng Đạo, hoặc sùng
Phật. Năm 136 Hán Vũ Đế chấp nhận kiến nghị của Đổng Trọng Thư nên đã
ra lệnh bãi truất Bách gia, độc tôn Nho thuật. Mặc dù được đề cao, nhưng để
giữ vai trò thống trị lâu dài, Nho gia phải hấp thụ các tư tưởng của các
trường phái khác. Kinh học do Nho làm chủ đã xuất hiện. Sau giai đoạn
thống trị của Nho gia đến thời kỳ hưng thịnh của đạo giáo, với sự xuất hiện

của Huyền học do Đạo làm chủ. Rồi tiếp theo là sự vươn lên của Phật học do
Phật giáo làm chủ. Sự phát triển mạnh tư tưởng triết học thời kỳ này là cơ sở
để dân tộc Trung Hoa sáng tạo nên một nền văn hóa huy hoàng trong thời kỳ
cực thịnh của xã hội phong kiến Trung Quốc. Đến thời Tống, Nho học lại
được đề cao và phát triển đến đỉnh cao. Hình thức biểu hiện của nó là Lý học
14
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
– dung hợp đạo Phật vào Nho. Các nhà tư tưởng đời Thanh như Hoàng Tông
Hy, Cố Viêm Võ, Vương Phu Chi đề xướng Thực học, tiến hành tổng kết
một cách duy vật các cuộc tranh cãi hơn nghìn năm về hữu và vô (động và
tỉnh), tâm và vật (tri và hành)… Như vậy, sự phát triển của triết học Trung
Hoa cổ - trung đại là một quá trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các
trường phái.
d) Nội dung cơ bản triết học Trung Quốc cổ đại
Học thuyết nho giáo
Khổng tử là người sáng lập ra nho giáo vào cuối thời kỳ Xuân thu là thời kỳ
mà người ta rất quan tâm đến đạo đức, chính trị, xã hội. Ông coi hoạt động
đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn
thiện nhân cách cá nhân cho con người. Đến thời chiến quốc, do bất đồng
về bản tính con người mà nho giáo bị chia thành 8 phái, trong đó có phái
của Tôn tử và phái của Mạnh tử là mạnh nhất. Mạnh tử có nhiều đóng góp
đáng kể cho sự phát triển của nho giáo nguyên thủy, ông đã khép lại một
giai đoạn quan trọng – giai đoạn hình thành nho giáo, nho giáo Khổng –
Mạnh còn được gọi là nho giáo nguyên thủy hay nho giáo tiên Tần.
Nội dung cơ bản của Nho giáo: Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là phải đào
tạo cho được những người cai trị kiểu mẫu – người Quân tử (Quân = cai trị;
Quân tử = người cai trị). Để trở thành người quân tử, trước hết là phải tu
thân. Có ba tiêu chuẩn chính:
1. Đạt “đạo”: Đạo là con đường, là những mối quan hệ mà con người phải

biết cách ứng xử trong cuộc sống. Có 5 đạo: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh
em, bè bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu). 5 Đạo đó gọi
là ngũ luân (luân = thứ bậc, cư xử). Trong xã hội, cách ứng xử hợp lý hơn cả
là trung dung (dung hòa ở giữa).
2. Đạt “đức”: Người quân tử, theo Khổng tử, nếu có 3 điều nhân – trí –
dũng thì gọi là đạt đức. Về sau, Mạnh tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa”
thành 4 đức “nhân, lễ, nghĩa, trí”. Đến đời Hán thêm “tín” thành 5 đức gọi là
ngũ thường.
3. Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo”, “đức”, người quân tử còn phải biết thi –
thư – lễ – nhạc. Khổng tử nói rằng con người “hưng khởi trong lòng là nhờ
15
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
học thi, lập thân được là nhờ biết lễ, thành công được là nhờ có nhạc” (Luận
ngữ). Nói cách khác, ông đòi hỏi người cai trị không thể là dân võ biền, mà
phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Tu thân rồi, bổn phận của người quân tử là Hành Động, phải tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Kim chỉ nan cho mọi hành động cho việc cai trị là 2 phương
châm:
1. Phương châm thứ nhất là Nhân trị. Nhân là tình người; Nhân trị là cai trị
bằng tình người, coi người như bản thân mình.
2. Phương châm thứ hai là Chính danh. Chính danh là sự vật phải ứng với
tên gọi, mỗi người phải làm đúng với chức phận của mình. Chính danh trong
cai trị là phải làm sao để “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (Luận
ngữ). “Nếu danh không chính thì lời nói không thuận, lời nói không thuận
thì tức việc chẳng thành” (Luận ngữ).
Đó chính là những nét chủ yếu nhất trình bày trong các kinh sách của học
thuyết Nho giáo. Gọn hơn nữa, nó đã được người sáng lập tóm gọn trong 9
chữ tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và 9 chữ ấy cũng nằm trong chữ 2
cai trị mà thôi.

Học thuyết đạo gia
Đạo gia được Lão tử sáng lập ra và sau đó được Trang tử phát triển thêm vào
thời Chiến quốc. Kinh điển của Đạo gia chủ yếu tập trung lại trong bộ Đạo
đức kinh do Lão Tử soạn và Nam hoa kinh do Trang tử và một số người
theo Đạo gia viết. Trong đó Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên
vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín, huyền diệu của vạn vật, vừa để
chỉ con đường, quy luật chung của mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra trong
thế giới. Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của
đạo, là cái hình thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với
nhau đó là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật. Đạo gia xem xét đạo không
chỉ là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã, đang, và sẽ tồn
tại trong thế giới. Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên lý thống nhất –
vận hành của vạn vật – đạo lý – nguyên lý đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang
tính khách quan,vừa mang tính phổ biến; vì vậy trong thế giới, không đâu
16
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
không có đạo, không ai không theo đạo. Quan niệm về đạo, đức của trường
phái Đạo gia thể hiện một trình độ khái quát cao của tư duy biện chứng khi
giải quyết vấn đề bản nguyên của thế giới.
Lão Tử cho rằng vũ trụ vận động biến đổi theo hai quy luật: quy luật bình
quân và quy luật phản phục. Luật bình quân là luôn cho sự vật được cân
bằng theo một trật tự điều hòa tự nhiên, không có cái gì thái quá, bất cập.
Luật phản phục là sự phát triển đến cực điểm thì quay trở lại phương hướng
cũ. Đây là quản điểm biện chứng mang tính máy móc đơn giản. Vạn vật chỉ
vận động tuần hoàn,lặp đi lập lại.
Trong quan niệm về nhân sinh và chính trị – xã hội, Lão Tử đã xây dựng
thuyết vô vi tức là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác. Xã hội lý
tưởng đối với ông là những nước nhỏ, dân ít. Dân hai nước ở cạnh nhau, dù
cách nhau bởi một bờ dậu nhỏ hay một con mương cạn,cùng nghe tiếng chó

sủa tối, tiếng gà gáy sáng… nhưng đến già đến chết họ cũng không bao giờ
qua lại thăm nhau.
Sang thời Chiến quốc, xuất phát từ quan niệm của Lão Tử coi vạn vật đều do
đạo sinh ra. Trang Tử cho rằng, trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vật với ta đều
là một. Trang Tử đã biến các yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử
thành chủ nghĩa tương đối và thuyết ngụy biện. Ông cho rằng đúng sai, trên
dưới, sang hèn, bần tiện đều như nhau; coi đời như một cuộc giải trí, một cõi
mộng mơ mà khi tỉnh dậy không biết ta hóa bướm hay bướm hóa ta; chủ
trương sống thuận theo thời vì cái tự nhiên nào cũng hợp lý cả cho nên
không khen chê phải trái, tốt xấu làm gì, phải lánh nạn để bảo tồn sinh mạng.
Tóm lại Nho gia và Đạo gia là những trường phái những triết lý, nhân sinh
quan khác nhau; có những điểm khác nhau như đường lối trị dân (Nho gia
đòi hỏi người trị vì thiên hạ phải là bậc thánh nhân quân tử, với những phẩm
chất đạo đức sáng ngời nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… chủ trương xây dựng một
xã hội đại đồng thì Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng
lẽ tự nhiên của đạo vô vi, và chủ trương xóa bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó). Cả hai học thuyết của Khổng Tử và Lão Tử đều không
17
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
được xã hội đương thời chú ý. Song cả hai đều là những trường phái có ảnh
hưởng to lớn đến đời sống xã hội sau này.
Chương 2: Sự Tương Đồng giữa Triết Học Ấn độ cổ
đại và Trung Quốc cổ đại
  
1. Nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề
đạo đức, con người
* Triết học Ấn Độ cổ đại:
Khía cạnh về các vấn đề đạo đức và con người được nói rõ trong tư tưởng triết

học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy, chủ yếu nói về Nhân sinh quan của phật
Thích ca. Nó thể hiện cô đọng trong câu nói của Phật Thích Ca: Hỡi
chúngsinh, ta chỉ dạy cho các người chỉ có một điều, đó là điều khổ và diệt
khổ; Nếu nước biển có một vị là vị mặn thì học thuyết của ta cũng có một vị là
vị giải thoát. Nhân sinh quan của Phật giáo được trình bày trong thuyết Tứ
diệu đế với bốn bộ phận là: khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
+ Khổ đế là lý luận về những nỗi khổ rõ ràng ở thế gian. Theo Phật có 8 nỗi
khổ (bát khổ) trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: sinh khổ,
lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ (yêu thương mà phải chia ly), sở cầu
bất đắc khổ (muốn mà không được), oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải sống
với nhau), ngũ uẩn khổ (sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn - sắc, thụ, tưởng,
hành, thức).
+ Nhân đế là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con
người. Phật giáo cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không
thoát ra khỏi dòng sông luân hồi. Mà luân hồi là do nghiệp tạo ra. Sở dĩ có
nghiệp là do lòng ham muốn, tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham giàu
sang…), do sự ngu dốt và si mê, nói ngắn gọn là do Tam độc (tham, sân, si)
gây ra. Ngoài ra, nhân đế được diễn giải một cách lôgích và cụ thể trong thuyết
Thập nhị nhân duyên (12 nguyên nhân dẫn đến bể khổ): vô minh, hành, thức,
danh – sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão - tử. Trong 12 nguyên
nhân ấy thì vô minh là nguyên nhân thâu tóm tất cả, vì vậy, diệt trừ vô minh là
diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.
18
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
+ Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian
để đạt tới niết bàn. Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến mất, luân
hồi sẽ chấm dứt…, tâm sẽ thanh thản, thần sẽ minh mẫn, niết bàn sẽ xuất
hiện… Diệt đế bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra cho
mọi người thấy cái hiện tại đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo lại nó

thành một cuộc sống xán lạn, tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện khát vọng nhân
bản, muốn hướng con người đến cõi hạnh phúc "tuyệt đối", muốn hướng khát
vọng chân chính của con
người tới chân – thiện - mỹ.
+ Đạo đế là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát. Nội dung cơ bản của nó
thể hiện trong thuyết Bát chính đạo (tám con đường đúng đắn) đưa chúng sinh
đến niết bàn, đó là: chính kiến (hiểu biết đúng), chính tư duy (suy nghĩ đúng),
chính ngữ (lời nói chân thật), chính nghiệp (hành động đúng đắn), chính mệnh
(sống một cách chân chính), chính tinh tấn (thẳng tiến mục đích đã chọn),
chính niệm (ghi nhớ những điều hay lẽ phải), chính định (tập trung tư tưởng
vào một điều chính đáng). Chung quy, bát chính đạo là suy nghĩ, nói năng,
hành động đúng đắn… ; nhưng về thực chất, thực hành bát chính đạo là khắc
phục tam độc bằng cách thực hiện tam học (giới, định, tuệ). Trong đó, tham
được khắc phục bằng giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh); sân được
khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính niệm, chính định); si được khắc
phục bằng tuệ (chính kiến, chính tư duy).
Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành Ngũ giới (không sát sinh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không ẩm tửu); rèn luyện Tứ
đẳng (từ, bi, hỉ, xả)… Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất
công, đòi bình đẳng công bằng xã hội, khuyên chúng sinh luôn suy nghĩ về
điều thiện và làm điều thiện…
* Triết học Trung Quốc cổ đại:
Dựa trên thuyết thiên mệnh, Khổng Tử cho rằng: Thiên mệnh chi vị tính, xuất
tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo, và Tính tương cận, tập tương viễn. Điều
này có nghĩa là: Con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái
tính ấy về cơ bản là đồng đều ở mỗi con người. Nhưng trong cuộc sống, do
điều kiện, hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không
19
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại

giống nhau mà người này khác xa người kia. Vậy, tập là nguyên nhân làm biến
tính ở mỗi con người, làm cho con người không giữ được tính do trời phú cho,
làm cho con người trở nên vô đạo; rồi cả nước, cả thiên hạ vô đạo. Vì vậy,
muốn giữ được tính cho con người phải lập đạo; nghĩa là phải làm (giáo dục)
cho cả nước, cả thiên hạ hữu đạo. Đạo phải có giáo mới sâu sắc, vững chắc và
rộng khắp. Còn mục đích của giáo là làm cho mọi người, mọi nhà, cả thiên hạ
hữu đạo. Hữu đạo là thể hiện được mối quan hệ giữa người và người, giữa
người và trời đất - vạn vật một cách đúng đắn, nghĩa là phù hợp với thiên
mệnh21. Khổng Tử cho rằng, nếu lập đạo của trời, nói về âm và dương; lập đạo
của đất, nói về cương và nhu; thì lập đạo của người, phải nói về nhân và nghĩa.
Quan niệm về nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức Nho gia
nguyên thủy. Chúng hợp với các quan niệm khác tạo thành hệ thống phạm trù
đạo đức của phái này: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng…
- Quan niệm về nhân: Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản qui định bản
tính con người, chi phối mọi quan hệ giữa người với người trong xã hội, và nó
được hiểu rất rộng. Khổng Tử cho rằng, nhân là lòng thương người (ái nhân);
còn Mạnh Tử thì cho rằng, nhân là lòng trắc ẩn. Nói chung, nhân là cách đối
xử của con người với con người, để tạo ra người. Muốn thực hiện đạo làm
người, tức muốn thực hiện đức nhân cần phải: Điều gì mà mình không muốn
thì cũng đừng đem áp dụng cho người khác; Mình muốn lập thân thì cũng giúp
người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt;
Khống chế mình theo đúng lễ… Người có đức nhân thì bên ngoài xã hội luôn
cung, khoan, tín, mẫn, huệ (cung kính, khoan hòa, tín nhiệm, nhạy bén, rộng
rãi)…, bên trong gia đình luôn hiếu, đễ (hiếu thảo, nhường nhịn)…Quan niệm
về nhân của Khổng Tử có nội dung giai cấp rõ ràng, ông cho rằng chỉ có người
quân tử, tức kẻ cai trị, mới có được đức nhân, còn người tiểu nhân, tức nhân
dân lao động, không thể có được đức nhân. Nghĩa là, đạo nhân chỉ là đạo của
người quân tử, của giai cấp thống trị.
- Quan niệm về nghĩa: Theo Nho gia, nếu nhân là lòng thương người, đức nhân
dùng để đối xử với người và tạo ra người, thì nghĩa là dạ thủy chung, đức

nghĩa dùng để đối xử với chính mình và tạo ra ta. Đức nhân thể hiện trong
quan hệ với người khác; còn đức nghĩa thể hiện trong quan hệ với mình, khi tự
20
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
vấn lương tâm mình về điều mình nên nói, về việc mình nên làm. Khi nói một
điều gì đó hay khi làm một việc gì đó mà ta cảm thấy thỏa mái, thảnh thơi,
hứng thú trong lương tâm thì đó là ta nói điều nghĩa, ta làm việc nghĩa. Vậy,
nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể làm
điều đó có đem lại cho người thực hiện nó ích lợi gì hay không. Khổng Tử cho
rằng, con người muốn sống tốt phải biết lấy nghĩa để đáp lại lợi, chứ không nên
lấy lợi đáp lại lợi, vì lấy lợi đáp lại lợi sẽ sinh ra oán trách…
Song, do hạn chế bởi lập trường giai cấp, mà Khổng Tử cho rằng, bậc quân tử
tinh tường về việc nghĩa, kẻ tiểu nhân rành rẽ về việc lợi. Như vậy, tiểu nhân và
quân tử là hai loại người đối lập nhau không phải chủ yếu về địa vị xã hội mà
chủ yếu là về phẩm chất đạo đức.
- Quan niệm về lễ: Để đạt được nhân, để lập lại trật tự, khôi phục lại kỷ cương
cho xã hội Khổng Tử chủ trương phải dùng lễ, đặc biệt là lễ của nhà Chu. Vì lễ
có thể: xác định được vị trí, vai trò của từng người; phân định trật tự, kỷ cương
trong gia đình và ngoài xã hội; loại trừ những tật xấu và tạo ra những phẩm
chất cá nhân mà xã hội đòi hỏi. Do nhận thấy tác dụng to lớn của lễ mà Khổng
Tử đã dốc sức san định lại lễ. Ở Khổng Tử, trước hết, lễ được hiểu là lễ giáo
phong kiến như những phong tục tập quán; những qui tắc, qui định về trật tự xã
hội; thể chế, pháp luật nhà nước như: sinh, tử, tang, hôn, tế lễ, luật lệ, hình
pháp…; sau đó, lễ được hiểu là luân lý đạo đức như ý thức, thái độ, hành vi
ứng xử, nếp sống của mỗi con người trong cộng đồng xã hội trước lễ nghi, trật
tự, kỷ cương phong kiến. Nhân và lễ có quan hệ rất mật thiết. Nhân là nội dung
bên trong của lễ, còn lễ là hình thức biểu hiện nhân ra bên ngoài. Nhân giống
như cái nền tơ lụa trắng tốt mà trên đó người ta vẽ lên những bức tranh tuyệt
đẹp. Khổng Tử cho rằng, trên đời không hề tồn tại người có nhân mà vô lễ. Vì

vậy, ông khuyên chớ xem điều trái lễ, chớ nghe điều trái lễ, chớ nói điều trái lễ
và chớ làm điều trái lễ.
Ngoài quan niệm về nhân, nghĩa, lễ, Nho gia còn bàn đến: trí – tức là sự sáng
suốt nhận thức thấu đáo mọi vấn đề, hiểu đạo trời, đạo người, hiểu cả thiên hạ,
biết sống hợp với nhân; tín – tức là lòng ngay dạ thẳng, lời nói và việc làm nhất
trí với nhau, dũng – tức là sức mạnh tinh thần, lòng can đảm, biết xấu hổ vì cái
sai cái xấu để vứt bỏ chúng mà làm theo nhân nghĩa… Chúng là các nguyên tắc
21
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
cơ bản của đạo đức Nho giáo. Khổng Tử còn cho rằng, người quân tử có đủ trí,
nhân, dũng. Do có trí nên người quân tử không nhầm lẫn, do có nhân nên
người quân tử không
buồn phiền, do có dũng nên người quân tử không có gì phải kinh sợ. Nếu
Khổng Tử chỉ chú trọng đến Tam đức (nhân, trí, dũng) thì sang thời Chiến
quốc, Mạnh Tử bỏ dũng thay vào đó lễ và nghĩa thành Tứ đức (nhân, lễ,
nghĩa,trí).
+ Cũng dựa trên thuyết Thiên mệnh, nhưng Mạnh Tử cho rằng nhân chi sơ
tính bản thiện; bởi vì, khi sinh ra mỗi con người đều có đủ nhân, lễ, nghĩa, trí.
Do có nhân nên ai cũng có lòng trắc ẩn, do có nghĩa nên ai cũng có lòng u tố,
do có lễ nên ai cũng có lòng cung kính, do có trí nên ai cũng biết lẽ thị phi.
Chúng toát ra từ tâm. Là người ai cũng có cái tâm. Tâm là cội nguộn của tính
thiện trong con người. Vì vậy, con người cần phải trường kỳ tâm dưỡng kỳ tính,
– tức gìn giữ cái tâm thiện ấy. Dù bản tính con người là thiện, nhưng trong cuộc
sống của con người vẫn có cái ác. Cái ác ấy xuất hiện là do kỷ cương xã hội rối
loạn, luân thường đạo lý bị đảo điên. Để vãn hồi tính thiện ở con người thì phải
lập lại trật tự kỷ cương cho xã hội trên cơ sở thực hành đường lối nhân nghĩa.
Như vậy, Khổng Tử và Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu
chuẩn của người quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần phải tu thân.
Để tu thân cần phải đạt đạo - con đường phải theo, quan hệ mà con người phải

biết để ứng xử trong cuộc sống -, mà trước hết là đạo quân – thần, phụ – tử,
phu – phụ cần phải đạt đức - phẩm chất tốt đẹp của con người cần phải thể
hiện trong cuộc sống -, và phải biết thi, thư, lễ, nhạc.
2. Trong triết học có sự đan xen yếu tố Duy vật và
duy tâm không rõ ràng
- Do chịu ảnh hưởng bởi tinh thần Vêđa mà triết học Ấn Độ cổ đại không
thể phân chia rõ ràng thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phép
biện chứng và phép siêu hình (như triết học phương Tây), mà chủ yếu được
chia thành các hệ thống chính thống và các hệ thống không chính thống.
Trong các trường phái triết học cụ thể luôn có sự đan xen giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện chứng và phép siêu hình với nhau.
22
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
- Triết học Trung Hoa cổ đaị cũng bị chi phối bởi cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; nhưng đó là cuộc đấu tranh xung quanh
vấn đề con người; vì vậy, vấn đề về quan hệ giữa Con người với Trời, Đất
(Thiên – Nhân – Địa) là vấn đề mang tính xuất phát và xuyên suốt qua toàn
bộ nền triết học này.
Chương 3: Sự khác biệt giữa Triết Học Ấn độ cổ đại
và Trung Quốc cổ đại
  
Ấn Độ cổ đại Trung Quốc cổ đại
1. Khởi nguyên của thế giới
Những trường phái có tính chất duy
tâm tôn giáo cho rằng khởi nguyên
của thế giới là Brahman – là thực tại
duy nhất của vũ trụ, là cái mà do đó
mọi vật được sinh trưởng, và cũng là
cái mà mọi vật nhập vào khi bị hủy

diệt. Brahman tồn tại vĩnh viễn và có
khi còn được coi là một vị thần sáng
tạo. Con người là một bộ phận của
Brahman, muốn trở về với cái vĩnh
hằng của con người phải tu luyện.
Phải thoát tục để Atman trở về với
Brahman.
Duy vật: thế giới này (kể cả con
người) được tạo thành từ những yếu tố
vật chất, tùy theo quan niệm khác
nhau của các phái mà yếu tố đó là:
nước, đất, không khí, hoặc trừu
tượng hơn là nguyên tử. Đồng thời với
quan niệm này người ta cũng cho rằng
“linh hồn cũng được sinh ra từ những
nguyên tố vật chất, nó mất đi khi thể
xác bị hủy diệt”
Duy tâm: khi giải quyết các vấn đề cơ
bản của Triết học thông qua việc luận
giải các phạm trù Tâm – Vật, Lý –
Khí, Thân – Hình, cho rằng Tâm, Lý,
Thân là cái có trước, là cái chủ động;
Vật, Khí, Hình là cái có sau, cái bị
động.
Duy vật: Vạn vật do ngũ hành (kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ) tương sinh, tương
khắc tạo thành. Trời, đất, vạn vật, con
người là do âm dương giao hòa mà tạo
nên.
“Cái tư tưởng luôn gắn liền với cái

thân thể, nó mất đi khi thân thể bị hủy
diệt ”
23
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
2. Vấn đề về con người:
Duy vật: linh hồn hay tư tưởng, ý thức
của con người nảy sinh từ vật chất và
nó liên quan đến thể xác của mỗi con
người. Vật chất sinh ra ý thức cũng
như gạo nấu thành rượu; ý thức, tưởng
của con người sẽ mất đi khi người ta
chết.
Duy tâm: con người gồm 2 phần: hồn
và xác. Phần xác có thể bị hủy diệt
nhưng phần hồn thì tồn tại vĩnh viễn.
Duy vật: con người là sản phẩm của
sự vận động phát triển có tính chất vật
chất như quan niệm “Ngũ hành”, “Âm
dương” hay con người là một phần
của sự phát triển của cái gọi là “Đạo”
hay “Tự nhiên”.
Duy tâm: tính người là có sẵn (bản
thiện hay bản ác, ) cũng có nhà triết
học cho rằng con người không thiện
cũng không ác, mà thiện hay ác là do
môi trường sống tạo ra.
3. Vấn đề về nhận thức
Nhận thức trong Ngũ đoạn luân của
phái Nyaya, Vaisesika: để chứng minh

một điều gì đó là chân thực hay giả
dối phải qua 5 bước sau: luận đề,
nguyên nhân, ví dụ, suy đoán và kết
luận
Khi bàn đến khả năng nhận thức của
con người, Khổng Tử cho rằng thánh
nhân không học cũng biết, quân tử học
thì biết, còn tiểu nhân có học cũng
không biết.
24
Bùi Ngọc Lan Anh
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
KẾT LUẬN
Triết học Ấn độ cổ đại và triết học trung hoa cổ đại là có thể được xem là một
trong những chiếc nôi của nền Triết học phương Đông. Mặc Dù về sau có
những trường phái triết học mới ra đời và phát triển nhưng các trường
phái này vẫn dựa trên hai nền tảng này.
Ở Việt Nam ta chịu ảnh hưởng nhiều nhất là từ tưởng triết học Trung Quốc cổ
đại, các quan niệm về con người, về cách đối nhân xử thế của các vị
Khổng, Mạnh và Nho Gia, Pháp Gia, đã tạo nên tính cách con người
và tư tưởng Triết học Việt Nam trong một thời gian dài. Cho đến tận bây
giờ thì nhà nước ta vẫn áp dụng các tư tưởng đó. Áp dụng “Đức Trị” và
“Pháp Trị” trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Tư tưởng Phật Giáo của Ấn Độ thì cũng đã du nhập vào Việt Nam từ lâu và
cho đến hôm nay đã phát triển mạnh mẽ. Việt Nam cũng là một trong
những nước có số lượng tín đồ Phật Giáo rất đông. Có thể nói Đạo Phật
đã góp một phần quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng con người
chúng ta, dạy chúng ta biết yêu thương và giúp đỡ nhau hơn, cùng hướng
về một thế giới tốt đẹp mà ở đó giá trị đạo đức được đưa lên hàng đầu và
con người sống không tranh giành quyền lực, không tham, sân, si.

Qua việc nghiên cứu tiểu luận này, đã giúp em hiểu sâu sắc hơn về nền Triết
học phương Đông nói chung và Triết học Trung Quốc cố đại cũng như
Triết học Ấn Độ cổ đại nói riêng. Từ đó sẽ vận dụng các tư tưởng, học
thuyết đó vào thực tiễn cuộc sống để suy nghĩ và giải quyết vấn đề logic
hơn.
25
Bùi Ngọc Lan Anh

×