Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.58 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA SAU ĐẠI HỌC
  
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ
TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Giảng viên hướng dẫn: Học viên thực hiện:
Thầy BÙI VĂN MƯA NGUYỄN VĂN DŨNG
LỚP: CHKT K20 ĐÊM 1
STT:12 - NHÓM 1
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Nguyễn Văn Dũng 2
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
  
………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………


………………………………………….
Nguyễn Văn Dũng 3
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
PHẦN MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
1Lí do chọn đề tài 5
2Mục tiêu nghiên cứu 5
3Phương pháp nghiên cứu 5
4Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 6
5Cấu trúc nghiên cứu 6
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại 7
1.Khái quát triết học Phương Đông cổ đại 7
2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học Ấn Độ cổ đại 8
3.Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học Trung Quốc cổ đại 13
Chương 2: Sự Tương Đồng giữa triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại 18
1.Nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề đạo đức, con người 18
2.Trong triết học có sự đan xen yếu tố duy vật và duy tâm không rõ ràng 19
Chương 3: Sự khác biệt giữa triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại 20
1.Bản thể luận 20
2.Nhận thức luận 23
KẾT LUẬN 26
Sự hình thành của nền triết học Trung Quốc cổ đại và Ấn Độ cổ đại có nhiều nét tương đồng
về mặt thời gian và nguồn gốc, cả hai đều khuyết danh sau đó mới có tác giả là những triết
gi vĩ đại. Đặc biệt cả hai nền triết học này đều hướng tới con người và lấy con người làm
trung tâm, đồng thời tập trung nhiều trong vấn đề về đạo đức. Ngoài ra thì sự phân biệt giữa
yếu tố duy vật và duy tâm không rõ ràng trong cả triết học Trung Quốc cổ đại và Ấn Độ cổ
đại 26
Tuy nhiên triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Ấn Độ cổ đại có sự khác biệt rất lớn
trong vấn đề bản thể luận và nhận thức luân: Nếu ở Ấn Độ nhiều trường phái triết học liên
quan tới đạo Bàlamôn và Phật giáo thì ở Trung Quốc lại thiên về dòng chính thống Nho

giáo 26
27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
Nguyễn Văn Dũng 4
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung
của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là khoa học về những
qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Lịch sử Triết học đã trãi qua biết
bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, có lúc phát triển đến đỉnh cao như giai đoạn triết
học của Arixtốt, Đêmôcrít và Platôn nhưng cũng có lúc biến thành một môn của thần
học theo chủ nghĩa kinh viện trong một xã hội tôn giáo bao trùm mọi lĩnh vực vào thế
kỷ thứ X – XV. Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song song giữa hai nền Triết
học phương Tây và phương Đông. Do điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn
hoá mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau. Nói đến triết học phương
Đông phải kể đến Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại. Đây là hai
trong số những chiếc nôi Triết học sớm nhất, lâu đời, phong phú và đã tạo nhiều dấu
ấn đặc biệt cho nền lịch sử Triết học. Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc
cổ đại đều có chung đặc điểm là phân tích các vấn đề xuất phát từ nhân sinh quan, tuy
nhiên do đặc điểm kinh tế - chính trị, xã hội khác nhau nên mỗi nền triết học này cũng
có những đặc trưng khác nhau. Do đó nhóm 1 chọn đề tài: “Sự tương đồng và khác
biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để phân tích sâu hơn
về các vấn đề như sự hình thành, phát triển và nét đặc thù cũng như những điểm tương
đồng và khác biệt của hai nền Triết học này.
2 Mục tiêu nghiên cứu
Để tài này đặt ra các mục tiêu cần nghiên cứu sau:
• Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Trung Quốc cổ đại
• Sự khác nhau giữa triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Trung Quốc cổ đại
3 Phương pháp nghiên cứu

Đối với đề tài này, tôi đã lựa chọn các phương pháp nghiên cứu sau.
Nguyễn Văn Dũng 5
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
a) Phương pháp luận theo chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận sự việc theo sự vận động và phát triển
của nó.
b) Thu thập dữ liệu:
– Thu thập thông tin từ sách vở, bài giảng, giáo trình, báo,
đài, internet.
4 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài này giúp cho học viên cao học hiểu rõ hơn về nền triết học Phương Đông,
chủ yếu là triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Trung Quốc cổ đại. Chủ yếu là học viên
đi sâu vào sự tương đồng và khác biệt giữa hai nền Triết học này để có sự hiểu biết
đúng đắn và sâu sắc. Đồng thời, qua đó học viên nâng cao trình độ tư duy lí luận và
vận dụng sáng tạo tư duy biện chứng vào lĩnh vực công tác chuyên môn của chính
mình.
5 Cấu trúc nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 2: Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 3: Sự khác biệt giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Nguyễn Văn Dũng 6
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn độ cổ đại và
Trung Quốc cổ đại
1. Khái quát triết học Phương Đông cổ đại
Lịch sử triết học Phương Đông nỗi bật với hai hệ thống triết học lớn là triết học Ấn
Độ và triết học Trung Quốc
Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại trải qua hai thời kỳ
chính: Thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV đến thể kỷ VIII TCN) và thời kỳ cổ điển (còn

gọi là thời kỳ Bàlamôn – phật giáo, khoảng thế kỷ VI TCN đến thế kỷ VI).
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ đại là quan tâm giải quyết
những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng "hướng nội", đi tìm cái
Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói: sự phản tỉnh nhân
sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn Độ cổ, trung đại (trừ
trường phái Lokàyata), và hầu hết các học thuyết triết học này đều biến đổi theo xu
hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên.
Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu).
Sự phát triển của triết học Trung Quốc cổ - trung đại là một quá trình đan xen, thâm
nhập lẫn nhau giữa các trường phái (Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và
Pháp gia). Mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những
vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên
quan điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã
hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự
xã hội theo mô hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá
trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Hoa thời
cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự biến dịch
của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn có những hạn chế nhất
định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của
người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới quan triết học sau này
Nguyễn Văn Dũng 7
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
không những của người Trung Hoa mà cả những nước chịu ảnh hưởng của nền triết
học Trung Hoa.
2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học Ấn
Độ cổ đại
a) Điều kiện ra đời
• Điều kiện tự nhiên: Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn thuộc bán đảo Nam
Á có những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao (bao gồm cả nước

Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay), lại vừa có biển rộng; vừa có sông ấn chảy về
phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu, lại có
sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có nắng cháy, nóng bức
• Điều kiện kinh tế - xã hội: Xã hội ấn Độ cổ đại ra đời sớm, có điều kiện và dân
cư rất đa dạng. Ấn Độ cổ - Trung đại được chia thành 4 thời kỳ: Thời kỳ văn minh
sông Ấn, thời kỳ văn minh Vêđa, thời kỳ các vương triều độc lập và thời kỳ các vương
triều lệ thuộc. Từ trong nền văn minh sông Ấn của người bản địa Đraviđa xa xưa, nhà
nước Ấn Độ cổ đã xuất hiện, đến thế kỷ XVII trước công nguyên, thiên tai (lũ lụt trên
sông Ấn…) đã làm cho nền văn minh này sụp đổ. Vào khoảng thế kỷ XV trước Công
nguyên,các bộ lạc du mục Arya ở Trung Á xâm nhập vào Ấn Độ. Họ định canh, định
cư và tiến hành quá trình nô dịch, đồng hóa, hỗn chủng với các bộ lạc bản địa Đraviđa.
Kinh tế tiêu biểu nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp mang tính tự cung, tự cấp,
lấy gia đình, gia tộc của người Arya làm cơ sở, đã tạo nền tảng vững chắc cho các
công xã nông thôn ra đời. Trong mô hình của công xã nông thôn đã hình thành bốn
đẳng cấp với sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và dai dẳng; ruộng đất thuộc quyền sở
hữu của nhà nước của các đế vương; nhà nước kết hợp với Tôn giáo thống trị nhân dân
và bóc lột nông nô công xã; tôn giáo bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội; con người
sống nặng về tâm linh tinh thần và khao khát được giải thoát. Sư phân biệt về đẳng
cấp, chủng tộc, dòng dõi, tôn giáo, nghề nghiệp,v.v… đã tạo ra những xung đột ngấm
ngầm trong xã hội nhưng bị kìm giữ bởi sức mạnh tinh thần của nhà nước –tôn giáo.
Xã hội phát triển một cách chậm chạp và nặng nề.
• Điều kiện về văn hóa: Văn hóa ấn Độ được hình thành và phát triển trên cơ sở
điều kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy được nhiều
Nguyễn Văn Dũng 8
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
kiến thức về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực,
nguyệt thực ở đây, toán học xuất hiện sớm: phát minh ra số thập phân, tính được trị
số π, biết về đại số, lượng giác, phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học đã
xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo
mộc. Chữ viết đã xuất hiện từ thời văn hóa Harappa; các bộ kinh Vêđa và sử thi sớm

xuất hiện; Nghệ thuật tạo hình như Kiến trúc, điêu khắc được thể hiện trong các cung
điện, đền chùa, tháp, lăng tẩm, trụ đá…; sản sinh ra nhiều tôn giáo lớn như đạo
Bàlamôn – Hinđu, đạo Phật, đạo jaina, đạo Xích,…
b) Các đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học Ấn Độ cổ đại là loại hình Triết học tôn giáo. Tôn giáo và Triết học xen kẽ
vào nhau. Trong Tôn giáo có màu sắc Triết học, trong Triết học có màu sắc Tôn giáo.
Tuy nhiên Tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội” đi sâu tìm hiểu sức mạnh của
đời sống tâm linh, tinh thần, không phải “hướng ngoại” như các tôn giáo phương Tây
tìm kiếm sức mạnh nơi thượng đế.
Hầu hết các hệ thống Triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn đề nhân bản, đó
là vấn đề nhân sinh quan và con đường giải thoát.
Cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm xung quanh các vấn
đề: Bản nguyên vũ trụ + Con người, linh hồn, đạo đức.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Ấn Độ
cổ đại
Người ta phân chia quá trình thành 2 thời kỳ chính
- Thời kỳ thứ nhất: Thời kỳ Vêđa khoảng thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 8 TCN
Trong thời kỳ này con người quan niệm về thế giới, về đời sống bằng các biểu
tượng huyền thoại, đa thần. Những quan niệm đó được thể hiện trong các tác phẩm
chủ yếu là kinh Veđa và Upanisal
+ Vêđa có nghĩa là hiểu biết, tri thức cao cả, thiêng liêng, nó cũng được dùng với
nghĩa là “Kinh thánh”.
+ Kinh Upanishad: Là những kinh sách bình chú tôn giáo - triết học, gồm 200 bài
kinh giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của những tư tưởng thần thoại, tôn giáo Véđa. Nó
thể hiện một tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự ràng buộc của nghi lễ và bàn
đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự.
Nguyễn Văn Dũng 9
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
- Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ cổ điển (hay Bà la môn và Phật giáo): Thế kỷ thứ 7 TCN
đến thế kỷ 6 SCN. Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ ấn Độ đã phát triển cao,

nhưng vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn, cùng sự
thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền và sự khắc nghiệt
của chế độ đẳng cấp. Trong lĩnh vực tinh thần, thế giới quan duy tâm, tôn giáo được
coi là hệ tư tưởng chính thống, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu
triết học thời kỳ này với khuynh hướng đa dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác
nhau, vừa mang tính chất triết học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo.
Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo lên đến đỉnh
cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Véđa. Từ đó đã hình thành cách phân
chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái triết học thành hai phái chính:
+ Hệ thống chính thống bảo vệ cho chế độ đẳng cấp xã hội thừa nhận uy thế của
kinh Vêđa (có 6 trường phái): 1) Samkhya, 2) Nyaya, 3) Vaisêsika, 4) Mimamsa, 5)
Yoga và 6) Védanta.
+ Phái triết học không chính thống (Nastika) bác bỏ uy thế tối cao của kinh Véđa,
đạo Bàlamôn gồm 3 trường phái chính là: 1) Các trường phái triết học vô thần, duy vật
trong phong trào mới đòi tự do tư tưởng ở Đông ấn và trường phái triết học duy vật
tiêu biểu Lokayata hay chủ nghĩa duy vật khoái lạc Charvaka; 2) Phật giáo và 3) Đạo
Jaina.
d) Nội dung cơ bản TH Ấn Độ cổ đại
Tư tưởng Triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu bàn về Thế giới quan
và Nhân sinh quan.
1/- Thế giới quan: (Thế giới quan: Quan niệm của con người về thế giới: tự
nhiên và xã hội)
Phật giáo đưa ra các luận điểm: Vô tạo giả, vô ngã, vô thường, nhân duyên.
Vô tạo giả:
- Nghĩa là không có ai sáng tạo ra thế giới, bởi vì mọi vật đều có nhân, có quả,
không có nguyên nhân đầu tiên (Phật giáo không thừa nhận đấng sáng tạo)
- Mọi vật trong vũ trụ, kể cả con người là tự có theo luật nhân quả. Chúng biến đổi
vô cùng vô tận.
Vô ngã: Phật giáo cho rằng thế giới (vạn vật và con người) được cấu tạo từ các yếu

tố vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Sắc và danh chỉ hội tụ nhau trong một thời gian
Nguyễn Văn Dũng 10
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác, sinh sinh, hóa hóa, tan hợp, hợp tan. Do đó
vạn vật chỉ là dòng biến hóa hư ảo vô cùng, không có gì là thường định. Phật giáo
quan niệm: sự tồn tại của một con người ở trên đời chỉ là ngắn ngủi bởi vì các yếu tố
tạo nên con người chỉ nhóm lại trong chốc lát rồi lại chuyển hóa thành cái khác.
Thủy + Hỏa + Thổ + Phong + Không/ 5 yếu tố vật chất (Sắc) + Thức / 1 yếu tố tinh
thần (Danh)
Vô thường: Phật giáo quan niệm: Thế giới này không có cái gì là thường định (ổn
định), vĩnh hằng, đứng im một chỗ mà mọi vật đều thường xuyên biến đổi theo một
chu trình: Sinh, Trụ, Dị, Diệt. Sinh là sinh ra, Trụ là tồn tại, phát triển trong một thời
gian, Dị là biến đổi, Diệt là tiêu vong, là mất.
Nhân duyên: Nhân là nguyên nhân, duyên là điều kiện. Tất cả các sự vật, hiện
tượng trong thế giới này xuất hiện đều có nguyên nhân và điều kiện. Duyên là điều
kiện giúp cho nhân trở thành quả, quả lại do duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại
do duyên mà thành quả mới. Cứ như thế không có nguyên nhân đầu tiên và không có
kết quả cuối cùng.
2/- Nhân sinh quan (quan điểm của con người về cuộc sống)
1. Thuyết luân hồi, nghiệp báo
 Luân hồi: Bánh xe quay tròn
Lý giải: Khi người ta chết thì chết về thể xác, còn linh hồn bất tử, còn sống đầu thai
sang kiếp khác.
 Nghiệp báo: là cái do hành động của ta gây ra, trong cuộc đời hiện hữu của mỗi
người đều phải gánh chịu hậu quả của những hành vi do kiếp trước gây ra. Đạo Phật
cho rằng một người tu nhân, tích đức ở kiếp này, đời này thì đời sau thiện báo, còn đời
này ác thì đời sau ác báo: Thiện giả  Thiện báo; Ác giả  Ác báo. Cuộc đời con
người trong vòng số kiếp kiếp này là quả của kiếp trước và lại là nhân của kiếp sau.
Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý. Hạnh phúc
của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần giáo lý Phật, con

người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người
sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc ác
thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của những con
người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
2. Thuyết tứ diệu đế:
Nguyễn Văn Dũng 11
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế là đạo lý căn bản của Thanh
Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý Phật. Tứ đế gồm
có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế: Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì
sao mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Theo cách phân tích
khác, Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường chi
phối nên khổ.
2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ đến.
Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da, xương tủy thì
da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu đến ấy làm cho
người ta phiền não.
3, Bệnh khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu, thân
thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ: Là cái khổ khi người ta chết.
5, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
6, Sở cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích, mong
cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được rồi thì
phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8, Ngũ uẩn khổ: sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn – sắc, thụ, tưởng, hành, thức.
b. Tập đế: Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ, gồm

ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của mọi sự khổ.
Nhân đế được diễn giải trong thuyết thập nhị nhân duyên để thấy được nguồn gốc của
sự vật trong thế gian gồm:
1. Vô minh 2. Hành 3. Thức 4. Danh - sắc. 5. Lục nhập 6. Xúc 7. Thụ 8. Ái 9. Thủ
10. Hữu 11. Sinh 12. Lão - tử
c. Diệt đế: Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế
gian để đạt tới cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Nguyễn Văn Dũng 12
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi nào
khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu hành
nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an lạc, siêu
thoát, tịnh diệt.
d. Đạo đế: Đạo đế là con đường hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả giải
thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Nội dung cơ bản thể hiện trong thuyết Bát chính đạo,
gồm có:
1. Chính ngữ: là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tinh tấn: tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến những điều hay lẽ phải.
6. Chính định: giữ tâm vắng lặng, tập trung vào một điều chính đáng.
7. Chính kiến: tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách chân
chính, làm chủ được dòng tư duy.

Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ hay
còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ sung cho nhau.
1. Giới học: dùng để khắc phục tham gồm chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh.
2. Định học: dùng để khắc phục sân gồm chính tinh tấn, chính niệm, chính định.
3. Tuệ học: dùng để khắc phục si gồm chính kiến, chính tư duy.
3. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học
Trung Quốc cổ đại
a) Điều kiện ra đời:
1. Nước có nhiều dân tộc: Có hơn 60 dân tộc với 5 dân tộc lớn, lớn nhất là Hán.
Cờ có 5 ngôi sao tượng trưng cho sự đoàn kết của các dân tộc, ngôi sao lớn tượng
trưng cho dân tộc Hán
Nguyễn Văn Dũng 13
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
2. Chế độ phong kiến: Ra đời sớm, kết thúc muộn so với các nước phương Tây –
Trong lòng xã hội phong kiến không có yếu tố tư bản.
3. Phương Tây: phong kiến: thế kỷ 4 đến 15  11 thế kỷ  yếu tố Tư bản 
cách mạng tư sản.
Trung Quốc bước vào chế độ chiếm hữu nô lệ sớm  Nhà Hạ
4. Chiến tranh diễn ra liên miên
Thời Xuân thu: 3 thế kỷ với 483 cuộc chiến tranh.
Mạnh Tử: “Đánh nhau tranh thành thì thây chất đầy thành, đánh nhau giành đất thì
thây chất đầy đồng”.
b) Các đặc điểm Triết học Trung Quốc cổ đại
1. Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức
Thường những nhà triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho
các vương triều đình – có đạo đức tiêu biểu cho xã hội đương thời – như Khổng Tử.
2. Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia
chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”
3. Vấn đề cơ bản của triết học

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nói chung, trong triết học Trung Hoa nói riêng
là mối quan hệ: Thiên – Địa – Nhân.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chủ yếu diễn ra xung
quanh các vấn đề:
+ Khởi nguyên vũ trụ: Duy tâm: Trời (Đổng Trọng Thư). Duy vật: âm dương, ngũ
hành
+ Vấn đề con người: số phận, tính người. Duy tâm: Do trời – Mệnh trời: Sống chết,
giàu nghèo do thiên mệnh quy định. Duy vật: Hoàn cảnh và giáo dục (quyết định).
+ Nhận thức: Duy tâm: 3 dạng: Thánh nhân + Thượng trí + Hạ ngu có học cũng
không biết. Duy vật: mọi tầng lớp phải học mới biết.
4. Trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc cổ đại các yếu tố: Duy vật, duy
tâm, vô thần, hữu thần đan xen vào nhau đôi khi khó thấy.
Phân biệt nhà triết học duy vật – duy tâm không như phương Tây.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học Trung
Quốc cổ đại
Nguyễn Văn Dũng 14
5
Hán nho
3 TCN
Chiến
quốc
8 TCN
Chiếm hữu nô lệ
21 TCN
Chiếm hữu nô lệ suy tàn
Chế độ phong kiến hình thành phát triển
Khổng Tử: Mạnh Tử, Tuân Tử
Xuân
thu
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại

Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, nhiều học giả đưa
ra học thuyết của mình nhằm biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng loạn lạc bấy lâu
nay. Có hàng trăm học giả với hàng trăm học thuyết được ra đời, cho nên, thời này còn
được gọi là thời Bách gia chư tử. Trong hàng trăm học thuyết đó có sáu học phái lớn là
Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, Danh gia. Sang thời kỳ phong
kiến hưng thịnh, Nho gia đã vươn lên vai trò thống trị. Từ thời Tần – Hán, rồi Lưỡng
Hán, Ngụy - Tấn, Tùy – Đường trở nên thiên hạ thống nhất, dựa vào năng lực chính
trị, giai cấp thống trị yêu cầu thống nhất, dựa vào quyền lực chính trị, giai cấp thống trị
yêu cầu thống nhất tư tưởng hoặc tôn Nho, hoặc sùng Đạo, hoặc sùng Phật. Năm 136
Hán Vũ Đế chấp nhận kiến nghị của Đổng Trọng Thư nên đã ra lệnh bãi truất bách gia,
độc tôn Nho thuật. Mặc dù được đề cao, nhưng để giữ vai trò thống trị lâu dài, Nho gia
phải hấp thụ các tư tưởng của các trường phái khác. Kinh học do Nho làm chủ đã xuất
hiện. Sau giai đoạn thống trị của Nho gia đến thời kỳ hưng thịnh của đạo giáo, với sự
xuất hiện của Huyền học do Đạo làm chủ. Rồi tiếp theo là sự vươn lên của Phật học do
Phật giáo làm chủ (Đường). Sự phát triển mạnh tư tưởng triết học thời kỳ này là cơ sở
để dân tộc Trung Hoa sáng tạo nên một nền văn hóa huy hoàng, xán lạn trong thời kỳ
cực thịnh của xã hội phong kiến Trung Quốc phải trải qua quá trình phát triển gần một
vòng, đến thời Tống. Nho học lại được đề cao và phát triển đến đỉnh cao. Hình thức
biểu hiện của nó là Lý học – dung hợp đạo Phật vào Nho. Các nhà tư tưởng đời Thanh
như Hoàng Tông Hy, Cố Viêm Võ, Vương Phu Chi đề xướng Thực học, tiến hành tổng
kết một cách duy vật các cuộc tranh cãi hơn nghìn năm về hữu và vô (động và tỉnh),
tâm và vật (tri và hành)… Như vậy, sự phát triển của triết học Trung Hoa cổ - trung đại
là một quá trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các trường phái.
d) Nội dung cơ bản triết học Trung Quốc cổ đại
Học thuyết nho giáo
Khổng tử là người sáng lập ra nho giáo vào cuối thời kỳ Xuân thu là thời kỳ mà
người ta rất quan tâm đến đạo đức, chính trị, xã hội. Ông coi hoạt động đạo đức là nền
tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân
cho con người. Đến thời chiến quốc, do bất đồng về bản tính con người mà nho giáo bị
chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tôn tử và phái của Mạnh tử là mạnh nhất.

Nguyễn Văn Dũng 15
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Mạnh tử có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nho giáo nguyên thủy, ông
đã khép lại một giai đoạn quan trọng – giai đoạn hình thành nho giáo, nho giáo Khổng
– Mạnh còn được gọi là nho giáo nguyên thủy hay nho giáo tiên Tần.
Nội dung cơ bản của Nho giáo: Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là phải đào tạo cho
được những người cai trị kiểu mẫu – người Quân tử (Quân = cai trị; Quân tử = người
cai trị). Để trở thành người quân tử, trước hết là phải tu thân. Có ba tiêu chuẩn chính:
1. Đạt “đạo”: Đạo là con đường, là những mối quan hệ mà con người phải biết
cách ứng xử trong cuộc sống. Có 5 đạo: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn
(quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu). 5 Đạo đó gọi là ngũ luân (luân =
thứ bậc, cư xử). Trong xã hội, cách ứng xử hợp lý hơn cả là trung dung (dung hòa ở
giữa).
2. Đạt “đức”: Người quân tử, theo Khổng tử, nếu có 3 điều nhân – trí – dũng thì
gọi là đạt đức. Về sau, Mạnh tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa” thành 4 đức
“nhân, lễ, nghĩa, trí”. Đến đời Hán thêm “tín” thành 5 đức gọi là ngũ thường.
3. Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo”, “đức”, người quân tử còn phải biết thi - thư - lễ
– nhạc. Khổng tử nói rằng con người “hưng khởi trong lòng là nhờ học thi, lập thân
được là nhờ biết lễ, thành công được là nhờ có nhạc” (Luận ngữ). Nói cách khác, ông
đòi hỏi người cai trị không thể là dân võ biền, mà phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Tu thân rồi, bổn phận của người quân tử là Hành Động, phải tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ. Kim chỉ nan cho mọi hành động cho việc cai trị là 2 phương châm:
1. Phương châm thứ nhất là Nhân trị. Nhân là tình người; Nhân trị là cai trị bằng
tình người, coi người như bản thân mình.
2. Phương châm thứ hai là Chính danh. Chính danh là sự vật phải ứng với tên gọi,
mỗi người phải làm đúng với chức phận của mình. Chính danh trong cai trị là phải làm
sao để “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (Luận ngữ). “Nếu danh không
chính thì lời nói không thuận, lời nói không thuận thì tức việc chẳng thành” (Luận
ngữ).
Đó chính là những nét chủ yếu nhất trình bày trong các kinh sách của học thuyết

Nho giáo. Gọn hơn nữa, nó đã được người sáng lập tóm gọn trong 9 chữ tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và 9 chữ ấy cũng nằm trong chữ 2 cai trị mà thôi.
Học thuyết đạo gia
Nguyễn Văn Dũng 16
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Đạo gia được Lão tử sáng lập ra và sau đó được Trang tử phát triển thêm vào thời
Chiến quốc. Kinh điển của Đạo gia chủ yếu tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh do
Lão Tử soạn và Nam hoa kinh do Trang tử và một số người theo Đạo gia viết. Trong
đó Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô hình, phi cảm tính, phi ngôn từ,
sâu kín, huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con đường, quy luật chung của mọi sự sinh
thành, biến hóa xảy ra trong thế giới. Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức
mạnh tiềm ẩn của đạo, là cái hình thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt
được với nhau đó là cái lý sâu sắc để nhận biết vạn vật. Đạo gia xem xét đạo không chỉ
là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã, đang, và sẽ tồn tại trong thế
giới. Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên lý thống nhất – vận hành của vạn vật –
đạo lý – nguyên lý đạo pháp tự nhiên. Đạo vừa mang tính khách quan,vừa mang tính
phổ biến; vì vậy trong thế giới, không đâu không có đạo, không ai không theo đạo.
Quan niệm về đạo, đức của trường phái Đạo gia thể hiện một trình độ khái quát cao
của tư duy biện chứng khi giải quyết vấn đề bản nguyên của thế giới.
Lão Tử cho rằng vũ trụ vận động biến đổi theo hai quy luật: quy luật bình quân và
quy luật phản phục. Luật bình quân là luôn cho sự vật được cân bằng theo một trật tự
điều hòa tự nhiên, không có cái gì thái quá, bất cập. Luật phản phục là sự phát triển
đến cực điểm thì quay trở lại phương hướng cũ. Đây là quản điểm biện chứng mang
tính máy móc đơn giản. Vạn vật chỉ vận động tuần hoàn,lặp đi lập lại.
Trong quan niệm về nhân sinh và chính trị – xã hội, Lão Tử đã xây dựng thuyết vô
vi tức là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác. Xã hội lý tưởng đối với ông
là những nước nhỏ, dân ít. Dân hai nước ở cạnh nhau, dù cách nhau bởi một bờ dậu
nhỏ hay một con mương cạn,cùng nghe tiếng chó sủa tối, tiếng gà gáy sáng… nhưng
đến già đến chết họ cũng không bao giờ qua lại thăm nhau.
Sang thời Chiến quốc, xuất phát từ quan niệm của Lão Tử coi vạn vật đều do đạo

sinh ra. Trang Tử cho rằng, trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vật với ta đều là một. Trang
Tử đã đã biến các yếu tố biện chứng trong triết học của Lão Tử thành chủ nghĩa tương
đối và thuyết ngụy biện. Ông cho rằng đúng sai, trên dưới, sang hèn, bần tiện đều như
nhau; coi đời như một cuộc giải trí, một cõi mộng mơ mà khi tỉnh dậy không biết ta
hóa bướm hay bướm hóa ta; chủ trương sống thuận theo thời vì cái tự nhiên nào cũng
Nguyễn Văn Dũng 17
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
hợp lý cả cho nên không khen chê phải trái, tốt xấu làm gì, phải lánh nạn để bảo tồn
sinh mạng.
Tóm lại Nho gia và Đạo gia là những trường phái những triết lý, nhân sinh quan
khác nhau; có những điểm khác nhau như đường lối trị dân (Nho gia đòi hỏi người trị
vì thiên hạ phải là bậc thánh nhân quân tử, với những phẩm chất đạo đức sáng ngời
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng thì Lão Tử cho
rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi, và chủ trương
xóa bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho
con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó). Cả hai học thuyết của Khổng Tử và
Lão Tử đều không được xã hội đương thời chú ý. Song cả hai đều là những trường
phái có ảnh hưởng to lớn đến đời sống xã hội sau này.
Chương 2: Sự Tương Đồng giữa triết Học Ấn độ cổ đại
và Trung Quốc cổ đại
1. Nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề đạo
đức, con người
- Nền tảng triết học như một đạo đức sống: Ở Ấn Độ cổ đại, mỗi ngành học đều
kết hợp với một kỹ năng chuyên sâu và một lối sống tương ứng. Tri thức không gặt hái
từ sách vở hay từ bài giảng thuyết, những cuộc thảo luận và đàm thoại, mà việc nắm
vững nhờ việc học trực tiếp từ bậc thầy tinh thông. Nó đòi hỏi người đệ tử phải hết
lòng phục tùng uy quyền của đạo sư, điều kiện tiên quyết cở bản của nó là vâng lời và
lòng trung thành tuyệt đối. Vâng lời là lòng khao khát nhiệt tình được nghe, được tuân
phục và giữ gìn những gì đang nghe; nó hàm ý sự vâng lời , sự tôn kính, sự phục vụ.
Lòng trung thành tuyệt đối là sự tin cậy và điềm tĩnh của tâm thức; nó đòi hỏi người đệ

tử không mảy may mang ý nghĩa và sự phê phán độc lập nào; và một lần nữa ở đây lại
có sự tôn kính, cũng như lòng khát khao mạnh mẽ và say đắm.
Nguyễn Văn Dũng 18
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
- Quan niệm về đức của Khổng Tử trong Luận Ngữ có nhiều ý tưởng sâu sắc và
phong phú. Những quan niệm đó thể hiện lòng tin ở tính thiện của con người và chủ
trương bồi dưỡng, phát huy thiện đức của con người. Từ quan niệm về đức Khổng Tử
đi sâu bàn luận về nhân, lễ làm cơ sở cho đường lối đức trị của mình. Các nhà tư tưởng
Nho giáo về sau đều coi tư tưởng về đức của Khổng Tử là nền tảng của đường lối đức
trị. Quan niệm về đức của Khổng Tử không chỉ có ý nghĩa đối với xã hội cổ đại đương
thời mà còn có ý nghĩa đối với xã hội ta ngày nay. Trong bối cảnh xã hội đang chịu
nhiều tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường hiện nay, rất cần trở lại với
những giá trị đạo đức truyền thống trong đó có tư tưởng đức trị Nho giáo. Quan niệm
đức là gốc của con người và thiện đức phải biểu hiện ở hành động của Khổng Tử vẫn
còn nguyên giá trị và rất cần được tuyên truyền giáo dục rộng rãi trong xã hội ta ngày
nay.
2. Trong triết học có sự đan xen yếu tố duy vật và duy tâm
không rõ ràng
- Trong giáo huấn của Jaina giáo và các giáo huấn tương tự , vấn đề được mô tả
như thuộc về một nhân vật chậm chạp và không có sự sống. Đời tu khổ hạnh khắc
nghiệt của các “triết gia trần truồng” (các “giáo sư triết học ở trần” gây kinh ngạc cho
người Hy Lạp thời Alexander) theo đuổi một cách hợp lý từ quyết tâm triệt hạ chất
liệu chết này và do đó trả lại sự tinh khôi – tinh khiết, toả sáng, và hoàn hảo. Như
chúng ta đã biết, ở Ấn Độ, sức mạnh của quan điểm yaga, nhị nguyên thời tiền –
Aryan lớn đến nỗi thuyết nhất nguyên cởi mở của các giáo sĩ Bà la môn cuối cùng phải
chịu khuất phục. Đần dần sự khẳng định thế giới đầy sức sống của thời Vệ Đà chịu sự
thay đổi mâu thuẫn đến kỳ lạ, cho đến khi cái nói chung được xem là sự mệnh danh
phi – nhị ngyên tối cao của Brahman là hữu thể tinh khiết, ý thức và hạnh phúc tuyệt
đối, nguyên tắc yaga giành được chiến thắng gây ấn tương sâu sắc nhất. Vì sự thực là,
thay vì lý tưởng của thời kỳ tiền – Aryan, Jaina giáo, Yaga về “sự tan – hợp” của các

đơn tử - sống riêng biệt, mục đích mới là sự tái hợp nhất với một Saccidananda
Brahman “độc nhất vô nhị”, tuy nhiên sự tái hợp nhất phi – nhị nguyên này, sự thừa
nhận tính đồng nhất mà trên thực tế chưa bao giờ bị tước đoạt, được hiểu là đồng
nghĩa với sự bác bỏ khái niệm sai lầm về sự hiện hữu của vũ trụ: việc huỷ bỏ “sự thêm
Nguyễn Văn Dũng 19
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
vào” do “sự vô minh”. Cái không thể chạm tới được bằng đợt sóng gấp sáu lần (suy
nhược và chết, đói và khát, đau buồn và ảo tưởng), được suy ngẫm bằng trái tim của
hành giả chứ không được nắm bắt bằng các giác quan, điều mà khả năng trực giác
không thể biết, và điều là cái hoàn hảo: Brahman là bạn – hãy suy ngẫm điều này trong
tâm trí bạn”. Cũng thế, thái độ từ chỗ bỏ sự khổ hạnh cơ bản như trong quá khứ thời
tiền – Aryan, đã phân chia lĩnh vực con người thành các lĩnh vực ajiva và jiva, hiện
đang phân biệt giữa luân hồi và niết bàn, trong khi cố gắng đạt được sự đồng nhất
(“không có phần còn lại”) với thuật ngữ không ẩn ý.
- Brahman, sakti, bản chất - sức mạnh của triết học phi – nhị nguyên Ấn Độ là
nguyên lý thâm nhập khắp, làm sinh động toàn cảnh và những tiến triển của bản tính,
nhưng đồng thời là lĩnh vực hoặc vấn đề của thiên nhiên được bước vào làm cho sinh
động; do đó nó vừa cư ngụ trong, vừa là vũ trụ được biểu lộ và mọi hình thức của nó.
Khi động lực triền mien của lĩnh vực tạm thời về sự trở thành và tàn héo kết thúc, nó
sống trong mọi thay đổi của sự sinh trưởng và phân huỷ.
- Triết học Trung Quốc không có sự phân biệt rạch ròi giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm, không có đấu tranh biện chứng giữa các học thuyết triết học. Điều
này tạo nên đặc điểm tình thiếu triệt để, tính thiếu nhất quán. Chẳng hạn trường phái
Nho giáo, thế giới quan của Khổng tử dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm, giữa chủ nghĩa vô thần và hữu thần. Một mặt ông xem thiên (trời) là giới tự
nhiên, có vận hành của tự nhiên, ông nói “Trời nói lên tất cả? Bốn mùa vận hành, trăm
vật sinh ra”. Nhưng mặt khác, ông lại cho rằng trời một lực lượng vô hình chi phối vận
mệnh của xã hội, con người, “sống chết có mệnh, giàu sang có trời”. Ông chủ trương
thờ phụng quỷ thần “quỷ thần đáng kính, nhưng chớ có gần”
Chương 3: Sự khác biệt giữa triết Học Ấn độ cổ đại và

Trung Quốc cổ đại
1. Bản thể luận
a, Triết học Ấn Độ cổ đại
Nguyễn Văn Dũng 20
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Bản thể luận hiện thực Ấn Độ đã thừa nhận tính hiện thực của thế giới bên ngoài và
từ đó thừa nhận luôn khả năng của cá nhân về nhận thức thế giới đó. “Không hề có các
ý niệm bẩm sinh cũng như các nguyên lý tiên nghiệm. Mọi cái đều đi từ bên ngoài đi
tới cá nhân nhận thức…Nhận thức…nắm bắt hiện thực bên ngoài và hiện thực tự
thân”.
Phương châm bản thể luận của Phật giáo mang tính mâu thuẫn trực tiếp, nó phủ
định thực tế của hiện hữu với tư cách là tồn tại cũng như phi tồn tại. Nagarjuna khẳng
định: “Phật đã dạy cách tránh [sự quá đáng của học thuyết] về sự xuất hiện và huỷ
diệt. Vì vậy niết bàn về sự logic mà nói không có liên quan gì tới tồn tại cũng như phi
tồn tại. Song về mặt logic thì điều đó không thể xảy ra. Sự đình chỉ hoạt động của tất
cả các tri giác cũng như sự đình chỉ của tất cả các biểu hiện của thế giới về mặt trí true
(prapasa) chính là phúc”. Xuất phát từ đó mà có sự từ chối của Phật về lập luận hoặc
giải đáp các vấn đề siêu hình nào đó, Ngài coi trọng sự im lặng đối với các vấn đề này.
Tuy vậy, nghịch lý ở chỗ là mặc dù các vấn đề nêu trên, chính các Phật tử cũng tỏ ra là
những tài nghệ xuất sắc nhất về logic biện chứng. Họ đã sử dụng logic này vào luận
chiến với các đối thủ tư tưởng của mình ở Ấn Độ, rồi sau đó là các nước có sự truyền
bá của Phật giáo.
Bản thể luận: thể hiện trong 4 nguyên lý:
+ Vô tạo giả: đạo Phật cho rằng vũ trụ là vô thủy, vô chung, vạn vật trong thế giới chỉ
là dòng biến hoá vô thường, vô định, không do một vị thần nào sáng tạo nên cả. Phật
giáo cho rằng thế giới tồn tại khách quan, không do thần thánh sáng tạo ra.
+ Vô ngã: có nghĩa là không có linh hồn bất tử, sự vật hiện tượng xung quanh ta và
chính bản thân ta là không có thật mà nó được tạo thành từ các yếu tố mà Phật gọi là
Danh và Sắc. Danh là tinh thần, Sắc là vật chất. Thế giới do các yếu tố vật chất và tinh
thần kết hợp lại với nhau tạo nên.

+ Vô thường: có nghĩa là không có gì ổn định, bất biến. Phật khẳng định rằng thế giới
khách quan không có gì là vĩnh hằng, bất biến mà cái gì cũng có quá trình sinh thành,
biến đổi và tiêu vong theo luật Nhân - quả mà Phật gọi là Sinh, Trụ, Dị, Diệt, từ sự vật
nhỏ nhất cho đến vũ trụ đều tuân thủ luật trên.
+ Nhân quả tương tục: Phật khẳng định rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng trên đời đều
có nguyên nhân của nó. Nhân kết hợp với duyên thì sinh ra quả, quả lại kết hợp với
Nguyễn Văn Dũng 21
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
duyên lại biến thành nhân và sinh ra quả khác. Nhân và quả tạo thành một chuỗi không
ngừng nghỉ, Phật gọi là “Nhân quả tương tục vô gián đoạn"
b, Triết học Trung Quốc cổ đại
Trong triết học Trung Hoa truyền thống không có phạm trù nào được gọi là “có
trước nhất” so với phạm trù Đạo. Thế nhưng chính phạm trù Đạo này lại khó xác định
một cách chính xác hơn bất cứ phạm trù nào. Khó khăn của việc xác định Đạo bởi các
cấp độ ngữ nghĩa khác nhau vốn có của nó. Đạo với tư cách là nguồn gốc đầu tiên của
mọi thực tại luôn thể hiện sự thống nhất về nguồn gốc của thế giới. Nó là “Khởi
nguyên của trời và đất”, “là Thuỷ tổ của mọi sự vật”, là “Mẹ của thiên hạ”. Nó là hiện
thân cho sự thống nhất về bản chất của “vạn vật”. Như sách “Trang tử” đã nói, “trong
cái to lớn mà không chứa đủ, trong cái nhỏ bé nhất mà không thiếu…Cái bao la là cái
bao la, nó hàm chứa hết mọi thứ”. Ngoài rea, Đạo còn là quy luật phổ biến: “Con
người thể theo quy luật của Đất. Đất theo quy luật của Trời. Trời theo quy luật của
Đạo, và Đạo tuân theo bản thân nó.
Các yếu tố bản nguyên còn biểu hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau: ngũ phúc,
ngũ khí, ngũ vị, ngũ tạng v.v…Các hệ thống được phân thành âm dương và ngũ hành
được Đổng Trọng Thư quy về hệ thống thống nhất. Ông thừa nhận sự tồn tại của Đạo
với tư cách là cái Duy nhất, cái có trước cả Trời. Đạo đồng nghĩa với đức, nhờ có đức
mà tiềm năng thế giới được xuất hiện. Đức chứa đầy các phần tử đầu tiên của khí là
âm và dương, do sự tác động giữa chúng mà sinh ra tính đa dạng của thế giới. Trời có
năm yếu tố (ngũ hành): kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Đất là trung tâm của năm yếu tố với
trật tự do trời sắp đặt. Trời còn “sỉnh ra dân”, mà dân về bản chất của nó có thể là thiện

hoặc ác. “Để làm cho bản chất của dân thành thiện, Trời đặt ra ngôi thiên tử [để trị
dân]. Ý của trời là như vậy…Thiên tử tiếp nhận và thực hiện ý Trời, đồng thời có
nhiệm vụ thực hiện [việc hoàn thiện] bản chất của dân”. Dễ nhận thấy rằng, luận chiến
chính thống của Nho giáo đã tổng hợp các quan điểm rút ra từ các trường phái Trung
Hoa Cổ đại khác nhau, đồng thời thực hiện việc dung hoà chúng với nhau và đảm bảo
một số mặt thống nhất về tư tưởng, điều đó là cần thiết giúp cho việc duy trì tính bền
vững của hoàng đế Trung Quốc.
Nguyễn Văn Dũng 22
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
2. Nhận thức luận
a, Triết học Ấn Độ cổ đại
Phật giáo tuy bác bỏ Brahman và atman nhưng lại kế thừa thuyết luân hồi, nghiệp
báo trong đạo Balamôn. Thích ca Mau ni đã đưa ra thuyết “Tứ diệu đế” và “Thập nhị
nhân duyên” để giải thoát chúng sinh ra khỏi mọi nỗi khổ và kiếp nghiệp báo, luân hồi.
Đây là tư tưởng triết lý nhân sinh quan chủ yếu của đạo Phật. “Tứ diệu đế” là bốn chân
lý vĩnh hằng, thiêng liêng, cao cả, đúng đắn gồm có: Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế và Đạo
đế.
Khổ đế: Phật cho rằng đời là bể khổ vì vậy ta chỉ dạy các con một điều là khổ và diệt
khổ” và các nỗi khổ của con người thể hiện trong Bát khổ.
Nhân đế (Tập đế): Phật giáo giải thích nguyên nhân mọi nỗi khổ của con người. Phật
khẳng định rằng tất cả mọi nỗi khổ của con người đều có nguyên nhân của nó. Các
nguyên nhân của nỗi khổ được thể hiện qua “Thập nhị nhân duyên” (12 nỗi khổ của
con người).
Diệt đế: Phật nói khi con người ta tìm ra được nguyên nhân của nỗi khổ theo Thập nhị
nhân duyên thì Phật khẳng định rằng con người có thể từ bỏ tận gốc mọi nỗi khổ và
chỉ có như thế con người mới đến được cõi Niết bàn. Do vậy, Phật cho rằng cái khổ có
thể tiêu diệt được.
Đạo đế: Phật nói chúng sinh có thể tiêu diệt được nỗi khổ nếu đi theo con đường “Bát
chính đạo
b, Triết học Trung Quốc cổ đại

Nhận thức luận trong triết học Trung Quốc cổ đại được tập trung chủ yếu trong
triết lý nhân sinh Nho giáo.
Nhân sinh không chỉ bao gồm cuộc sống của con người và sinh mệnh của con
người mà gồm cả nhân tính nữa. Nhân sinh được biểu hiện ở khía cạnh sau:
Thứ nhất, về mặt sinh mệnh của con người. Đó chính là yếu tố cơ bản duy trì sự
sinh tồn của con người.
Thứ hai, cuộc sống của con người. Mục đích của cuộc sống không chỉ là làm tốt
cho mình mà còn làm cho cả nhân loại sống tốt hơn. Cuộc sống ở đây là cuộc sống nội
tâm và cuộc sống ngoại tâm, cũng có thể gọi là đời sống tinh thần và đời sống vật chất.
Thứ ba, phương hướng của con người, hướng về một mục tiêu nhất định.
Nguyễn Văn Dũng 23
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
+ Về cái sống và cái chết
Khổng Tử là người đã đặt cái sống trong quan hệ với cái chết. Đạo Khổng hướng
về sự sống chứ không phải hướng về cái chết. Tuy nhiên, khi phải đến với cái chết thì
đạo Khổng luôn khuyên người ta tìm cái bất tử, tìm cái vĩnh hằng trong cái chết.
Mạnh Tử cũng trình bày quan niệm của ông về sống - chết một cách hết sức rõ
ràng: “Sống là điều mà ta muốn, việc nghĩa cũng là điều mà ta muốn. Nếu không thể
làm được cả hai điều đó thì ta bỏ sống để theo nghĩa. Sống cũng là điều mà ta muốn,
nhưng cái mà ta muốn lại còn hơn cả sống, cho nên ta không tham sống một cách cẩu
thả. Chết là cái mà ta ghét, nhưng cái mà ta ghét còn hơn cả cái chết, cho nên gặp hoạn
nạn ta không hề trốn tránh”.
+ Về bản tính con người
Khổng (551 - 479 tr.CN)- Mạnh (317 - 298 tr.CN) cho rằng, bản tính của con người
do trời sinh ra, nó vốn là thiện. Cái thiện được biểu hiện ở nhân - nghĩa - lễ - trí.
Còn Tuân Tử (298 – 238 tr.CN) cho rằng, bản tính con người là ác. Ông đã luận
giải ác là vì con người ta ai cũng có lòng ham lợi, ai cũng có dụng vọng. Đó là nguồn
gốc của mọi tội ác. Bản tính của con người cũng có thể thay đổi và cải tạo được. Đó là
nhờ vào sự giáo hóa.
+ Về bản tính con người

Quân tử là mẫu người lý tưởng về phẩm chất đạo đức xã hội và tư cách của người
cầm quyền, ở họ hội tụ đủ nhân - nghĩa - lễ - trí - tín; Là người nắm được thời mệnh,
sống theo mệnh trời, nỗ lực chăm lo tu dưỡng đạo đức, khiêm tốn, cẩn trọng. Họ có
trách nhiệm kính trên nhường dưới, sống thân ái, hòa đồng với mọi người.
+ Về sự tự học và trau dồi kiến thức cho bản thân
Nho giáo đề cao việc học tập, trau dồi kiến thức đối với bản thân. Theo Khổng Tử,
con người sinh ra vốn giống nhau, nhưng do việc học tập và tự rèn luyện khác nhau
mà dẫn đến sự phân biệt người này với người kia. Tuy nhiên, việc học ở đây là cải tạo
“cái đạo” của con người cho hòa thuận với tự nhiên.
Học để làm quan, tham gia gánh vác công việc đại sự của quốc gia, để được thực
hành những cái mà mình đã được học. Đặc biệt đối với người quân tử trước tiên là
phải biết tu trí, tu thân. Không tự tu được thân, không thể giúp được đời, không thể
làm tròn bổn phận của mình với thiên hạ.
Nguyễn Văn Dũng 24
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Như vậy, theo nghĩa nào đó học ở đây là đến gần với trí, nếu không học và tự học
thì dù có thiện tâm đến đâu cũng bị cái ngu muội, phóng đãng, lầm lạc, cuồng bạo làm
biến bản chất của con người, con người sẽ tự đánh mất mình và trở thành nô lệ của
chính mình
+ Về giáo dục và phương pháp giáo dục
Giáo dục ở đây theo Nho giáo là giáo dục tâm tính, giáo dục thực hành và giáo
dục nhân cách. Trong đó, giáo dục tâm tính và giáo dục nhân cách có quan hệ gần gũi
nhau, chúng đều thuộc về lĩnh vực giáo dục đạo đức phẩm cách cho dân chúng. Giáo
dục điều thiện cho dân để dân không làm điều ác, không phạm tội. Giáo dục theo
phương pháp:
Người học phải ham hiểu biết, phải độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình
nhận thức. Người dạy phải dạy phương pháp để người học tự mình tìm đến tri thức,
học phải đi đôi với hành.
Học trong sách vở, học thầy, học trong cuộc sống.
Học theo phương pháp tiên vương.

Nguyễn Văn Dũng 25

×