Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.13 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA SAU ĐẠI HỌC
  
BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Giảng viên hướng dẫn: Học viên thực hiện:
TS. BÙI VĂN MƯA TRẦN HOÀI CƯỜNG
LỚP: CHKT K20 ĐÊM 1
STT: 10- NHÓM 1
1
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
  
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
2
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại

MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài:
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên
tắc chung của tồn tại và nhận thức, là thái độ con người đối với thế giới, là
khoa học về những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Lịch
sử Triết học đã trãi qua biết bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, có lúc phát
triển đến đỉnh cao như giai đoạn triết học của Arixtốt, Đêmôcrít và Platôn
nhưng cũng có lúc biến thành một môn của thần học theo chủ nghĩa kinh
viện trong một xã hội tôn giáo bao trùm mọi lĩnh vực vào thế kỷ thứ X –
XV. Sự phát triển của Triết học là sự phát triển song song giữa hai nền Triết
học phương Tây và phương Đông. Do điều kiện địa lý tự nhiên, kinh tế - xã
hội, văn hoá mà sự phát triển của hai nền Triết học có sự khác nhau. Nói đến
triết học phương Đông phải kể đến Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học
Trung Quốc cổ đại. Đây là hai trong số những chiếc nôi Triết học sớm nhất,
lâu đời, phong phú và đã tạo nhiều dấu ấn đặc biệt cho nền lịch sử Triết học.
Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại đều có chung đặc
điểm là phân tích các vấn đề xuất phát từ nhân sinh quan, tuy nhiên do đặc
điểm kinh tế - chính trị, xã hội khác nhau nên mỗi nền triết học này cũng có

những đặc trưng khác nhau. Do đó nhóm 1 chọn đề tài: “Sự tương đồng và
khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại” để
phân tích sâu hơn về các vấn đề như sự hình thành, phát triển và nét đặc thù
cũng như những điểm tương đồng và khác biệt của hai nền Triết học này.
2 Mục tiêu nghiên cứu:
Để tài này đặt ra các mục tiêu cần nghiên cứu sau:
• Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ
đại
• Sự khác nhau giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ
đại
3
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
3 Phương pháp nghiên cứu:
Đối với đề tài này, tôi đã lựa chọn các phương pháp nghiên cứu sau.
a) Phương pháp luận theo chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận sự việc theo sự vân động và
phát triển của nó.
b) Thu thập số liệu:
Thu thập thông tin từ sách vở, bài giảng, giáo trình, báo, đài, internet.
4 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Đề tài này giúp cho học viên cao học hiểu rõ hơn về nền Triết học Phương
Đông, chủ yếu là Triết học Ấn Độ cổ đại và Triết học Trung Quốc cổ đại. Chủ
yếu là học viên đi sâu vào sự tương đồng và khác biệt giữa hai nền Triết học
này để có sự hiểu biết đúng đắn và sâu sắc.
5 Cấu trúc nghiên cứu:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nghiên cứu gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 2: Sự tương đồng giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ
đại

Chương 3: Sự khác biệt giữa triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
4
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 1
Cơ sở lí luận về triết học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
1. Khái quát triết học Phương Đông cổ đại
Lịch sử triết học Phương Đông nỗi bật với hai hệ thống triết học lớn là triết
học Ấn Độ và triết học Trung Quốc
Quá trình hình thành và phát triển của triết học Ấn Độ cổ đại trải qua hai
thời kỳ chính: Thời kỳ Vêđa (khoảng thế kỷ XV đến thể kỷ VIII TCN) và thời
kỳ cổ điển (còn gọi là thời kỳ Bàlamôn – phật giáo, khoảng thế kỷ VI TCN đến
thế kỷ VI).
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ đại là quan tâm giải
quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng "hướng
nội", đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói:
sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết
học ấn Độ cổ, trung đại (trừ trường phái Lokàyata), và hầu hết các học thuyết
triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều
duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên.
Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời Tam đại (Hạ,
Thương, Chu). Sự phát triển của triết học Trung Quốc cổ - trung đại là một quá
trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa các trường phái (Âm dương gia, Nho
gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia). Mối quan tâm hàng đầu của các nhà tư
tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính trị -
đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích và
đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng
của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình
chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn
mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.

Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung
Hoa thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc
về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành tuy còn
có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất
5
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
duy vật và biện chứng của người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng to lớn tới
thế giới quan triết học sau này không những của người Trung Hoa mà cả những
nước chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung Hoa.
2. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết
học Ấn Độ Cổ
a) Điều kiện ra đời
• Điều kiện tự nhiên: Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn thuộc bán
đảo Nam Á có những yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao (bao
gồm cả nước Pakixtan, Bănglađét và Nêpan ngày nay), lại vừa có biển rộng;
vừa có sông ấn chảy về phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông; vừa
có đồng bằng phì nhiêu, lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có
nắng cháy, nóng bức.
• Điều kiện kinh tế - xã hội: Xã hội ấn Độ cổ đại ra đời sớm, có điều kiện
và dân cư rất đa dạng. Ấn Độ cổ - Trung đại được chia thành 4 thời kỳ: Thời kỳ
văn minh sông Ấn, thời kỳ văn minh Vêđa, thời kỳ các vương triều độc lập và
thời kỳ các vương triều lệ thuộc. Từ trong nền văn minh sông Ấn của người
bản địa Đraviđa xa xưa, nhà nước Ấn Độ cổ đã xuất hiện, đến thế kỷ XVII
trước công nguyên, thiên tai (lũ lụt trên sông Ấn…) đã làm cho nền văn minh
này sụp đổ. Vào khoảng thế kỷ XV trước Công nguyên,các bộ lạc du mục
Arya ở Trung Á xâm nhập vào Ấn Độ. Họ định canh, định cư và tiến hành quá
trình nô dịch, đồng hóa, hỗn chủng với các bộ lạc bản địa Đraviđa. Kinh tế tiêu
biểu nông nghiệp kết hợp với thủ công nghiệp mang tính tự cung, tự cấp, lấy
gia đình, gia tộc của người Arya làm cơ sở, đã tạo nền tảng vững chắc cho các

công xã nông thôn ra đời. Trong mô hình của công xã nông thôn đã hình thành
bốn đẳng cấp với sự phân biệt hết sức khắc nghiệt và dai dẳng; ruộng đất thuộc
quyền sở hữu của nhà nước của các đế vương; nhà nước kết hợp với Tôn giáo
thống trị nhân dân và bóc lột nông nô công xã; tôn giáo bao trùm mọi mặt của
đời sống xã hội; con người sống nặng về tâm linh tinh thần và khao khát được
giải thoát. Sư phân biệt về đẳng cấp, chủng tộc, dòng dõi, tôn giáo, nghề
nghiệp,v.v… đã tạo ra những xung đột ngấm ngầm trong xã hội nhưng bị kìm
6
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
giữ bởi sức mạnh tinh thần của nhà nước –tôn giáo. Xã hội phát triển một cách
chậm chạp và nặng nề.
• Điều kiện về văn hóa: Văn hóa ấn Độ được hình thành và phát triển trên
cơ sở điều kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người Ấn Độ cổ đại đã tích lũy
được nhiều kiến thức về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện
tượng nhật thực, nguyệt thực ở đây, toán học xuất hiện sớm: phát minh ra số
thập phân, tính được trị số π, biết về đại số, lượng giác, phép khai căn, giải
phương trình bậc 2, 3. Về y học đã xuất hiện những danh y nổi tiếng, chữa
bệnh bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo mộc. Chữ viết đã xuất hiện từ thời
văn hóa Harappa; các bộ kinh Vêđa và sử thi sớm xuất hiện; Nghệ thuật tạo
hình như Kiến trúc, điêu khắc được thể hiện trong các cung điện, đền chùa,
tháp, lăng tẩm, trụ đá…; sản sinh ra nhiều tôn giáo lớn như đạo Bàlamôn –
Hinđu, đạo Phật, đạo jaina, đạo Xích,…
b) Các đặc điểm Triết học Ấn Độ cổ đại
Triết học Ấn Độ cổ đại là loại hình Triết học tôn giáo. Tôn giáo và Triết học
xen kẽ vào nhau. Trong Tôn giáo có màu sắc Triết học, trong Triết học có màu
sắc Tôn giáo. Tuy nhiên Tôn giáo của Ấn Độ có xu hướng “hướng nội” đi sâu
tìm hiểu sức mạnh của đời sống tâm linh, tinh thần, không phải “hướng ngoại”
như các tôn giáo phương Tây tìm kiếm sức mạnh nơi thượng đế.
Hầu hết các hệ thống Triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn đề nhân

bản, đó là vấn đề nhân sinh quan và con đường giải thoát.
Cuộc đấu tranh giữa Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm xung quanh
các vấn đề: Bản nguyên vũ trụ + Con người, linh hồn, đạo đức.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học
Ấn Độ cổ đại
Người ta phân chia quá trình thành 2 thời kỳ chính
• Thời kỳ thứ nhất: Thời kỳ Vêđa khoảng thế kỷ 15 TCN đến thế kỷ 8
TCN
Trong thời kỳ này con người quan niệm về thế giới, về đời sống bằng các
biểu tượng huyền thoại, đa thần. Những quan niệm đó được thể hiện trong các
tác phẩm chủ yếu là kinh Veđa và Upanisal
7
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ cổ điển (hay Bà la môn và Phật giáo): Thế kỷ thứ
7 TCN đến thế kỷ 6 SCN. Đây là thời kỳ nền kinh tế, xã hội nô lệ ấn Độ đã
phát triển cao, nhưng vẫn bị bóp nghẹt bởi tính chất kiên cố của tổ chức công
xã nông thôn, cùng sự thống trị của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương
tập quyền và sự khắc nghiệt của chế độ đẳng cấp. Trong lĩnh vực tinh thần, thế
giới quan duy tâm, tôn giáo được coi là hệ tư tưởng chính thống, thống trị trong
đời sống tinh thần xã hội. Các trào lưu triết học thời kỳ này với khuynh hướng
đa dạng, đại diện cho các tầng lớp xã hội khác nhau, vừa mang tính chất triết
học, vừa mang đậm màu sắc tôn giáo.
Trong thời kỳ này, cuộc đấu tranh giữa các trường phái triết học, nhất là
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật, vô thần chống chủ nghĩa duy tâm, tôn
giáo lên đến đỉnh cao, đặc biệt là việc phủ nhận uy thế của kinh Véđa. Từ đó đã
hình thành cách phân chia có tính chất truyền thống tất cả các trường phái triết
học thành hai phái.
Nội dung cơ bản TH Ấn Độ cổ đại
Tư tưởng Triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu bàn về Thế

giới quan và Nhân sinh quan.
1. Thế giới quan: (Quan niệm
của con người về thế giới: Tự nhiên, xã hội)
Phật giáo đưa ra các luận điểm: Vô tạo giả, vô ngã, vô thường, nhân duyên.
Vô tạo giả:
- Nghĩa là không có ai sáng tạo ra thế giới, bởi vì mọi vật đều có nhân, có
quả, không có nguyên nhân đầu tiên (Phật giáo không thừa nhận đấng sáng
tạo).
- Mọi vật trong vũ trụ, kể cả con người là tự có theo luật nhân quả. Chúng
biến đổi vô cùng vô tận.
Vô ngã: Phật giáo cho rằng thế giới (vạn vật và con người) được cấu tạo từ
các yếu tố vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Sắc và danh chỉ hội tụ nhau trong
một thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác, sinh sinh, hóa hóa, tan
hợp, hợp tan. Do đó vạn vật chỉ là dòng biến hóa hư ảo vô cùng, không có gì là
thường định. Phật giáo quan niệm: sự tồn tại của một con người ở trên đời chỉ
là ngắn ngủi bởi vì các yếu tố tạo nên con người chỉ nhóm lại trong chốc lát rồi
lại chuyển hóa thành cái khác.
8
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Vô thường: Phật giáo quan niệm: Thế giới này không có cái gì là thường
định (ổn định), vĩnh hằng, đứng im một chỗ mà mọi vật đều thường xuyên biến
đổi theo một chu trình: Sinh, Trụ, Dị, Diệt. Sinh là sinh ra, Trụ là tồn tại, phát
triển trong một thời gian, Dị là biến đổi, Diệt là tiêu vong, là mất.
Nhân duyên: Nhân là nguyên nhân, duyên là điều kiện. Tất cả các sự vật,
hiện tượng trong thế giới này xuất hiện đều có nguyên nhân và điều kiện.
Duyên là điều kiện giúp cho nhân trở thành quả, quả lại do duyên mà thành
nhân khác, nhân khác lại do duyên mà thành quả mới. Cứ như thế không có
nguyên nhân đầu tiên và không có kết quả cuối cùng.
2. Nhân sinh quan:

a) Thuyết luân hồi, nghiệp báo
 Luân hồi: Bánh xe quay tròn: Khi người ta chết thì chết về thể xác, còn
linh hồn bất tử, còn sống đầu thai sang kiếp khác.
 Nghiệp báo: là cái do hành động của ta gây ra, trong cuộc đời hiện hữu
của mỗi người đều phải gánh chịu hậu quả của những hành vi do kiếp trước
gây ra. Đạo Phật cho rằng một người tu nhân, tích đức ở kiếp này, đời này thì
đời sau thiện báo, còn đời này ác thì đời sau ác báo: Thiện giả  Thiện báo;
Ác giả  Ác báo. Cuộc đời con người trong vòng số kiếp kiếp này là quả của
kiếp trước và lại là nhân của kiếp sau.
Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý.
Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần
giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an
lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo,
độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội
của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
b) Thuyết tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế là đạo lý căn bản của
Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý
Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
• Khổ đế: Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta
thấy vì sao mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Theo
cách phân tích khác, Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
+ Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô
thường chi phối nên khổ.
9
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
+ Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da,

xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy
yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
+ Bệnh khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu,
thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
+ Tử khổ: Là cái khổ khi người ta chết.
+ Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
+ Sở cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu
được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
+ Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
+ Ngũ uẩn khổ: sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn – sắc, thụ, tưởng, hành,
thức.
• Tập đế: Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự
khổ, gồm ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) còn gọi là tam độc, là nguồn
gốc của mọi sự khổ. Nhân đế được diễn giải trong thuyết thập nhị nhân duyên
để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian gồm: 1. Vô minh 2. Hành 3.
Thức 4. Danh - sắc. 5. Lục nhập 6. Xúc 7. Thụ 8. Ái 9. Thủ 10. Hữu 11. Sinh
12. Lão - tử
• Diệt đế: Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc
sống thế gian để đạt tới cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu
hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an
lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
• Đạo đế: Đạo đế là con đường hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến
quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Nội dung cơ bản thể hiện trong thuyết
Bát chính đạo. Để đi qua tám con đường thì không ngoài ba nguyên tắc: giới,
định, tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ
sung cho nhau.
10

Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
3. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của Triết
học Trung Quốc Cổ
a) Điều kiện ra đời:
1. Nước có nhiều dân tộc: Có hơn 60 dân tộc với 5 dân tộc lớn, lớn nhất là
Hán. Cờ có 5 ngôi sao tượng trưng cho sự đoàn kết của các dân tộc, ngôi sao
lớn tượng trưng cho dân tộc Hán
2. Chế độ phong kiến: Ra đời sớm, kết thúc muộn so với các nước phương
Tây – Trong lòng xã hội phong kiến không có yếu tố tư bản.
Phương Tây: phong kiến: thế kỷ 4 đến 15  11 thế kỷ  yếu tố Tư bản 
cách mạng tư sản.
Trung Quốc bước vào chế độ chiếm hữu nô lệ sớm  Nhà Hạ
3. Chiến tranh diễn ra liên miên
Thời Xuân thu: 3 thế kỷ với 483 cuộc chiến tranh.
Mạnh Tử: “Đánh nhau tranh thành thì thây chất đầy thành, đánh nhau giành
đất thì thây chất đầy đồng”.
b) Các đặc điểm Triết học Trung Quốc cổ đại
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức
Thường những nhà triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham
mưu cho các vương triều đình – có đạo đức tiêu biểu cho xã hội đương thời –
như Khổng Tử.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là
“Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua
tiếng”
Vấn đề cơ bản của triết học
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nói chung, trong triết học Trung Hoa nói
riêng là mối quan hệ: Thiên – Địa – Nhân.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chủ yếu diễn ra

xung quanh các vấn đề:
+ Khởi nguyên vũ trụ: Duy tâm: Trời (Đổng Trọng Thư). Duy vật: âm dương,
ngũ hành
11
Trần Hoài Cường
5
Hán nho
3 TCN
Chiến
quốc
8 TCN
Chiếm hữu nô lệ
21 TCN
Chiếm hữu nô lệ suy tàn
Chế độ phong kiến hình thành phát triển
Khổng Tử: Mạnh Tử, Tuân Tử
Xuân
thu
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
+ Vấn đề con người: số phận, tính người. Duy tâm: Do trời – Mệnh trời: Sống
chết, giàu nghèo do thiên mệnh quy định. Duy vật: Hoàn cảnh và giáo dục
(quyết định).
+ Nhận thức: Duy tâm: 3 dạng: Thánh nhân + Thượng trí + Hạ ngu có học
cũng không biết. Duy vật: mọi tầng lớp phải học mới biết.
1. Trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc cổ đại các yếu tố: Duy
vật, duy tâm, vô thần, hữu thần đan xen vào nhau đôi khi khó thấy.
Phân biệt nhà triết học duy vật – duy tâm không như phương Tây.
c) Quá trình hình thành và phát triển của Triết học
Trung Quốc cổ đại
Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được phổ cập, nhiều học

giả đưa ra học thuyết của mình nhằm biến đổi xã hội, khắc phục tình trạng loạn
lạc bấy lâu nay. Có hàng trăm học giả với hàng trăm học thuyết được ra đời,
cho nên, thời này còn được gọi là thời Bách gia chư tử. Trong hàng trăm học
thuyết đó có sáu học phái lớn là Âm dương gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia,
Pháp gia, Danh gia. Sang thời kỳ phong kiến hưng thịnh, Nho gia đã vươn lên
vai trò thống trị. Từ thời Tần – Hán, rồi Lưỡng Hán, Ngụy - Tấn, Tùy – Đường
trở nên thiên hạ thống nhất, dựa vào năng lực chính trị, giai cấp thống trị yêu
cầu thống nhất, dựa vào quyền lực chính trị, giai cấp thống trị yêu cầu thống
nhất tư tưởng hoặc tôn Nho, hoặc sùng Đạo, hoặc sùng Phật. Năm 136 Hán Vũ
Đế chấp nhận kiến nghị của Đổng Trọng Thư nên đã ra lệnh bãi truất bách gia,
độc tôn Nho thuật. Mặc dù được đề cao, nhưng để giữ vai trò thống trị lâu dài,
Nho gia phải hấp thụ các tư tưởng của các trường phái khác. Kinh học do Nho
làm chủ đã xuất hiện. Sau giai đoạn thống trị của Nho gia đến thời kỳ hưng
thịnh của đạo giáo, với sự xuất hiện của Huyền học do Đạo làm chủ. Rồi tiếp
theo là sự vươn lên của Phật học do Phật giáo làm chủ (Đường). Sự phát triển
mạnh tư tưởng triết học thời kỳ này là cơ sở để dân tộc Trung Hoa sáng tạo nên
một nền văn hóa huy hoàng, xán lạn trong thời kỳ cực thịnh của xã hội phong
kiến Trung Quốc phải trải qua quá trình phát triển gần một vòng, đến thời
Tống. Nho học lại được đề cao và phát triển đến đỉnh cao. Hình thức biểu hiện
của nó là Lý học – dung hợp đạo Phật vào Nho. Các nhà tư tưởng đời Thanh
như Hoàng Tông Hy, Cố Viêm Võ, Vương Phu Chi đề xướng Thực học, tiến
hành tổng kết một cách duy vật các cuộc tranh cãi hơn nghìn năm về hữu và vô
12
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
(động và tỉnh), tâm và vật (tri và hành)… Như vậy, sự phát triển của triết học
Trung Hoa cổ - trung đại là một quá trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các
trường phái.
d) Nội dung cơ bản triết học Trung Quốc cổ đại
Học thuyết nho giáo:

Khổng tử là người sáng lập ra nho giáo vào cuối thời kỳ Xuân thu là thời kỳ
mà người ta rất quan tâm đến đạo đức, chính trị, xã hội. Ông coi hoạt động đạo
đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn thiện
nhân cách cá nhân cho con người. Đến thời chiến quốc, do bất đồng về bản tính
con người mà nho giáo bị chia thành 8 phái, trong đó có phái của Tôn tử và
phái của Mạnh tử là mạnh nhất. Mạnh tử có nhiều đóng góp đáng kể cho sự
phát triển của nho giáo nguyên thủy, ông đã khép lại một giai đoạn quan trọng
– giai đoạn hình thành nho giáo, nho giáo Khổng – Mạnh còn được gọi là nho
giáo nguyên thủy hay nho giáo tiên Tần.
Nội dung cơ bản của Nho giáo: Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là phải đào
tạo cho được những người cai trị kiểu mẫu – người Quân tử (Quân = cai trị;
Quân tử = người cai trị). Để trở thành người quân tử, trước hết là phải tu thân.
Có ba tiêu chuẩn chính:
1. Đạt “đạo”: Đạo là con đường, là những mối quan hệ mà con người phải
biết cách ứng xử trong cuộc sống. Có 5 đạo: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh
em, bè bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu). 5 Đạo đó gọi
là ngũ luân (luân = thứ bậc, cư xử). Trong xã hội, cách ứng xử hợp lý hơn cả
là trung dung (dung hòa ở giữa).
2. Đạt “đức”: Người quân tử, theo Khổng tử, nếu có 3 điều nhân – trí –
dũng thì gọi là đạt đức. Về sau, Mạnh tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa”
thành 4 đức “nhân, lễ, nghĩa, trí”. Đến đời Hán thêm “tín” thành 5 đức gọi là
ngũ thường.
3. Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo”, “đức”, người quân tử còn phải biết thi -
thư - lễ – nhạc. Khổng tử nói rằng con người “hưng khởi trong lòng là nhờ
học thi, lập thân được là nhờ biết lễ, thành công được là nhờ có nhạc” (Luận
13
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
ngữ). Nói cách khác, ông đòi hỏi người cai trị không thể là dân võ biền, mà
phải có một vốn văn hóa toàn diện.

Tu thân rồi, bổn phận của người quân tử là Hành Động, phải tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ.
Học thuyết đạo gia
Đạo gia được Lão tử sáng lập ra và sau đó được Trang tử phát triển thêm
vào thời Chiến quốc. Kinh điển của Đạo gia chủ yếu tập trung lại trong bộ Đạo
đức kinh do Lão Tử soạn và Nam hoa kinh do Trang tử và một số người theo
Đạo gia viết. Trong đó Đạo là phạm trù triết học vừa để chỉ bản nguyên vô
hình, phi cảm tính, phi ngôn từ, sâu kín, huyền diệu của vạn vật, vừa để chỉ con
đường, quy luật chung của mọi sự sinh thành, biến hóa xảy ra trong thế giới.
Đức là phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của đạo, là cái
hình thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với nhau đó là cái
lý sâu sắc để nhận biết vạn vật. Đạo gia xem xét đạo không chỉ là nguồn gốc,
bản chất mà còn là quy luật của mọi cái đã, đang, và sẽ tồn tại trong thế giới.
Điều này cho phép hiểu đạo như nguyên lý thống nhất – vận hành của vạn vật –
đạo lý – nguyên lý đạo pháp tự nhiên. Lão Tử cho rằng vũ trụ vận động biến
đổi theo hai quy luật: quy luật bình quân và quy luật phản phục. Luật bình quân
là luôn cho sự vật được cân bằng theo một trật tự điều hòa tự nhiên, không có
cái gì thái quá, bất cập. Luật phản phục là sự phát triển đến cực điểm thì quay
trở lại phương hướng cũ. Đây là quản điểm biện chứng mang tính máy móc
đơn giản. Vạn vật chỉ vận động tuần hoàn,lặp đi lập lại.
Trong quan niệm về nhân sinh và chính trị – xã hội, Lão Tử đã xây dựng
thuyết vô vi tức là sống và hành động theo lẽ tự nhiên, thuần phác. Xã hội lý
tưởng đối với ông là những nước nhỏ, dân ít. Dân hai nước ở cạnh nhau, dù
cách nhau bởi một bờ dậu nhỏ hay một con mương cạn,cùng nghe tiếng chó
sủa tối, tiếng gà gáy sáng… nhưng đến già đến chết họ cũng không bao giờ qua
lại thăm nhau.
Sang thời Chiến quốc, xuất phát từ quan niệm của Lão Tử coi vạn vật đều
do đạo sinh ra. Trang Tử cho rằng, trời đất và ta cùng sinh ra, vạn vật với ta
đều là một. Trang Tử đã đã biến các yếu tố biện chứng trong triết học của Lão
14

Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Tử thành chủ nghĩa tương đối và thuyết ngụy biện. Ông cho rằng đúng sai, trên
dưới, sang hèn, bần tiện đều như nhau.
Tóm lại Nho gia và Đạo gia là những trường phái những triết lý, nhân sinh
quan khác nhau; có những điểm khác nhau như đường lối trị dân (Nho gia đòi
hỏi người trị vì thiên hạ phải là bậc thánh nhân quân tử, với những phẩm chất
đạo đức sáng ngời nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… chủ trương xây dựng một xã hội
đại đồng thì Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự
nhiên của đạo vô vi, và chủ trương xóa bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức,
pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên vốn
có của nó). Cả hai học thuyết của Khổng Tử và Lão Tử đều không được xã hội
đương thời chú ý. Song cả hai đều là những trường phái có ảnh hưởng to lớn
đến đời sống xã hội sau này.
15
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 2
Sự Tương Đồng giữa Triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
1. Triết học gắng liền với tôn giáo:
Triết học Ấn Độ và Trung Quốc giống nhau ở chỗ cả hai đều là triết học
phương Đông và các tư tưởng triết học gắn liền với tôn giáo, dường như giữa
triết học và tôn giáo không có ranh giới rõ ràng.Vd như triết học Hindu của Ấn
Độ gắn liền với đạo Hindu.
2. Nội dung triết học chủ yếu hướng về các vấn đề
đạo đức, con người:
Triết học Ấn Độ:
Hầu hết các hệ thống Triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn đề nhân
bản, đó là vấn đề nhân sinh quan và con đường giải thoát.
Tư tưởng Triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy chủ yếu bàn về Thế

giới quan và Nhân sinh quan.
1/- Thế giới quan: (Thế giới quan: Quan niệm của con người về thế
giới: tự nhiên và xã hội).Phật giáo đưa ra các luận điểm: Vô tạo giả, vô ngã, vô
thường, nhân duyên.
Vô tạo giả:
- Nghĩa là không có ai sáng tạo ra thế giới, bởi vì mọi vật đều có nhân,
có quả, không có nguyên nhân đầu tiên (Phật giáo không thừa nhận đấng sáng
tạo)
- Mọi vật trong vũ trụ, kể cả con người là tự có theo luật nhân quả.
Chúng biến đổi vô cùng vô tận.
Vô ngã: Phật giáo cho rằng thế giới (vạn vật và con người) được cấu tạo
từ các yếu tố vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Sắc và danh chỉ hội tụ nhau
trong một thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác, sinh sinh, hóa hóa,
tan hợp, hợp tan. Do đó vạn vật chỉ là dòng biến hóa hư ảo vô cùng, không có
gì là thường định. Phật giáo quan niệm: sự tồn tại của một con người ở trên đời
chỉ là ngắn ngủi bởi vì các yếu tố tạo nên con người chỉ nhóm lại trong chốc lát
rồi lại chuyển hóa thành cái khác.
16
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Vô thường: Phật giáo quan niệm: Thế giới này không có cái gì là thường
định (ổn định), vĩnh hằng, đứng im một chỗ mà mọi vật đều thường xuyên biến
đổi theo một chu trình: Sinh, Trụ, Dị, Diệt. Sinh là sinh ra, Trụ là tồn tại, phát
triển trong một thời gian, Dị là biến đổi, Diệt là tiêu vong, là mất.
Nhân duyên: Nhân là nguyên nhân, duyên là điều kiện. Tất cả các sự
vật, hiện tượng trong thế giới này xuất hiện đều có nguyên nhân và điều kiện.
Duyên là điều kiện giúp cho nhân trở thành quả, quả lại do duyên mà thành
nhân khác, nhân khác lại do duyên mà thành quả mới. Cứ như thế không có
nguyên nhân đầu tiên và không có kết quả cuối cùng.
2/- Nhân sinh quan (quan điểm của con người về cuộc sống)

1. Thuyết luân hồi, nghiệp báo
 Luân hồi: Bánh xe quay tròn
Lý giải: Khi người ta chết thì chết về thể xác, còn linh hồn bất tử, còn sống
đầu thai sang kiếp khác.
• Nghiệp báo: là cái do hành động của ta gây ra, trong cuộc đời hiện hữu
của mỗi người đều phải gánh chịu hậu quả của những hành vi do kiếp trước
gây ra. Đạo Phật cho rằng một người tu nhân, tích đức ở kiếp này, đời này thì
đời sau thiện báo, còn đời này ác thì đời sau ác báo: Thiện giả  Thiện báo;
Ác giả  Ác báo. Cuộc đời con người trong vòng số kiếp kiếp này là quả của
kiếp trước và lại là nhân của kiếp sau.
Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao quý.
Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm nhuần
giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình, an
lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo,
độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội
của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
2. Thuyết tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế là đạo lý căn bản của
Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các thuyết khác trong giáo lý
Phật. Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế: Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta
thấy vì sao mà khổ, phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Theo cách phân tích khác, Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
17
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
1. Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô
thường chi phối nên khổ.
2. Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ

đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào
da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì
suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
3. Bệnh khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu,
thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4. Tử khổ: Là cái khổ khi người ta chết.
5. Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
6. Sở cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu
được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
7. Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8. Ngũ uẩn khổ: sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn – sắc, thụ, tưởng, hành,
thức.
b. Tập đế: Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự
khổ, gồm ba nguyên nhân chính (tham, sân, si) còn gọi là tam độc, là nguồn
gốc của mọi sự khổ. Nhân đế được diễn giải trong thuyết thập nhị nhân
duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian gồm: 1. Vô minh 2.
Hành 3. Thức 4. Danh - sắc. 5. Lục nhập 6. Xúc 7. Thụ 8. Ái 9. Thủ 10. Hữu
11. Sinh 12. Lão - tử
c. Diệt đế: Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc
sống thế gian để đạt tới cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự
tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng
thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
d. Đạo đế: Đạo đế là con đường hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả
giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử. Nội dung cơ bản thể hiện trong thuyết
Bát chính đạo
18

Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ
hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ sung
cho nhau.
Triết học Trung Quốc:
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức nói chung, trong triết học Trung Hoa nói
riêng là mối quan hệ: Thiên – Địa – Nhân.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chủ yếu diễn ra
xung quanh các vấn đề:
+ Khởi nguyên vũ trụ: Duy tâm: Trời (Đổng Trọng Thư). Duy vật: âm dương,
ngũ hành
+ Vấn đề con người: số phận, tính người. Duy tâm: Do trời – Mệnh trời: Sống
chết, giàu nghèo do thiên mệnh quy định. Duy vật: Hoàn cảnh và giáo dục
(quyết định).
+ Nhận thức: Duy tâm: 3 dạng: Thánh nhân + Thượng trí + Hạ ngu có học
cũng không biết. Duy vật: mọi tầng lớp phải học mới biết.
Học thuyết nho giáo
Khổng tử là người sáng lập ra nho giáo vào cuối thời kỳ Xuân thu là thời kỳ
mà người ta rất quan tâm đến đạo đức, chính trị, xã hội. Ông coi hoạt động
đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự xã hội và hoàn
thiện nhân cách cá nhân cho con người. Đến thời chiến quốc, do bất đồng
về bản tính con người mà nho giáo bị chia thành 8 phái, trong đó có phái
của Tôn tử và phái của Mạnh tử là mạnh nhất. Mạnh tử có nhiều đóng góp
đáng kể cho sự phát triển của nho giáo nguyên thủy, ông đã khép lại một
giai đoạn quan trọng – giai đoạn hình thành nho giáo, nho giáo Khổng –
Mạnh còn được gọi là nho giáo nguyên thủy hay nho giáo tiên Tần.
Nội dung cơ bản của Nho giáo: Để tổ chức xã hội, điều cốt lõi là phải đào
tạo cho được những người cai trị kiểu mẫu – người Quân tử (Quân = cai trị;
Quân tử = người cai trị). Để trở thành người quân tử, trước hết là phải tu

thân. Có ba tiêu chuẩn chính:
4. Đạt “đạo”: Đạo là con đường, là những mối quan hệ mà con người phải
biết cách ứng xử trong cuộc sống. Có 5 đạo: Vua tôi, cha con, vợ chồng, anh
em, bè bạn (quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu). 5 Đạo đó gọi
19
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
là ngũ luân (luân = thứ bậc, cư xử). Trong xã hội, cách ứng xử hợp lý hơn cả
là trung dung (dung hòa ở giữa).
5. Đạt “đức”: Người quân tử, theo Khổng tử, nếu có 3 điều nhân – trí –
dũng thì gọi là đạt đức. Về sau, Mạnh tử bỏ “dũng” mà thay bằng “lễ, nghĩa”
thành 4 đức “nhân, lễ, nghĩa, trí”. Đến đời Hán thêm “tín” thành 5 đức gọi là
ngũ thường.
6. Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo”, “đức”, người quân tử còn phải biết thi -
thư - lễ – nhạc. Khổng tử nói rằng con người “hưng khởi trong lòng là nhờ
học thi, lập thân được là nhờ biết lễ, thành công được là nhờ có nhạc” (Luận
ngữ). Nói cách khác, ông đòi hỏi người cai trị không thể là dân võ biền, mà
phải có một vốn văn hóa toàn diện.
Tu thân rồi, bổn phận của người quân tử là Hành Động, phải tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Kim chỉ nan cho mọi
3. Trong triết học có sự đan xen yếu tố Duy vật và
duy tâm không rõ ràng:
a. Một xu hướng
khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ đại là quan tâm giải quyết những vấn đề
nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng "hướng nội", đi tìm cái Đại ngã
trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói: sự phản tỉnh nhân sinh
là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn Độ cổ, trung đại
(trừ trường phái Lokàyata), và hầu hết các học thuyết triết học này đều biến đổi
theo xu hướng từ vô thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị
nguyên.

II. Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời Tam đại
(Hạ, Thương, Chu). Sự phát triển của triết học Trung Quốc cổ - trung đại là
một quá trình đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa các trường phái (Âm dương
gia, Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia). Mối quan tâm hàng đầu của các
nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn chính
trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải thích
và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư tưởng
của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô hình
20
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn
mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.
III. Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học
Trung Hoa thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng
sâu sắc về sự biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng về Âm Dương, Ngũ hành
tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng đó là những triết lý đặc sắc mang
tính chất duy vật và biện chứng của người Trung Hoa thời cổ, đã có ảnh hưởng
to lớn tới thế giới quan triết học sau này không những của người Trung Hoa mà
cả những nước chịu ảnh hưởng của nền triết học Trung Hoa.
21
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Chương 3
Sự khác biệt giữa Triết Học Ấn độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
1. Bản thể luận
Triết học Ấn Độ:
Bản thể luận: thể hiện trong 4 nguyên lý:
• Vô tạo giả: đạo Phật cho rằng vũ trụ là vô thủy, vô chung, vạn vật trong
thế giới chỉ là dòng biến hoá vô thường, vô định, không do một vị thần nào

sáng tạo nên cả. Phật giáo cho rằng thế giới tồn tại khách quan, không do thần
thánh sáng tạo ra.
• Vô ngã: có nghĩa là không có linh hồn bất tử, sự vật hiện tượng xung
• quanh ta và chính bản thân ta là không có thật mà nó được tạo thành từ
các yếu tố mà Phật gọi là Danh và Sắc. Danh là tinh thần, Sắc là vật chất. Thế
giới do các yếu tố vật chất và tinh thần kết hợp lại với nhau tạo nên.
• Vô thường: có nghĩa là không có gì ổn định, bất biến. Phật khẳng định
rằng thế giới khách quan không có gì là vĩnh hằng, bất biến mà cái gì cũng có
quá trình sinh thành, biến đổi và tiêu vong theo luật Nhân - quả mà Phật gọi là
Sinh, Trụ, Dị, Diệt, từ sự vật nhỏ nhất cho đến vũ trụ đều tuân thủ luật trên.
• Nhân quả tương tục: Phật khẳng định rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng
trên đời đều có nguyên nhân của nó. Nhân kết hợp với duyên thì sinh ra quả,
quả lại kết hợp với duyên lại biến thành nhân và sinh ra quả khác. Nhân và quả
tạo thành một chuỗi không ngừng nghỉ, Phật gọi là “Nhân quả tương tục vô
gián đoạn"
Triết học Trung Quốc:
Phật giáo, đặc biệt là đường lối tư duy của Đại thừa Phật giáo, là bản thể
luận, là bản thể luận lấy chân như thực tướng làm bản thể. Điểm này các nhà
học thuật không có ý khác. Trong thời kì mới bắt đầu, Phật Thích Ca từng đối
với các vấn đề hư huyền, trừu tượng, có thủy có chung, giới hạn không giới hạn
cho đến bản thể đều không hứng thú, luôn chọn thái độ tránh mà không trả lời.
Nhưng trong quá trình phát triển của Phật giáo trước đây, do chịu ảnh hưởng
của truyền thống văn hóa, truyền thống tư duy của Ấn Độ, thuyết "Đại Phạm
22
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Bản Thể" từng bị Phật giáo nguyên thủy đẫy ra khỏi cửa trước thì sau đó lại
lẳng lặng đi vào từ cửa sau. Chẳng hạn như, đến hậu kì Phật giáo Tiểu thừa, vì
để khắc phục sự mâu thuẩn giữa nghiệp báo luân hồi và không có nghiệp báo
luân hồi, liền xuất hiện thuyết "Bổ-đặc-già-la".

Nếu như nói, bản thể luận cổ đại của Trung Quốc thể hiện rõ ràng, tư tưởng
nhất quán, lý luận hệ thống thì đầu tiên phải nói đến Trương Tải. Bản thể luận
của Trương Tải tuyệt không hề giống như kiểu Vương Bật, chỉ dừng lại nơi
một câu "Dĩ vô vi bổn", tư tưởng "Thái hư vô hình, khí chi bản thể" (Không
gian vô hình, không khí là bản thể của nó) ("Chánh mộng - Thái Hòa") của ông
đã quán triệt hết các học thuyết của ông, đặc biệt là lý luận "Thiên địa chi
tánh", "Khí chất chi tánh" của ông, thuyết "Càn khôn phụ mẫu", "Dân bào vật
dữ" càng thể hiện Bản thể luận của ông cụ thể mà có hệ thống hơn.
Ngoài Trương Tải ra, trong Tống Nho còn có các đại Nho gia như Nhị
Trình, Châu Tử, Lục Cửu Uyên, phương pháp tư duy đều mang rõ đặc điểm
Bản thể luận. Chẳng hạn như, thuyết "Thể dụng nhất nguyên, hiển vi vô gián"
("Dịch Truyện Tựa") của Nhị Trình, thuyết "Thánh nhân dữ thiên địa đồng thể"
("Trung dung chương cú") của Châu Tử, thuyết "Vũ trụ tiện thị ngô tâm, ngô
tâm tiện thị vũ trụ" ("Tạp thuyết") của Lục cửu Uyên đều là một kiểu tư duy
bản thể luận hoặc là một kiểu chính trị, luận lý triết học dựa vào bản thể luận.
Cho dù các nhà lý học này trong lúc tuyên truyền chính trị, tư tưởng triết học
của mình đã vận dụng rất nhiều phạm trù, như "Thiên đạo", "Thiên lý", "Tâm
tính" v.v nhưng "Thiên đao", "Thiên lý" lúc bấy giờ không còn "Thiên" mà
truyền thống Nho gia dùng để thiết lập chính trị xã hội, đạo đức lập pháp nữa
mà là kiểu triết học, phạm trù luân lý mang đậm màu sắc bản thể luận.
Nếu từ góc độ phát triển của lý luận tư duy nhân loại mà nói thì cái trước
gần với "Bản nguyên luận" hoặc "Vũ trụ sanh thành luận", cái sau thì thuộc vào
phạm trù "Bản thể luận" mà triết học hiện đại đề cập
Nho gia phát triển đến thời Vương Dương Minh đời nhà Minh, lại bước
thêm một giai đoạn mới, hoặc nói bước vào một kiểu cảnh giới mới. Đặc điểm
nổi bật của học thuyết họ Vương chính là đem "tâm", "tánh", "lý" và ngay cả
thiên địa vạn vật dung hợp làm nhất thể, mà chữ "thể" này, lấy cách nói của
Vương Dương Minh tức là "lương tri". "Lương tri" là tên khác của bản thể.
23
Trần Hoài Cường

Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Đây là điều mà Vương Dương Minh trong tác phẩm của ông nhiều lần nhắc
đến, như "Lương tri giả, tâm chi bản thể" (Lương tri là bản thể của tâm)("Đáp
lục tỉnh nguyên thư"), "Giá tâm chi bản thể, nguyên chỉ thị cá lý"(Bản thể của
tâm ấy vốn là chỉ cho cái thiên lý này) ("Truyền tập luc" quyển thượng),
"Lương tri tức vị phát chi trung, tức thị khoách nhiên đại công, tịch nhiên bất
động chi bản thể" (Lương tri tức là bản thể khi chưa thể hiện ra ngoài, rộng lớn
bao trùm, vắng lặng bất động) ("Truyền tập lục") . Bản thể mà Vương Dương
Minh nói ở đây rất gần với hàm ý "bản thể" của triết học hiện đại đề cập, chỉ
khác ở chỗ, bản thể trong học thuyết của họ Vương không chỉ là bổn nguyên
của vũ trụ vạn vật mà còn là căn bản luân lý đạo đức của con người. Sự sâu sắc
tỉ mỉ của học thuyết họ Vương trong một mức độ nào đó đã bám rễ vào lý luận
bản thể của ông ta
Phật giáo chú trọng bản thể trừu tượng, kiểu bản thể lý luận trừu tượng này
vào thời kì sơ khai của Phật giáo, do có sự sai khác với cách dùng thuật ngữ và
phương pháp tư duy truyền thống của Trung Quốc, rất khó được văn nhân học
giảTrung Quốc thời xưa trực tiếp tiếp nhận. Đến đời Tùy Đường, chịu sự ảnh
hưởng của văn hóa tư duy truyền thống của Trung Quốc, Phật giáo Đông
truyền trên nội dung tư duy và cách dùng thuật ngữ đã có sự biến hóa rất lớn,
trong đó nỗi bật nhất là dùng "nhân tánh", "tâm tánh" truyền thống Trung Quốc
để nói Phật tánh. Nhưng Phật giáo khi nói "nhân tánh", "tâm tánh" không hoàn
toàn bỏ đi lối tư duy vốn có của nó, tức là phương pháp bản thể luận vốn có của
Phật giáo, mà dùng phương pháp bản thể luận để nói "nhân tánh", "tâm tánh",
điều này đã xuất hiện một loại hiện tượng, tức lý luận Phật tánh thời Tùy
Đường đã biến thành một loại lý luận "nhân tánh", hay lý luận "tâm tánh",
nhưng loại "nhân tánh", "tâm tánh" này lại không giống với "nhân tánh", "tâm
tánh" của truyền thống Trung Quốc, mà chỉ là một loại "nhân tánh", "tâm tánh"
mang tính bản thể hóa; thêm vào đó, thời kì Tùy Đường đặc biệt là đời Lý
Đường Nhất trên mặt tư tưởng văn hóa đã dùng chính sách mở cửa, đối với ba
tôn giáo Nho, Thích, Đạo có thái độ dung nạp, điều này tạo điều kiện cho các

hệ tư tưởng văn hóa rất có lợi trong việc hòa nhập và cùng hấp thụ nhau để
sáng tạo. Phật giáo thời kì này không cho rằng hấp thụ tư tưởng Nho gia, Đạo
giáo là điều không hay, Nho gia lại không hoàn toàn thả lỏng việc công kích
24
Trần Hoài Cường
Sự tương đồng và khác biệt giữa Triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại
Phật giáo vào Đạo giáo, thế nhưng ngầm ngầm hay thậm chí công khai đã hấp
thụ rất nhiều tư tưởng của Phật giáo, mà điều cơ bản và chủ yếu nhất mà Nho
gia cải Phật thành Nho nhưng người thường không dễ thấy được đó là tự giác
hoặc không tự giác hấp thụ lối tư duy bản thể luận của Phật giáo. Kết quả của
sự không ngừng dung nhiếp lối tư duy bản thể Phật giáo này cuối cùng khiến
cho Nho học Tống Minh sản vật của Tam giáo hợp nhất đã đỗi lý luận "thiên
nhân hợp nhất" của Nho gia truyền thống, thay vào đó là lối tuy duy bản thể
luận.
2. Nhận thức luận:
Triết học Ấn Độ:
Trường phái Upanishad phân sự nhận thức của con người thành hai trình độ
khác nhau là hạ trí (aparâ - vidây) và thượng trí (parâ - vidây). Hạ trí là tri thức
phản ánh những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, có hình tướng, danh sắc đa dạng
của hiện thực gồm các tri thức khoa học thực nghiệm, các ngành nghệ thuật.
Thượng trí là trình độ vượt qua tất cả thế giới hiện tượng hữu hình, hữu hạn,
thường xuyên biến đổi để nhận thức một thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt
(aksara), thường hằng, vô hình và là bản chất của tất cả những cái đang tồn tại
(Brahman). Tuy nhiên, hạ trí cũng có vai trò và công dụng của nó đối với nhận
thức, là phương tiện cần thiết để đưa con người tới hiểu biết thượng trí.
Trường phái Nyaya – Vaisesika: Hai phái này đã có những tư tưởng duy vật
và đã có những đóng góp vào lý luận nhận thức như : thừa nhận sự tồn tại
khách quan của đối tượng nhận thức; đề cao vai trò của kinh nghiệm trong
nhận thức v.v Theo họ nhận thức có thể tin cậy, và cũng có thể không đáng tin
cậy. Nhận thức tin cậy là sự phản ánh không nghi ngờ và trung thành với hình

ảnh của đối tượng. Có bốn hình thức nhận thức không đáp ứng được yêu cầu
đó và được coi là không đáng tin cậy, là ký ức, nghi ngờ, sai lầm và mới là giả
thiết, chưa có chứng cứ chắc chắn. Vì vậy, cần phải kiểm tra tính đúng sai của
nhận thức một cách thực tế. Nhận thức là đúng đắn khi nó phù hợp với bản chất
của đối tượng và ngược lại. Họ cho rằng thực tiễn là thước đo duy nhất để kiểm
tra nhận thức. Thí dụ : Nước do ảo ảnh là giả vì không giải khát được, còn
nước trong hồ là thật vì có thể giải khát được.
25
Trần Hoài Cường

×