Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.95 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 03
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
NHO GIA VÀ PHÁP GIA

SVTH: Trịnh Thị Khánh Dư
STT: 13
Nhóm: 02
Lớp: Cao học Đêm 1 – K20
GVHD: T.S Bùi Văn Mưa


Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2011


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN




















Tp Hồ Chí Minh, ngày…….tháng……năm 2011
Giáo viên hướng dẫn
MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
PHẦN II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA2
Chương I: Khái quát Nho gia và Pháp gia 2
I. Khái quát Nho gia 2
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 2
2. Các đại diện tiêu biểu: 4
II. Khái quát Pháp gia 5
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 5
2. Các đại diện tiêu biểu 7
Chương II: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 9
I. Sự tương đồng 9
1. Lý tưởng – mục đích 9
2. Tính bảo thủ và nguyên tắc 10
II. Sự khác biệt 10
1. Chủ trương, phương pháp cai trị đất nước 10
2. Quan niệm về con người 12
3. Cách thức thực hành theo chủ trương, phương pháp cai trị 18
4. Thuyết chính danh và hình danh 23
PHẦN III: KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc là thời kỳ phân tranh ác liệt lại cũng là thời
kỳ hình thành và phát triển rực rỡ nhất của hầu hết trào lưu triết học như thuyết
Thiên, Đạo của Lão Tử, Kiêm Ái Mặc Gia, thuyết Vị Ngã của Dương Chu…mà
trong đó phải kể đến Nhân trị của Nho gia và Pháp trị của Pháp gia, hai hệ tư tưởng
có ý nghĩa cực kỳ sâu sắc, góp phần vào sự hưng thịnh của nhà cầm quyền thời đó
và có giá trị cho đến ngày nay. Nước ta với hơn một ngàn năm Bắc thuộc cũng đã
ảnh hưởng khá sâu sắc nền triết học này, theo đó, người dân ta biết thế nào là nhân
nghĩa, biết hiếu thảo với các bậc sinh thành, biết rèn luyện trí, dũng và hiểu được
tầm quan trọng của chữ tín, bên cạnh đó đất nước ta cũng xây dựng một hệ thống
luật pháp linh động phù hợp với thực tiễn và dân chủ. Nghiên cứu đề tài “Sự tương
đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia” giúp hiểu biết sâu sắc giá trị của hai
trường phái trên, cũng như những hạn chế của mỗi trường phái, từ đó vận dụng kết
hợp linh hoạt vào thực tiễn xây dựng xã hội con người trong thời đại hiện nay.
Đề tài có nhiều cách tiếp cận, trong tiều luận này, sau khi khái quát một số
nội dung cơ bản và các đại diện tiêu biểu của Nho gia và Pháp gia, học viên trình
bày theo hướng đi từ khác biệt cơ bản của hai trường phái về chủ trương trị nước, từ
đó tìm hiểu chủ trương này căn bản dựa vào quan điểm nào, theo đó đưa ra sự khác
biệt về cách thức thực hành các chủ trương đã định ra.
Cách giải quyết và phân tích đề tài trong tiểu luận có thể còn nhiều hạn chế
do giới hạn thời gian thực hiện, tài liệu thu thập và kiến thức kinh nghiệm, học viên
rất mong nhận được sự đóng góp, nhận xét để có thể hoàn thiện hơn.
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 2


PHẦN II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Chương I: Khái quát Nho gia và Pháp gia

I. Khái quát Nho gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
a. Lịch sử hình thành:
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ
thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi
ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho giáo nguyên thủy

Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận
ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào
lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp,
còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra
các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử
đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần
(trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành
hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 3
còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu

trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều
mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Hán Nho

Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán
Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của
giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Tống Nho

Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối
đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các
tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế
kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình").
Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với
Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu
tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
b. Đặc điểm của Nho gia:
Nho gia chủ trương dùng nhân trị để cai trị đất nước, người quân tử là người
cầm quyền phải biết tu thân, hành đạo.
Nho giáo nguyên thuỷ cho rằng nền tảng của gia đình – xã hội là những quan
hệ đạo đức – chính trị, đặc biệt là ba quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ.
Về nguồn gốc của vũ trụ, Nho gia xuất phát từ vũ trụ quan của Kinh Dịch,
cho rằng vạn vật không ngừng biến hoá theo một trật tự không gì cưỡng lại được,
mà nền tảng tận cùng của trật tự đó là thiên mệnh.
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia


K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 4
Quan niệm con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái tính
ấy về cơ bản là đồng đều ơ rmỗi con người. Nhưng trong cuộc sống, do điều kiện,
hoàn cảnh, môi trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không giống nhau mà
người này khác người kia: “Thiên mệnh chi vị tính, xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi
vị giáo” và “Tính tương cận, tập tương viễn”.
Coi nhân là nguyên lý đạo đức cơ bản quy định bản tính con người, chi phối
mọi quan hệ giữa người với người.
Chủ trương thực hiện đường lối nhân trị và chính danh, hướng tới xây dựng
xã hội đại đồng.
2. Các đại diện tiêu biểu:
a. Khổng Tử
Khổng Tử (27 tháng 8 âm, 551 – 479 TCN) là một nhà tư
tưởng, nhà triết học xã hội nổi tiếng, các bài giảng và triết
lý của ông có ảnh hưởng rộng lớn đối với đời sống và tư
tưởng của các nền văn hóa Đông Á.
Các tư tưởng của Khổng Tử đã được phát triển thành một
hệ thống triết học được gọi là Khổng giáo. Khổng giáo
được một người Italia là Matteo Ricci đưa vào Châu Âu,
ông cũng là người đầu tiên La tinh hoá tên Khổng Tử
thành "Confucius". Tư tưởng của ông còn được xem là
một tôn giáo lớn của loài người, nhất là dân tộc Trung
Hoa.
Trong gần 2.000 năm ông được cho là người biên soạn hoặc tác giả của Ngũ Kinh,
chẳng hạn như Kinh Lễ (soạn giả), và Biên niên sử Xuân Thu (tác giả).
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 5

b. Mạnh Tử

Mạnh Tử (372–289 trước công nguyên; có một số tài
liệu khác ghi là: 385–303/302 TCN) là nhà triết học
Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử.
Mạnh Tử, tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời
vua Liệt Vương, nhà Chu, quê gốc ở đất Trâu, thuộc
nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông,
Trung Quốc. Mạnh Tử là đại biểu xuất sắc của Nho
giáo thời chiến quốc, thời kỳ nở rộ các nhà tư tưởng
lớn với các trường phái như Pháp gia, Du thuyết, Nho
gia, Mặc gia (thời kỳ bách gia tranh minh) và cũng là
thời kỳ mà các tập đoàn phong kiến tranh giành, xâu xé lẫn nhau gây ra các cuộc
chiến tranh liên miên, dân tình vô cùng khổ sở . Ông được xem là ông tổ thứ hai của
Nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
II. Khái quát Pháp gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
a. Lịch sử hình thành
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời
kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Mở đầu với tư tưởng Quản Trọng thời Xuân thu (685 TCN) trị nước bằng
luật, lệnh, hình, chính của Quản Trọng.
Sang nữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển với
tư tưởng Thương Ưởng, chủ trương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các chính sách
khuyến khích dân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại (401-337 TCN)
chủ trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo (370-290 TCN) chủ trương dùng
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 6
thế, Ngô Khởi (440 – 381 TCN) cho rằng muốn làm cho nước mạnh phải biết đạo
nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình.

Cuối cùng là tư tưởng của Hàn Phi (#෤ - khoảng 280 - 233 TCN), cho rằng
con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không
trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của
pháp gia để trị nước. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước
không thể viện dẫn theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi
trị” của Đạo gia như trước nữa mà phải dùng Pháp trị. Từ đó, ông đã phát triển và
hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích
ứng với thời đại lúc bấy giờ.
b. Đặc điểm của Pháp gia
Chủ trương lấy pháp trị làm căn bản trong việc cai trị đất nước, nhà cẩm
quyền không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho
rõ ràng và ban bố cho mọi người cùng biết để tuân thủ nghiêm chỉnh.
Quan niệm bản tính con người là ác, chủ trương dùng pháp luật để ngăn cản
con người làm điều ác. Bốn nguyên tắc xây dựng pháp luật: nguyên tắc 1: thiên thời,
địa lợi, nhân hòa; Nguyên tắc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân nhắc kỹ
càng; Nguyên tắc 3: pháp luật phải soạn thảo sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành, phải
được áp dụng nhất loạt với mọi người; Nguyên tắc 4: pháp luật phải công bằng, phải
mang tính phổ biến
Pháp gia đặc biệt nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình
cảm đạo đức, thủ tiêu văn hoá giáo dục…
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 7

2. Các đại diện tiêu biểu
a. Quản Trọng
Quản Trọng (725 TCN - 645 TCN) là một chính trị gia,
nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu
(685 TCN). Tên ban đầu của ông là Di Ngô. Trọng là tên
hiệu. Được Bảo Thúc Nha tiến cử, Tề Hoàn Công phong

ông làm Tể tướng năm 685 TCN. Ông nổi tiếng với "chiến
lược không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là
diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng
phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.
b. Thận Đáo
Thận Đáo, sinh khoảng năm 370, thời Liệt Vương, mất khoảng năm 290, thời Noãn
Vương, đều trước công nguyên, Người Nước Triệu, viết 42 thiên sách, đại thể nói về
sự cần thiết phải đặt ra luật pháp, nhưng sự thi hành luật pháp phải cậy vào uy thế
của giới thống trị
c. Thân Bất Hại
Thân Bất Hại, sinh khoảng năm 401, thời An Vương, mất khoảng năm 337, thời
Hiển Vương, đều trước công nguyên, làm một chức lại nhỏ ở Nước Trịnh; Hàn
Chiêu Hầu thấy ông có tài nên trọng dụng cho làm tướng (chức tướng thời Xuân
Thu Chiến Quốc trông coi việc nội chính, ngoại giao gần như chức tể tướng các thời
sau, chứ không phải là tướng võ) trong 15 năm. Ông viết hai thiên sách nói về sự
dùng thuật để trị nước
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 8

d. Thương Ưởng
Thương Ưởng (khoảng 390 TCN-338 TCN), hay Thương
Quân, tên thật là Công Tôn Ưởng, sau đổi thành Vệ Ưởng là
người nước Vệ (cái tên Vệ Ưởng xuất phát từ tên nước Vệ),
làm thừa tướng nước Tần dưới thời vua Tần Hiếu Công. Ông
là một chính trị gia xuất sắc theo đường lối của Pháp gia, có
công lớn đưa nước Tần Hiếu Công làm nên nghiệp bá. Ông
được phong 15 ấp ở đất Ư, đất Thương, phong hiệu là Thương
Quân nên gọi ông là Thương Ưởng.
e. Hàn Phi

Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn
Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Ông
thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn (được gọi là "công
tử"), thích cái học "hình danh." Gốc của học thuyết này
là ở Hoàng Đế, Lão Tử. Hàn Phi có tật nói ngọng,
không biện luận khá nhưng giỏi về mặt viết sách. Hàn
Phi và Lý Tư đều học với Tuân Khanh (còn gọi là Tuân
Tử). Lý Tư tự cho mình kém Hàn Phi, nhưng Hàn Phi
và Lý Tư đều đóng vai trò trong việc giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc.
Cả hai đều theo pháp gia (hoặc pháp trị), chịu ảnh hưởng của Mặc Tử. Mặc Tử trước
kia đã chủ trương "thượng đồng", nghĩa là bắt dân phải tán đồng lẽ phải với người
trên, phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên. Không ai được có chủ trương
riêng khác với chính sách của triều đình.
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 9
Chương II: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

I. Sự tương đồng
1. Lý tưởng – mục đích
Nho gia và Pháp gia đều hướng tới việc xây dựng một xã hội thái bình thịnh
vượng, nhân dân góp sức cho sự phát triển đất nước.
Thời Xuân thu, nhà Chu suy yếu, xã hội loạn lạc, làm vua nước nhỏ bị các
chư hầu sai khiến, làm vua nước lớn thì không đủ khả năng cai trị, phải chia bớt
quyền hạn cho kẻ dưới, dẫn đến bị bề tôi lấn quyền, rồi đến lượt bọn bề tôi lấn
quyền đó bị gia thần uy hiếp. Chuyện dĩ hạ phạm thượng như vậy thời Khổng Tử
có rất nhiều.
Thời Chiến quốc, thiên hạ càng rối loạn, chiến tranh thời Chiến quốc như lời
Mạnh Tử “đánh nhau giành thành, thây chất đầy thành, đánh nhau giành đất, thây
chất đầy đất”.

Tình cảnh xã hội đổ nát, cuộc sống điêu đứng đã thôi thúc những người có
lòng yêu nước yêu dân tìm kiếm một phương pháp cứu vãn tình thế. Trào lưu tư
tưởng triết học đầu tiên xuất hiện là học thuyết của Lão Tử với chính sách chủ
trương hủy bỏ học vấn, văn minh, dứt thánh bỏ trí để dân được lợi gấp trăm; dùng
đạo không làm gì mà không gì là không làm để đổi loạn thành trị. Thuyết Nhân Trị
của Nho Gia, Kiêm Ái của Mặc Gia, thuyết vị ngã của Dương Chu Chuỗi học
thuyết đó kết thúc đột ngột cùng sự tỏa diệt giữa đường của nền triết học cổ đại
Trung Quốc, với học thuyết chính trị cuối cùng do Hàn Phi người nước Hàn đề
xướng.
Khổng Tử hướng tới việc xây dựng một “xã hội đại đồng” (đại là lớn, đồng là
cùng chung), tức một xã hội thái bình ổn định, có trật tự kỷ cương, mọi người được
chăm sóc bình đẳng và mọi cái đều là của chung; là xã hội có đời sống vật chất đầy
đủ, có quan hệ người với người tốt đẹp; là xã hội có giáo dục , mọi người trong xã
hội được giáo hóa.
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 10
Hàn Phi Tử đưa ra thuyết “pháp trị” cũng nhằm vào mục đích xây dựng một
xã hội ổn định, tạo tiền đề tiến tới xây dựng dân giàu nước mạnh, làm cho dân chúng
được yên bình, hạnh phúc.
2. Tính bảo thủ và nguyên tắc
Khổng Tử hướng đến xã hội trong quá khứ, mà nền tảng kinh tế của nó
không còn. Chế độ công hữu với phép tỉnh điền của nhà Chu không còn giá trị thực
tế, trong khi chế độ tư hữu ngày càng phát triển, quan điểm của Khổng Tử trở thành
chướng ngại cho sự phát triển. Ngoài ra, đạo “tam cương” của Khổng Tử thể hiện
lối sống gia trưởng, trọng nam khinh nữ, hạn chế sự phát triển của phụ nữ. Do đó,
học thuyết Nho gia vào thời Tần Thủy Hoàng không được trọng dụng, đến thời Hán
Vũ Đế được đưa lên thành quốc giáo nhưng đã mang một nội dung khác so với tư
tưởng Khồng Tử tạo ra.
Hàn Phi quá thiên về hình pháp hà khắc, học thuyết của Hàn Phi được Tư Mã

Thiên nhận xét “khắc bạc, ít ân đức”, hình phạt quá nặng làm dân vì tư lợi mà oán
kẻ cầm quyền, càng dùng hình phạt nặng thì kẻ dưới oán người trên càng nhiều, đến
khi hình phạt làm người ta không thể sinh tồn nổi thì dân phải vùng lên để tìm
đường sống. Về sản xuất chỉ xem trọng việc binh, nông, coi thường công thương,
dân hữu dụng của Hàn Phi chỉ có nông gia, tư tưởng thực dụng này đã kiểm hãm sự
phát triển của con người và khoa học. Do đó, thuyết Pháp trị của Hàn Phi phần nào
đã dẫn đến sự sụp đổ và bạo tàn của Tần Thủy Hoàng.
II. Sự khác biệt
1. Chủ trương, phương pháp cai trị đất nước
Điểm khác biệt cơ bản của Nho gia và Pháp gia có thể đề cập trước tiên là
chủ trương cai trị đất nước, theo đó, Nho gia chủ trương “đức trị” hay “nhân trị”,
Pháp gia chủ trưởng “pháp trị”.
Với Khổng Tử đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là
nói đến đạo đức: "Làm người có nết hiếu đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 11
thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú
vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân ".
Đức với Khổng Tử là lời nói đi đôi với việc làm trên cơ sở cái thiện: "Người xưa
thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được". Khổng Tử quan niệm:
"Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc Đẩu ở một
nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)". Trước sau Khổng Tử
vẫn tin rằng: "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn
phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân,
dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính".
Mạnh Tử cũng đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Khổng Tử về "tính tương cận,
tập tương viễn" và đi đến luận điểm nổi tiếng: "Nhân tính chi thiện giã" (cái bản tính
của người ta vốn thiện). Từ đó ông khẳng định sức mạnh vô địch của nhân nghĩa:
"Đối với người nhân dẫu kẻ địch có đông cũng chẳng làm gì được mình. Này, nếu

một vị quốc quân thích làm nhân chính, trong thiên hạ chẳng ai địch nổi". Không ai
địch nổi người nhân đức là ý niệm chính trị mà Mạnh Tử suốt đời tin tưởng theo
đuổi. Quả thật là Mạnh Tử rất nhất quán trong quan niệm lấy nhân đức làm nguyên
tắc chỉ đạo chính trị của mình. Trước sau như một ông luôn luôn chỉ nói đến nhân
nghĩa, chỉ đề cao nhân nghĩa. Quan điểm của ông thật rõ ràng: "Người ưa điều thiện
thì dư sức cai trị thiên hạ nếu nhà cầm quyền ưa điều thiện, ắt người trong bốn
biển sẽ khinh thường đường xa muôn dặm mà đến với mình, để mách bảo điều
thiện với mình". Người nhân là người vô địch trong thiên hạ, bởi vì "điều nhân
thắng điều bất nhân, cũng như nước thắng lửa".
Còn nói theo lời Hàn Phi “trọng nhân nghĩa thì nước yếu loạn, đó là ba nước
Tấn (Hàn Ngụy Triệu); không trọng nhân nghĩa mà mạnh là nước Tần”. Muốn nước
tồn tại, muốn nước mạnh lên, không thể trọng nhân nghĩa nữa, không thể dùng chính
sách nhân trị nữa. Hàn Phi cũng đã nói về chữ “pháp” trong thiên Định Pháp như
sau: “Luật pháp là những hiến lệnh soạn ra dành riêng ở quan phủ, hình phạt ắt phải
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 12
tùy lòng người: thưởng dành riêng cho ai tôn trọng luật pháp và phạt thì áp cho kẻ
trái lịnh vậy”. Hàn Phi còn nói thêm: “pháp luật được ghi chép rõ ràng trong sách
vở, bày ra nơi quan phủ và phổ biến ra trong bá tánh” (Nạn Tam). Như vậy “pháp”
của Hàn Phi là những điều luật được chép thành văn, công bố rộng rãi, áp dụng nhất
trí và dựa vào sự thưởng phạt để duy trì sự công hiệu. Theo nghĩa trên, hình pháp và
hình phạt không phải là một. Hình phạt chỉ là công cụ để bảo đảm pháp luật được
trên dưới cùng theo mà thôi.
2. Quan niệm về con người
Điểm khác biệt thứ hai phải kể đến là quan niệm về con người, Nho gia mà
tiêu biểu là Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là “thiện”, Pháp gia
cho rằng “ác”, điểm khác biệt này phần nào hình thành sự khác nhau giữa Nho gia
và Pháp gia về chủ trương trị quốc.
a. Thuyết tính thiện của Nho gia

Khổng Tử cho rằng: “Tính mỗi người đều gần nhau, do tập tành và thói quen
mới hóa ra xa nhau” (Luận ngữ, Dương Hóa, 2). Về cơ bản, tư tưởng của Khổng Tử
là bảo thủ, muốn duy trì và phát triển chế độ đẳng cấp tông pháp nhà Chu. Trung
tâm học thuyết của ông là chữ Nhân. Gốc của Nhân là “Hiếu, Đễ”. Trong quan niệm
của Khổng Tử, Nhân gắn chặt với Lễ. Có thể coi Lễ là phương thức giúp người ta đi
được tới Nhân. Và ông là nhà giáo dục lớn, ông cho rằng “tính người vốn gần nhau
nhưng việc rèn luyện thì xa nhau” (Tính tương cận, tập tương viễn). Ông nói: “Đại
học chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”. Còn Mạnh Tử quan
niệm rằng, người ta sinh ra ở đời vốn đã mang sẵn bản tính lương thiện (tính thiện)
“nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Không một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện,
theo ông bản tính của con người là thiện, nó là bản nguyên tinh thần vốn có của con
người, do con người thiên lý, trời phú cho. Theo Mạnh Tử, tính thiện tự nhiên ấy
được biểu hiện ở bốn mặt là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Sự khác nhau giữa con người với
con vật, theo Mạnh Tử là ở chỗ trong mỗi con người đều có phần quý trọng và phần
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 13
bỉ tiện, có phần cao đại và phần thấp hèn, bé nhỏ. Chính phần quý trọng cao đại mới
là tính người, mới là cái khác giữa người và cầm thú. Do đó ông khuyên mọi người
nên coi trọng việc tu dưỡng nội tâm, bảo tồn cái tính thiện để nó có thể phát triển
“lương tri lương năng”, hoàn thiện phẩm chất tốt đẹp (theo quan điểm Nho gia).
Tính thiện ấy, theo Mạnh Tử “người quân tử thì giữ được, kẻ thú dân thì bỏ mất” và
“không giữ được thì chẳng khác nào loài cầm thú”. Như vậy, quan niệm về tính
thiện của Mạnh Tử cũng mang dấu ấn giai cấp và thời đại. Mạnh Tử cũng đã giải
thích thêm chữ Nghĩa, xác định Nghĩa là thích nghi, và chủ yếu là thích nghi với
Nhân. Ông coi Nhân là tâm của con người, Nghĩa là do đường đi của người đời.
Tính thiện của con người đều bắt nguồn từ cái “tâm” của mỗi con người. Tâm là do
trời phú cho ta, nhờ có tâm mà phân biệt điều phải trái, thiện ác. Vì vậy sống phải có
tâm, đi lại phải có đường, do đó dường như Nhân, Nghĩa của Nho gia gắn bó với
con người ở mọi lúc mọi nơi như bóng với hình.

Mạnh Tử lại quan niệm rằng, nguyên lý của muôn vật đều nằm trong ý thức
của chủ quan con người “mọi vật đều có đầy đủ trong ta” (vạn vật giai bị ư ngã).
Không phải tìm kiếm ở đâu xa xôi, chỉ cần phát huy bản năng đạo đức trong nội tâm
(tận tâm) là có thể thấu hiểu được bản tính của mọi sự vật ngoài ta (tri tinh). Đồng
thời đã là người ai cũng có trong người cái mầm thiện, đó là lòng trắc ẩn (thương
xót), lòng tu ố (thẹn, ghét), lòng từ nhượng (khiêm nhường), lòng thị phi (phải trái).
Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu ố là đầu mối của nghĩa, lòng từ nhượng là
đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí. “Đầu mối” ở đây có nghĩa là “gốc”.
là “nguồn”. Vì vậy ông khẳng định tính người vốn thiện, người ta sở dĩ có những
hành vi bất thiện là do bị “vật dục” che lấp không phát huy mạnh mẽ cái tính thiện
trời cho. Nếu biết phát huy các đầu mối ấy thì con người ngày càng mạnh, có đủ sức
giữ gìn bốn biển.
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 14
Bản tính thiện của con người còn xuất phát từ cái chung của loài người,
“phàm những vật đồng loại đều mang một bản chất giống nhau. Tại sao đối với con
người ta lại nghi ngờ điều đó? Các bậc thánh nhân và chúng ta đều là đồng loại”.
Ý nghĩa tích cực “thuyết tính thiện” của Mạnh Tử là ở chỗ phát huy bốn đầu
mối, làm cho phần tốt trong con người ngày càng phát triển, còn phần xấu ngày càng
thu hẹp lại. Bên cạnh đó, tính thiện nhằm chứng minh trật tự xã hội và các giáo điều
đạo đức do giai cấp thống trị đương thời chế định ra là chân lý phổ biến, bền vững,
không thể thay đổi, bởi nó phù hợp với “đức tính bẩm sinh” của nhân loại.
b. Thuyết tính ác của Pháp gia
Hàn Phi Tử kế thừa tư tưởng của thầy mình, Tuân Tử. Theo Tuân Tử tính “là
cái trời sinh ra đã có vốn thế, không thể học cũng không thể làm ra được. Cái gì
không học, không làm mà đã có ở lòng người rồi, cái đó mới là tính.” Vậy tính của
con người gồm “mắt ưa sắc đẹp, tai ưa tiếng hát hay, miệng ưa vị ngon, tâm ưa lợi,
xương ưa da, thân thể ưa an nhàn”, những nhu cầu bẩm sinh có, tự nhiên. Tính của
con người cũng bao gồm cái thôi thúc phải đáp ứng những nhu cầu vốn có ấy và là

nguyên nhân suy ra “tính người vốn ác”. Vì “xưa nay con người gọi là thiện những
gì thuộc hợp với sự chính lý bình trị, gọi là ác những gì hợp với sự thiên hiểm bội
loạn”. Mà “con người sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó thì thành ra tranh đoạt
lẫn nhau mà sự từ nhượng không có; sinh ra là đố kỵ, thuận theo tính đó thì thành ra
tàn tặc, mà lòng trung tín không có; sinh ra là có lòng muốn của tai mắt, có lòng
thích về thanh sắc, thuận theo tính đó thì thành dâm loạn mà lễ nghĩa, văn lí không
có. Như thế thì theo cái tính của người ta, thuận cái tình của người ta, tất sinh ra
tranh đoạt, phạm vào cái phận, làm loạn cái lí mà mắc cái lỗi tàn bạo.” Tranh đoạt,
phạm phận, loạn lý, tàn bạo, cái nào cũng là bạo loạn. Từ đó mà biết, con người sinh
ra vốn ác rõ lắm. Vậy phải chăng ai cũng ác? Không, vẫn có người ác, người hiền.
Tuy ai đói cũng muốn no, lạnh muốn ấm, mệt muốn nghỉ, đó là tính tình con người
ta. Nhưng có người tuy đói, thấy bậc tôn trưởng mà không dám ăn trước , ấy là vì
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 15
muốn nhường, tuy mệt mà không dám xin nghỉ, ấy là vì muốn làm thay. Vẫn có
nhiều người sống theo lễ nghĩa con nhường cha, em nhường anh, con thay cha, em
thay anh. Hai hành vi đó đều là phản lại bản tính, trái ngược với tính người, nhưng
lại là sự hiếu thảo, nét đẹp của lễ nghĩa. Cho nên tư chất tuy là cái có sẵn nhưng
nhân cách lại có thể dụng công chỉnh sửa được. Theo Tuân Tử việc di dưỡng tính
tình đó dựa vào lễ nhạc.”Trời không yêu riêng mấy ông Tăng Sâm, Mẫn Tử Khiên,
Hiếu Kỉ mà ghét bỏ những người khác. Thế mà riêng mấy ông Tăng Sâm, Mẫn Tử
Khiên, Hiếu Kỉ thực có cái hạnh chí hiếu và có cái danh toàn hiếu là tại làm sao? Là
tại ba ông ấy đã biến hóa được cái tính và dốc lòng theo lễ nghĩa. Trời không yêu
riêng dân nước Tề nước Lỗ mà ghét bỏ dân nước Tần. Vậy mà về tình cha con,
nghĩa vợ chồng, dân Tần không bằng dân Tề Lỗ, là những người giàu lòng hiếu kính
là tại sao? Là tại dân Tần thuận theo tính tình, huyênh hoan, càn bậy, xem thường lễ
nghĩa, cứ có phải là tại tính họ khác dân Tề Lỗ”.
Trong học thuyết của mình, Hàn Phi không phủ nhận hoàn toàn khả năng
giáo hóa của Nho gia, vẫn dẫn ra nhiều nhà Nho có tư cách tốt, như Tăng Sâm, Sử

Ngư, những người bề trên không nghiêm trị mà vẫn có đức hạnh. Nhưng số hiền
nhân đó hiếm có, giống như cây tên tự nó đã thẳng sẵn, hoặc như khúc cây tự nó
tròn sẵn, cả trăm đời cũng không có được một, ngàn đời cũng không có được một.
Vì chỉ là thiểu số nhỏ bé nên Hàn Phi xem dạng người đó như không tồn tại. Bởi
“phép nước không thể mất, mà số dân cần trị không phải chỉ có một người. Cho nên
bậc vua chúa biết dùng thuật không tuỳ theo cái thiện ngẫu nhiên mà chỉ thi hành cái
đạo tất nhiên, dùng chính sách thích hợp với đại chúng, bỏ chính sách chỉ thích hợp
với một ít người” (Hiển học). Bỏ qua số cá nhân hiếm hoi, con người từ trên xuống
dưới là những kẻ đầy lòng ham muốn. Ai cũng có những ưa ghét bẩm sinh và có
động lực mạnh mẽ khi đối diện những nhu cầu tự nhiên đó. Dấu vết của chúng được
Hàn Phi tìm thấy trong tất cả mối quan hệ thông thường giữa con người với con
người, tác động mạnh nếu không nói là quyết định tính chất của quan hệ.
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 16
Tính chất mối quan hệ sẽ rất tốt, nếu mối quan hệ đáp ứng nhu cầu của hai
bên. Khi đó người xa lạ cũng có thể tốt với nhau không kém gì ruột thịt. “Thầy lang
khéo mút vết thương, ngậm máu bệnh nhân không phải vì tình cốt nhục, chỉ vì lợi.”
“Chủ ruộng mướn người gieo mạ, cày ruộng, không ngại phí tổn cho ăn ngon, lại lựa
tiền, vải tốt mà trả công, không phải vì yêu thương đâu mà vì nghĩ: “có vậy người ta
cày mới sâu, cào cỏ mới kĩ cho mình”. Người làm công đó hết sức cày và cào cỏ,
sửa sang lại bờ ruộng, không phải vì yêu chủ ruộng mà vì nghĩ: “Có vậy chủ mới
cho ăn ngon, mà tiền, vải mới tốt.” Như vậy một bên cung dưỡng hậu hĩ, một bên
gắng sức làm việc, có cái ân trạch giữa cha con, hai bên đều hết nghĩa vụ, đều vì
mưu cái lợi cho chính mình.” (Ngoại trừ thuyết tả thượng).
“Nếu lòng thấy có hại thì dù là cha con cũng xa nhau, oán nhau”: “Cha mẹ
không săn sóc con kĩ khi cňn nhỏ thě lớn lên nó oán. Con được nuôi cho thành
người rồi mà cung dưỡng cha mẹ không được hậu thì cha mẹ giận oán trách” (Ngoại
trừ thuyết tả thượng). Nho Gia từ Khổng Tử chủ trương “trung thứ”, từ mình suy ra
người, từ trong suy ra ngoài. Cho nên có hiếu với cha mẹ mình mới trung tín được

với người, con mình không thương nỗi thì làm sao thương được người khác. Bởi vậy
khẩu hiệu của đế vường đời sau có câu “lấy hiếu để trị thiên hạ”. Quan hệ cha con
đối với Nho Gia quan trọng như vậy nên Đại Nho Tuân Tử dù lập thuyết tính ác
cũng không dám động đến. Chỉ có Hàn Phi là cực tả được ảnh hưởng của lợi ích cá
nhân trong tình phụ tử thiêng liêng đó. Ông thấy người ta “sanh con trai thì mừng,
sanh con gái thì giết. Trai gái đều trong lòng cha mẹ mà ra, mà con trai thì mừng,
con gái thì giết, là do nghĩ đến sau này, đứa nào có lợi lâu dài cho mình hơn” (Lục
phản).
Hàn Phi ngược lại xem ai cũng vì lợi ích bản thân mình. Có lòng ái quốc
nồng nàn, hẳn Hàn Phi không phủ nhận những tình cảm cao thượng, những phút
giây con người động lòng trắc ẩn. Nhưng ở hạng phàm nhân tính ác của Hàn Phi,
người ta lâu lâu mới vị tha một lần. Vì thế nếu cứ “mong cho người khác phải vì
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 17
mình, chứ không muốn cho mỗi người phải vì bản thân người đó thôi” thì “cha con
là tình chí thân mà có khi còn trách nhau, oán nhau” (Ngoại trừ thuyết tả thượng).
Bởi ai cũng vì bản thân người đó nên người được xem là tốt chưa chắc đã có lòng
yêu người thật sự, còn kẻ xấu chưa chắc đã căm ghét đồng loại hơn người tốt. Học
thuyết của Hàn Phi nhắc tới hai loại người đối chọi nhau, kẻ sĩ biết thuật, giỏi pháp
độ đối chọi với bọn “trọng nhân” “không có lệnh (vua) mà tự chuyên, làm trái pháp
luật để lợi cho mình, làm hao tốn của nước để ích cho nhà. Chính những kẻ sĩ biết
thuật, giỏi pháp độ mà Hàn Phi xem trọng nhất cũng chưa chắc tự nhiên đã có đức.
Nhờ trí mưu mà nhìn xa trông rộng, biết bỏ qua lợi ích tức thời mà di họa mai sau.
Họ không gia nhập bè cánh gian thần là do “đại thần cầm quyền, một khi vua có sự
thay đổi mà còn được sủng ái như trước thì mười người không chắc được hai ba. Tại
sao vậy? Tại tội của họ lớn quá. Bề tôi có tội lớn, lừa gạt chúa, tội đó đáng chết. Kẻ
sĩ có đức, liêm khiết, cho sự vào bè với gian thần là xấu hổ, nên không theo chúng.
Vậy kẻ đi theo bọn đại thần đương cầm quyền, nếu không phải là ngu xuẩn, không
sợ chết thì tất là tham ô không tránh bọn gian” (Cô Phẫn).

Xem ai cũng vì mình, Hàn Phi khuyên kẻ cai trị chỉ nên cậy vào thế lực có
thể khống chế được người mà không nên tin người. Vì cái lợi của hai bên có thể đối
chọi nhau “Cái lợi của vua chúa ở chỗ kẻ nào có tài thì giao cho quan chức, còn cái
lợi của bề tôi ở chỗ mình vô tài mà được làm quan; cái lợi của vua chúa ở chỗ ai có
công lao thì mới thưởng cho tước lộc, còn cái lợi của bề tôi ở chỗ mình không có
công mà cũng được giàu sang; cái lợi của vua chúa ở chỗ khiến cho hào kiệt trổ hết
tài năng, còn cái lợi của bề tôi ở chỗ kết bè đảng mà mưu tư lợi.” Cái lợi đoạt được
từ kẻ cầm quyền lại lớn. Do đó kẻ cầm quyền là cái đích lợi và hại của rất đông
người. “Trong việc cướp quyền giết vua, chế ngự một nước vạn cỗ xe để hưởng cái
lợi lớn thì bề tôi nào chẳng là Dương Hổ (một phản thần). Việc làm hễ tinh tế, khéo
léo thì thành, sơ suất, vụng về thì thất bại. Bề tôi chưa khởi loạn là vì dự bị chưa đủ.
Bề tôi nào có cái lòng như Dương Hổ mà vua không biết là vì việc làm của họ tinh
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 18
tế, khéo léo. Dương Hổ vì tham muốn đánh bề trên, mà để cho thiên hạ biết được là
do hắn sơ suất, vụng về” (Biện Nạn IV). Vua chúa trong học thuyết của Hàn Phi trở
thành những người cô đơn nhất, hình hợp hoàn toàn với những danh “cô”, “quả” mà
bọn họ thường tự gọi. “Giữa vua tôi không có tình anh em ruột thịt.”. “Chúa có vạn
cỗ xe, vua có ngàn cỗ xe thì hoàng hậu, thứ phi, phu nhân, đích tử thế nào cũng có
người muốn cho vua chết sớm”. “Bậc vua chúa chết vì bệnh chưa được phân nửa”
(Biện Nạn, Bị Nội).
Với những lời trên, giai cấp quý tộc, chìa khóa thành công của chính sách
nhân trị, trong học thuyết của Hàn Phi trở thành những kẻ cần phải dùng hình pháp
để khống chế nhất. Nhận xét trên càng có giá trị hơn vì nó được nói lên bởi một quý
tộc cỡ bự, sinh ra trong lòng của giai cấp quý tộc và ngày ngày tiếp xúc với quý tộc.
Giá trị cũng xuất phát từ thực tiễn hoạt động chính trị, từ bi kịch của bản thân tác
giả. Xây dựng học thuyết để cứu nước vậy mà chỉ có nước kẻ thù nhận ra giá trị còn
nước cha mẹ lại không dùng. Bọn quý tộc đương thời toàn là bọn trọng nhân và bè
lũ mà kẻ sĩ vì nước vì dân vốn đã hiếm hoi lại càng hiếm hoi hơn. Vì muốn làm kẻ sĩ

vì nước vì dân phải công khai đối chọi với bọn trọng nhân đó. Trong cuộc đấu tranh
đó, kẻ sĩ biết thuật có năm thế tất bại. “Thế đã không thắng được vua mà lại không
sống chung được (với bọn trọng nhân); tất có kẻ mất người còn, kẻ sĩ giỏi pháp thuật
làm sao khỏi bị nguy? Bọn trọng nhân nếu có vu tội lỗi cho ai thì sẽ dùng phép công
mà giết người đó; không thể vu được thì sai người ám sát. Tóm lại, làm sáng tỏ pháp
luật là trái ý vua chúa, nếu không bị quan giết thì tất cũng chết vì bị ám sát” (Cô
Phẫn). Tư cách bọn quý tộc tồi tệ như vậy, trông chờ chúng trở thành những vị vua
vị quan tốt cũng giống như việc ôm cây đợi thỏ. Có thể đã từng có những vị vua
quan như vậy, nhưng chỉ là cái Thế Tự Nhiên, ngàn đời sau mới lặp lại.
3. Cách thức thực hành theo chủ trương, phương pháp cai trị
Với quan điểm con người có tính người và tính ấy cơ bản là đồng đều ở mỗi
con người, do điều kiện, môi trường hoàn cảnh khác nhau mà người này khác người
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 19
kia, con người không giữ được tính trời phú, trở nên vô đạo, phái Nho gia chủ
trương lập đạo để giữ tính người, và đạo phải có giáo mới sâu sắc. Như thế, xã hội
mới được cai trị bởi những bậc minh quân, quân tử, trật tự xã hội mà quan trọng
nhất là ba mối quan hệ giữa vua tôi – cha con – chồng vợ được giữ vững (thực hành
chính danh). Phạm trù nổi bật Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Dũng.
Với quan điểm con người có tính ác, Hàn Phi chủ trương dùng luật pháp để
trị nước, ngăn chặn con người làm điều ác. Hàn Phi hướng đến việc xây dựng một
hệ thống luật pháp nghiêm minh, thay đổi theo thực tiễn nhu cầu của cuộc sống xã
hội, với 3 phạm trù nổi bật “Pháp” (Thương Ưởng), “Thế” (Thận Đáo) và “Thuật”
(Thân Bất Hại).
a. Giáo dục đạo đức (lập đạo) của Nho Gia
Tu thân

Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức để
làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ

Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà
nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ
Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
Tam Cương: Tam là ba; Cương là giềng mối; Tam Cương là ba mối quan hệ:
Quân thần (vua tôi), Phụ tử (cha con), Phu thê (chồng vợ).
- Quân thần: Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung
thành một dạ.
- Phụ tử: Trong quan hệ cha con, cha nuôi dạy con cái, con cái hiếu kính vâng
phục cha và khi cha già thì phải phụng dưỡng.
- Phu thê: Trong quan hệ chống vợ, chồng yêu thương và công bình với vợ,
vợ vâng phục và chung thủy giữ tiết với chồng.
Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều phải
hằng có trong khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 20
- Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Tam Tòng: Tam là ba; Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải
theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
- Tại gia tòng phụ: nghĩa là, người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
- Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng,
- Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con"
Tứ Đức: Tứ là bốn; Đức là tính tốt. Tứ Đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ
phải có, là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh.
- Công: khéo léo trong việc làm.
- Dung: hòa nhã trong sắc diện.

- Ngôn: mềm mại trong lời nói.
- Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân :
• Đạt Đạo. Đạo có nghĩa là "con đường", hay "phương cách" ứng xử mà
người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều:
đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè" (sách Trung
Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu". Đó
chính là Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là "trung
dung". Tuy nhiên, đến Hán nho ngũ luân được tập chung lại chỉ còn ba mối quan hệ
quan trọng nhất được gọi là Tam thường hay còn gọi là Tam tòng.
• Đạt Đức. Quân tử phải đạt được ba đức: "nhân - trí - dũng". Khổng Tử nói:
"Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo buồn,
người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi" (sách Luận ngữ). Về sau,
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 21
Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức trở thành bốn đức: "nhân, nghĩa,
lễ, trí". Hán Nho thêm một đức là "tín" nên có tất cả năm đức là: "nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín". Năm đức này còn gọi là ngũ thường.
• Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Ngoài các tiêu chuẩn về "đạo" và "đức", người
quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc". Tức là người quân tử còn phải có một
vốn văn hóa toàn diện.
b.Xây dựng hệ thống pháp luật của Pháp gia
Học thuyết pháp trị của Hàn Phi là một học thuyết có nội dung hoàn chỉnh được
tổng hợp từ pháp, thế và thuật.
Pháp

Nguyên tắc lập pháp:
1/ Tính tư lợi. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con
người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của

nó phải lớn hơn cái hại.
2/ Hợp với thời thế. Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Đối với ông, không
có một pháp luật siêu hình hay một mô hình pháp luật trừu tượng tiên thiên để mà
noi theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực tiễn. “Pháp luật thay đổi
theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công lao Thời thế thay đổi
mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn Cho nên, bậc thánh nhân trị dân thì
pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng mà thay đổi”.
3/ Ổn định, thống nhất. Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song
trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi (“số biến
pháp”), vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà còn tạo cơ hội
cho bọn gian thần.
4/ Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm.
5/ Đơn giản mà đầy đủ.
6/ Thưởng hậu phạt nặng
Tiểu luận Triết học Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

K20 – Đêm 1 – Nhóm 2 – STT 13 22
Nguyên tắc chấp pháp:
1/ Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”.
2/ Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”, “hình bất tị
đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ – nhà vua – cũng
phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là kẻ phải giữ pháp luật, căn
cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”; Nếu nhà vua biết bỏ điều riêng tư, làm theo
phép công thì chẳng những dân sẽ được yên, mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý
nghĩa của những luận điểm này thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương
quân quyền thần thánh không thể xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị
chế ước bởi pháp quyền.
3/ Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho người
không có công, vô cớ sát hại người vô tội.
4/ Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.

Thế

Thế” còn được gọi là “quyền thế”, “uy thế”, “thế trọng”, nó chỉ một sức mạnh quyền
uy tuyệt đối, cũng chính là quyền thống trị tối cao của ông vua, bao gồm quyền sử
dụng người, quyền thưởng phạt, v.v Hàn Phi cho rằng, chỉ khi nào nắm quyền
thống trị trong tay, thì một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể cai trị dân
chúng. Trong thiên “Bát kinh”, ông viết: “Cái thế là cơ sở để thắng đám đông” (Thế
giả, thắng chúng chi tư dã). Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền
thế.
Hàn Phi quan niệm rất rõ ràng những điểm trọng yếu về thế:
1/Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế.
2/ Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi.
3/ Cần sử dụng thuật thưởng phạt để củng cố quyền thế.

×