Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.9 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
PHỊNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài số 3:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA
SVTH: Nguyễn Mai Trúc Đào
STT: 22
Nhóm: 2
Lớp: Cao học Đêm 1 – K20
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Tp. Hồ Chí Minh, 2011
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA 4
1. Khái quát nho gia 4
1.1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 4
1.2. Các quan điểm của Nho gia 5
2. Khái quát pháp gia 8
1.1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 8
1.2. Các quan điểm của Pháp gia 8
CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ
PHÁP GIA 10
1. Sự tương đồng 10
2. Sự khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 17
3. Nhận xét 24
KẾT LUẬN 26

PHẦN MỞ ĐẦU
2
Triết học ở Trung Quốc phát triển rất mạnh mẽ, đa dạng và phong phú. Ở


Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết, người Trung Quốc
hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng,
triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Đồng thời triết học Trung Quốc có rất nhiều trường phái, tư tưởng, triết lý
khác nhau mang đến cho triết học Trung Quốc một sắc thái và phong cách riêng.
Trong đó có hai trường phái ảnh hưởng lớn và đóng góp quan trọng đến sự phát
triển của triết học Trung Quốc đó là Nho gia và Pháp gia. Chính vì thế tôi quyết
định nghiên cứu về vấn đề “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp
gia”. Hai trường phái này có những sự tương đồng lẫn nhau trong tư tưởng và
triết lý nhưng bên cạnh đó cũng có sự khác biệt để phù hợp với mỗi thời kỳ, hoàn
cảnh xảy ra. Ngoài ra hai trường phái trên thể hiện những cột mốc quan trọng
trong lịch sử triết học Trung Quốc. Để hiểu, nắm rõ hơn về vấn đề này bài tiểu
luận sẽ được trình bày với bố cục như sau:
I. Khái quát về Nho gia và Pháp gia.
1. Khái quát về Nho gia
2. Khái quát về Pháp gia
II. So sánh giữa Nho gia và Pháp gia
1. Sự tương đồng
2. Sự khác biệt
3. Nhận xét.
3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA
1.Khái quát Nho gia
1.1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
Nho gia là một trong những trường phái triết học chính của Trung Hoa cổ đại.
Phái Nho gia được Khổng Tử sáng lập, Mạnh Tử phát triển về phía duy tâm tiên
nghiệm và Tuân Tử phát triển về phía duy vật. (Khổng Tử người làng Xương
Bình, huyện Khúc Phụ, nay thuộc phủ Duyên Châu, tỉnh Sơn Đông bên Tàu. Ông
sinh vào mùa đông tháng mười năm Canh Tuất là năm thứ 21 đời vua Linh
vương nhà Chu, tức 551 trước Tây lịch kỷ nguyên. Mất năm 497tr.CN).

Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí thức
chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng Tử đã hệ
thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học
hay “Khổng học” - gắn với tên người sáng lập ra nó.
Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên cho đến thời nhà Hán
(Hán Vũ Đế) Nho giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn giữ vị
trí đó cho đến ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Nét đặc thù của triết học
Trung Quốc là có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị -
đạo đức của xã hội với nội dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con
người, xã hội lý tưởng và con đường trị nước.
Sự hình thành, phát triển cùng với đặc điểm của Nho gia gắn liền với cuộc đời
sự nghiệp và tư tưởng, triết lý của Khổng Tử.
Qua hệ thống kinh điển có thể thấy hầu hết là các kinh, các sách viết về xã hội,
chính trị- đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo
4
1.2. Các quan điểm của Nho gia
1.2.1. Đường lối xây dựng đất nước
Khổng Tử đưa ra cái đạo trị nước trong thời binh đao, loạn lạc Xuân Thu
chiến quốc.
 Trước hết thực hiện ba điều: thực túc, binh cường, dân tín.
Thực túc là tự cung cấp lương thực, các nhu cầu thiết yếu của người dân mà
cái quan trọng nhất là cái ăn, cái mặc. Một đất nước muốn mạnh mẽ phải tự cung
cấp những nhu cầu thiết yếu đó cho người dân. Người dân đươc ăn no, mặc ấm.
Binh cường là đất nước phải có binh hùng, tướng mạnh để bảo vệ đất nước,
bảo vệ sự thái bình của mình. Chống lại những kẻ ngoại xâm từ bên ngoài.
Dân tín: Một quốc gia muốn tồn tại lâu dài và vượt qua mọi khó khăn thì điều
quan trọng nhất vẫn là dân tín. Lấy được lòng tin sự tín nhiệm của người dân thì
đất nước đó sẽ hùng mạnh và phồn thịnh. Đó là cái triết lý của đạo Khổng học.
 Dưỡng dân, giáo dân là cái căn của việc trị nước giúp đất nước phát
triển. Cái đạo lấy dân làm gốc là cái đạo đúng đắn nhất. Khi người dân được mở

mang sự hiểu biết và được giáo dục theo cái đúng, cái thật thì quả là sự gì đều
trong cái lý, cái chung.
 Đào tạo con người: Theo quan niệm của Khổng Tử, đỉnh cao mà việc rèn
luyện nhân cách cần đạt tới là con người “toàn đức” (bao gồm cả ba phẩm chất
nhân, trí, dũng) . Con người coi việc thực hiện “đức nhân” là lý tưởng tối cao, có
thể hy sinh thân mình để hoàn thành điều nhân (sát thân thành nhân).
Kẻ sĩ là những người trí thức được học hành và có sự hiểu biết rộng. Suốt đời
mình, Khổng Tử đã đào tạo ra một lớp người đặc biệt trong xã hội, dù tham gia
chính sự hay không, đều được gọi chung là kẻ sĩ. Thuở sinh thời Khổng Tử, số
lượng đó mới chỉ có khoảng ba ngàn người. Đó hầu hết là các học trò theo
Khổng Tử.
5
Đại trượng phu: Theo nho gia, đại trượng phu là Phú quý bất năng dâm, bần
tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất. Những bậc đại trượng phu ấy, họ nhờ vào
cái gì vậy mà có thể "giàu sang không dâm, nghèo hèn không đổi, quyền uy
không thể khuất phục"
Quân tử: Nho gia đã đặt ra yêu cầu từ hình dáng đến thâm tâm, từ cách cư xử
với mình đến cách cư xử với đời của người quân tử. Quân tử chủ sự theo thiên lý
để làm những điều công chính. Người quân tử bao giờ cũng ôn nhã, tĩnh trọng
không làm điều gì là không hợp lẽ phải.
1.2.2. Đạo đức:
1.2.2.1 Đạo đức về con người
Phái nho gia quan trọng cái gốc căn bản của mỗi con người. Tu dưỡng đạo đức
cá nhân là cái gốc của xã hội. Vì vậy theo phái nho gia thì con người nên rèn
luyện theo những đức chung nhất của một con người.
a. Trung
"Trung" không dời đổi, không có nghĩa là một cái gì vật chất hay một tư tưởng
bất động, nhưng là nguyên sơ của Trời Ðất vốn cho con người như thế. Sách
Trung Dung nói rõ: Vui, giận, buồn, sướng chưa phát ra, đó là Trung.
b. Hiếu

Chữ hiếu được người Trung Quốc nói đến từ rất sớm. “Hiếu” tức là mối quan
hệ cha trên, con dưới; suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông
bà, tổ tiên. Ở đây chữ hiếu đã đề cập đến quan hệ giữa người với người, song nó
thuộc đời sống chính hệ, nó như sợi dây nối liền bề dưới với bề trên, nối liền con
người với tổ tiên, thần thánh.
c. Nghĩa
6
“Nghĩa” là hành vi đạo đức thể hiện đức nhân. Người làm việc nghĩa thì hy
sinh lợi ích của mình vì người khác. Nghĩa và lợi không thể dung hợp với nhau.
Khổng Tử nói: “Quân tử biết rõ về nghĩa, tiểu nhân biết rõ về lợi”.
d. Trí
“Trí” là biết khôn ngoan suy xét điều phải điều trái, biết minh triết bảo thân
trong cảnh nguy nan, biết biện biệt, kẻ xấu người tốt trong vấn đề xử lý tiếp vật.
Nếu lỡ giao du với kẻ xấu, thì phải tuyệt giao với họ nhưng không nói xấu cho
họ.
e. Dũng
“ Dũng” là không biết sợ sệt là gì. Thấy việc nghĩa bèn ra tay hành động. Nếu
đã hành động thì phải thiết thực chứ không chỉ ở lời nói suông.
1.2.2.2 Ngũ luân
Khổng Tử coi xã hội là tổng hợp các mối quan hệ giữa người với người, trong
đó có các quan hệ như: Vua-tôi, Cha-con, Chồng-vợ, Anh-em, Bạn bè. Năm mối
quan hệ này về sau được phái Nho gia gọi là Ngũ luân. “Luân” là thứ bậc ứng xử,
là con đường, là những mối quan hệ mà con người phải biết ứng xử. Phương
châm ứng xử là trung dung. Trong đó 3 mối quan hệ Vua-tôi, Cha-con, Chồng-
vợ là những mối quan hệ cơ bản nhất và được gọi là Tam cương.
- Quân minh thần trung (vua sáng suốt, tôi trung thành),
- Phụ từ tử hiếu (cha hiền từ , con hiếu thảo),
- Phu nghĩa phụ kính (chồng có nghĩa, vợ kính trọng),
- Huynh lương đệ đễ (anh tốt, em nhường),
- Bằng hữu hữu tín (bạn bè tin cậy nhau).

7
2.Khái quát về Pháp gia
2.1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
Trong Lịch sử Trung Quốc, Pháp gia là một trong bốn trường phái triết lý ở
thời Xuân Thu và thời Chiến Quốc (Gần cuối thời nhà Chu từ khoảng thế kỷ thứ
6 TCN cho tới khoảng thế kỷ thứ 3 TCN). Tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất
sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và
phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư
tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà
khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn
nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời
kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại,
Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
2.2. Các quan điểm của Pháp gia
2.2.1. Đường lối xây dựng đất nước
Các triết gia của Pháp gia tin rằng một nhà cai trị phải cai quản các thần dân
của mình theo những quy tắc sau:
Pháp (Pháp luật): Luật hay quy tắc. Luật pháp phải được trình bày rõ ràng và
thông báo rộng rãi cho công chúng. Tất cả thần dân của nhà cai trị đều bình đẳng
trước pháp luật. Luật pháp phải thưởng cho những người tuân phục và trừng phạt
những người bất tuân. Hệ thống luật pháp cai quản đất nước, chứ không phải là
nhà vua cai trị. Nếu có thể làm cho pháp luật có hiệu lực, thậm chí một vị vua
kém tài cũng trở nên mạnh mẽ.
Thuật (Nghệ thuật): Phương pháp, thủ đoạn hay nghệ thuật. Những thủ đoạn đặc
biệt và “bí mật” được vị vua cai trị dùng để đảm bảo rằng những người khác
8
(quan lại ) không thể chiếm quyền kiểm soát quốc gia. Chỉ biết tuân thủ theo
luật pháp.
Thế (Thế lực, địa vị): Tính chính thống, quyền lực hay uy tín. Chính vị trí của

nhà vua cai trị, chứ không phải nhà vua, nắm giữ quyền lực. Vì thế việc phân tích
khuynh hướng, hoàn cảnh và những yếu tố thực tại là điều căn bản của một vị
vua cai trị thực sự.
Hình phạt: Theo Pháp gia hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân
chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu,
kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc
được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con
giữ gìn cho nhau”.
Nông nghiệp và chiến tranh: Hàn Phi coi phú cường là mục tiêu tối cao của
quốc gia. Để đạt tới mục tiêu phú cường đó, Hàn Phi chủ trương áp dụng chính
sách "Canh chiến", đưa hết trăm họ vào hệ thống tổ chức "Canh chiến". Được
như vậy thì vào thời bình, nhân dân sẽ nỗ lực canh tác, làm cho nước giàu, nhờ
có pháp lệnh khuyến khích; một khi xây ra chiến tranh, thì khối nông dân đã
được tổ chức sẵn trong thời bình, đều trở thành lính chiến, có thể đưa ngay ra
chiến trường chống giặc.
2.2.2. Tư tưởng biện chứng
a. Thời biến thì pháp biến
Không thể áp dụng một khung pháp luật mãi cho mọi thời, mọi tình huống.
Khi biến cố chính trị hay xã hội xảy ra thì pháp luật cần thay đổi cho nó phủ hợp.
Hàn Phi Tử thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định rằng không
thể có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có khuôn mẫu pháp
luật chung cho mọi xã hội, mọi thời.
b. Điều hành đất nước theo số (quy luật).
9
Điều hành đất nước theo số là nhà cầm quyền tin rằng con người có mệnh thì
đất nước, dân tộc cũng có vận mệnh riêng của mình. Vì vậy điều hành đất nước
phải để quy luật mới thay cũ, không phù hợp thay phù hợp… Chủ trương của
Pháp gia là bậc vua chúa phải làm cho dân theo đúng pháp luật, như vậy là nước
trị, áp dụng pháp gia trong trị nước là mong muốn đất nước theo quy luât của xã
hội, con người.

CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA
1. Sự tương đồng
Tư tưởng Nho giáo nguyên thuỷ, tư tưởng Khổng Tử không hoàn toàn giống
với Khổng giáo trong các triều đại phong kiến. Nếu tư tưởng tích hợp văn hoá ở
“Lã Thị Xuân Thu”, tư tưởng của Hàn Phi Tử, Lý Tư, sách lược “viễn giao cận
công” (kết xa đánh gần) đã giúp Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc, thì
Hán Cao Tổ đã nhờ học thuyết Pháp gia và sự bất mãn của nhân dân để đánh bại
nhà Tần.
Tuân Tử – một “học trò” phi chính thống của Khổng Tử, đồng thời là thầy của
Hàn Phi tử, Lý Tư… đã mở đầu một nhánh Nho học phi chính thống. Ông đã
quan tâm đến vị trí quan trọng của pháp luật trong toàn bộ hệ thống học thuật và
đặc biệt là quan điểm “Tính bổn ác” của mình. Riêng Hàn Phi Tử trở thành một
đại biểu quan trọng của Pháp gia. Hán Cao Tổ tuy vận dụng Pháp gia, Mưu lược
gia để thành công nhưng ông cũng sáng suốt vận dụng Nho giáo để ổn định thiên
hạ lâu dài
Vì vậy nếu nói Pháp gia là một nhánh của Nho gia cũng đúng. Một số tư
tưởng Nho gia đã được phái Pháp gia đúc kết và phát triển làm tư tưởng của phái
họ.
10
 Hai phái cùng hướng đến sự thái bình, nhằm mục đích ổn định đất nước,
người dân được no ấm, hạnh phúc. Vì vậy quan niệm về thực túc (Nho gia) và
nông nghiệp hay còn gọi là trọng nông (Pháp gia): đều chú trọng phát triển kinh
tế chủ đạo của đất nước; muốn nước cường thịnh thì dân phải ăn no mặc ấm.
Điều đáng chú ý là đề cao Nhân, Nghĩa trong cuộc sống của con người; nhưng
Nho giáo cũng không bỏ qua vấn đề cơm ăn, áo mặc của nhân dân. Bởi nhân dân
có đủ ăn đủ mặc thì mới thực hiện được đạo nghĩa đạo Nhân. Chính vì thế Nho
giáo khuyên giới cầm quyền tìm mọi cách để giúp dân sản xuất, phải chăm lo đến
việc sản xuất của dân. Mạnh Tử từng nói:
Nếu vua chẳng làm trái nghịch thời tiết của kẻ làm ruộng, đừng bắt họ làm xâu

trong mùa cấy gặt thì thóc lúa ăn chẳng biết. Nếu đừng để cho người ta bủa lưới
nhặt trong các bưng hồ thì cá rùa ăn chẳng hết. Nếu đừng để cho lưỡi rìu, cạnh
búa đốn phá rừng núi sau lúc sai mùa thì cây cối dùng chẳng hết. Lúa thóc và rùa
cá dự ăn, cây cối dư xài, nhân dân nhờ đó mà nuôi dưỡng người sống, mai táng kẻ
chết, họ chẳng sầu oán gì nữa. Trong nước mà dân chúng chẳng oán sầu vì họ
nuôi người sống được no ấm, chôn người chết được đủ lễ, đó là bước đầu của
một nền cai trị thịnh vượng vậy.
Bên cạnh đó quan niệm về binh cường (Nho gia) và chiến tranh (Pháp gia)
cũng có sự tương đồng trong tư tưởng và lý luận. Muốn đất nước đứng vững
vàng và thái bình thì về mặt quân sự phải hùng mạnh. Khi gặp chiến tranh sẽ bảo
vệ đất nước chống ngoại xâm. Vì vậy lúc cũng phải chú trọng rèn luyện binh mã,
làm cho binh hùng tướng mạnh.
 Như đã nói ở trên Tuân Tử là người kế thừa và được coi như người kế tục
của phái Nho gia. Nhưng Hàn Phi Tử được coi là người có vai trò lớn trong việc
phát triển và xây dựng phái Pháp gia lại là học trò của Tuân Tử. Họ cùng có quan
điểm con người sinh ra đã có bản chất là ác. Phần đông người ta đã hiểu lầm
chân ý của Tuân Tử về tính ác của con người. Thật ra thì Tuân Tử có bảo: “Tính
giả thiên chi tựu”. Nghĩa là khi sinh ra, người ta đã sẵn cái nhân tính tự nhiên.
Nhân tính đó, ví như tờ giấy trắng, được nhuộm màu gì sẽ ra màu ấy. Sở dĩ nhân
11
tính có thể thành ra ác, là bởi lòng người nảy sinh dục vọng, như Tuân Tử đã
bảo: “Kim nhân chi tính, sinh nhi háo lợi yên, thuận chi, cố tranh đoạt sinh, nhi
từ nhượng vong yên Sinh nhi hữu nhĩ mục chi dục, hữu háo thanh sắc yên,
thuận chi, cố dâm loạn sinh, nhi lễ nghĩa văn lý vong yên. Nhiên tắc, túng nhân
chi tính, thuận nhân chi tình, tất xuất ư tranh đoạt, thạp ư phạm nhân loạn lý, nhi
quy ư bạo Dụng thử quan chi, nhiên tắc nhân chi tính ác minh dĩ”. (Tính người
ngày nay, trời sinh có kẻ hiếu lợi, do đó, mới sinh ra vấn đề tranh đoạt mà mất đi
đức tính khiêm nhường Trời sinh người ta có thứ dục vọng bởi tai mắt, thích
nghe cái hay, nhìn cái đẹp do đó. mới sinh ra vấn đề dâm loạn, mà mất đi lễ
nghĩa, đạo lý văn hóa. Vậy thì, nếu cứ chiều theo tính và thuận theo tình của con

người, thì sẽ diễn ra cảnh tranh giành, phạm tội loạn ly, rồi quy hết về bạo lực
Cứ nhìn theo đó thì đã quá rõ ràng, tính người là ác vậy).
 Nho gia và Pháp gia là những phái có tư tưởng lớn trong lịch sử triết học
Trung Quốc nói riêng và Phương Đông nói chung. Đều là những tư tưởng trị
quốc trong lịch sử Trung Quốc cổ Đại, có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến
tận ngày nay. Nho gia có vị trí lớn trong lòng người dân Trung Quốc gắn liền
xuyên suốt các thời đại Trung Quốc. Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công
nguyên cho đến thời nhà Hán (Hán Vũ Đế) Nho giáo đã chính thức trở thành hệ
tư tưởng độc tôn và luôn giữ vị trí đó cho đến ngày cuối cùng của chế độ phong
kiến. Nét đặc thù của triết học Trung Quốc là có xu hướng đi sâu giải quyết
những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội với nội dung bao trùm là
vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con đường trị nước.
Nho gia đã để lại những tư tưởng bất hủ và vĩ đại mà đời sau có thể học hỏi. Khi
nghiên cứu Nho gia, Hồ Chí Minh đã nhận xét: “Trong học thuyết của Khổng Tử
có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học.
Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý
báu của đời trước để lại” .
Pháp gia cũng có vai trò quan trọng, đặc biệt là vấn đề trị quốc. Đây là nền
móng để xây dựng thể chế và hiến pháp của Trung Quốc nói riêng và Phương
12
Đông nói chung. Pháp gia đã giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ và được
áp dụng đến thế kỷ 20 khi Mao Trạch Đông xây dựng chính quyền và thống nhất
đất nước. Mỗi một trường phái chiếm giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử triết
học Trung Hoa. Điều đó làm tô đậm nên sự phong phú và đa dạng của triết học
Trung Hoa. Mặc dù mỗi trường phái đều có tư tưởng trị quốc khác nhau nhưng
đều đi đến kết quả cuối cùng là đất nước thái binh, người dân ấm no hạnh phúc.
 Tố chất của nhà cầm quyền theo hai trường phái có sự tương đồng về
chính trị. Theo Nho gia nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là
do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải giáo hoá đạo
đức và thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính danh, định phận” là làm mọi

việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy cứ
thế mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự được phân minh, “Vua
cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” . Khi Tử Lộ hỏi về
chính trị, Khổng Tử đáp: Muốn trị nước, trước hết phải thực hiện “chính danh”,
bởi vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng
đắn sẽ dẫn đến việc thi hành sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì đúng
với phận, với nghĩa, đã xưng danh đúng với danh phận.
Vương quân phải quản lý tốt đất nước, thường dân phải trung thành với vương
quân. Mỗi người đều có nhiều thân phận, có thể là con, có thể là cha, có thể là
thần tử nhưng đều cần phải duy trì gianh giới tông tôi nghiêm khắc. Pháp gia
coi trọng quyền lực của nhà lãnh đạo. Là một bước tiến lớn, trong tư tưởng chính
trị thời cổ Trung Hoa. Mục đích chính của quyền lực là để giúp cho nhà lãnh đạo
có đủ phương tiện, mưu cầu quốc gia phú cường, bằng chính sách "Canh chiến"
do Hàn Phi đề xướng. Tuy rằng Khổng Tử đã từng chủ trương "Tiên phú hậu
giáo", nhưng thật sự thì chữ "Phú” đó, chỉ chiếm một tỉ số rất nhỏ, trong nấc
thang giá trị của nhà Nho. Đến Mạnh Tử thì lại càng coi trọng nhân nghĩa hơn
phú cường, rõ ràng có khuynh hướng đi ngược lại với đòi hỏi của chính trị thời
đại, nên không được vua chúa các nước hoan nghênh. Mãi cho đến thời Tuân Tử,
nhà Nho mới bắt đầu để ý tới vấn đề làm sao cho quốc gia giàu mạnh, là bởi chịu
13
ảnh hưởng về tư tưởng và thành quả cụ thể của Pháp gia cùng thời. Khổng Tử –
người sáng lập Nho gia – làm hết sức để nhằm mục đích cho người quân tử cai trị
đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước chính là tự chế
ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang
lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng nói: “Bản thân mà chính
đáng, dù không cần mệnh lệnh thì (người khác) cũng thi hành; còn nếu bản thân
không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người khác) cũng không tuân theo” (Kỳ
thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Mặc dù không
yêu cầu mọi ông vua đều phải như Nghiêu Thuấn – thánh hiền mang tính lý
tưởng, song theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước chính là

đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt được
qua “lễ”.
Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật” của nhà vua,
bởi vì “bầy tôi đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục, chỉ vì bị tình thế
buộc không thể không thờ”. Nhà vua dựa vào pháp trị để làm cho đất nước giàu
mạnh, song nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu mạnh của
nước mà làm giàu có cho các quan đại thần mà thôi”, Do vậy, nhà vua phải có
“thuật” để dùng người. Đối với Hàn Phi, “thuật” chính là một loạt các phương
pháp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi cử, thưởng phạt của nhà vua. Trong đó, phép
hình danh là một thuật không thể thiếu được của bậc quân chủ. Với cách nhìn
như vậy thì “pháp” và “thuật” gắn bó chặt chẽ với nhau: “Nhà vua không có
thuật trị nước thì ở trên bị che đậy; bầy tôi mà không có pháp luật thì cái loạn
sinh ra ở dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào, đó đều là những công cụ của bậc
đế vương”.
 Cả hai phái cùng nhìn nhận với cấu trúc xã hội cùng những bất bình đẳng
như một thực tế đã định và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Cái
giá phải trả cho sự hòa hợp xã hội là cá nhân thuận theo xã hội. Cả hai tư tưởng
lớn trong Nho gia và Pháp gia là Khổng Tử (Nho gia) và Hàn Phi Tử (Pháp gia)
đều muốn sử dụng tư tưởng và triết lý của mình để giúp đất nước thoát khỏi binh
14
loạn. Nhưng cả hai đểu không có chỗ dùng trong lúc sinh thời. Đến khi tạ thế cả
hai mới được đời sau biết đến và ứng dụng.
Cấu trúc xã hội vào mỗi thời đại đều khác nhau, dẫn đến tình trạng bất bình
đẳng. của mỗi quốc gia. Mỗi con người là một tế bào của xã hội. Cá nhân nếu
theo xã hội là xu thế và thuận theo tự nhiên.
 Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách
giải quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức – xã hội mà thời đại lúc
bấy giờ đặt ra và phục vụ cho một tầng lớp nhất định.
Tư tưởng Nho gia sinh ra thời loạn lạc Xuân Thu chiến quốc, tư tưởng xuất
hiện khi ông muốn tìm ra cái đạo lý trị thiên hạ giúp muôn dân thoát khỏi cảnh

binh đao, đau khổ. Những tư tưởng triết học bảnthể luận và những tư tưởng biến
dịch của vũ trụ có thể xem Khổng Tử đứng trên quan điểm triết học của Kinh
Dịch.Theo tư tưởng của kinh này thì uyên nguyên của vũ trụ , của vạn vật là thái
cực. Thái cực chứa đựng một năng lực nội tại mà phân thành lưỡng nghi. Sự
tương tác giữa hai thế lực âm- dương mà sinh ra tứ tượng. Tứ tượng tương thôi
sinh ra bát quái và bát quái sinh ra vạn vật. Vậy là sự biến đổi có gốc rễ ở sự biến
đổi âm -dương. Những tư tưởng triết học về chính trị- đạo đức của Nho gia được
khảo sát chủ yếu trong sách “luận ngữ”. Ngoài ra còn có thể bổ cứu thêm trong
Ngũ kinh: “Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu” và các sách khác như “Đại học”,
“Trung dung”. Tư tưởng của Nho gia phục vụ cho người dân, lấy đạo đức căn
băn của một con người là cái cốt yếu của thiên hạ. Đường lối đức trị - chính trị -
xã hội của Nho giáo từ Khổng Tử tới Mạnh Tử lấy nhân nghĩa làm gốc, coi trọng
vai trò của dân tuy đã thể hiện được những quan điểm nhân bản khá sâu sắc.
Đường lối đó nặng "đức" "nhẹ hình", khuyến khích người đời từ thường dân đến
bậc vua chúa đều phải tu thân rèn đức theo mẫu người quân tử.
Còn Pháp gia so với thời Xuân Thu thì Chiến Quốc loạn lạc và bất ổn định
hơn về chính trị, nhưng lại phát triển hơn về kinh tế. Trong thời Xuân Thu, công
cụ sản xuất và khí giới chủ yếu là bằng đồng. Sắt bắt đầu được dùng cuối thời kỳ
này và trở nên thông dụng vào thời Chiến Quốc, do đó, thúc đẩy việc mở rộng
15
đất đai nông nghiệp, tăng năng suất lao động. Đây là thời kỳ đạo đức suy đồi,
người ta chỉ tìm mọi cách để tranh lợi. Quan lại tham nhũng, ăn chơi xa hoa truỵ
lạc; chiến tranh kéo dài liên miên khiến cho đời sống của nhân dân càng thêm đói
khổ cùng cực. Trước tình cảnh xã hội như vậy, tầng lớp quý tộc và tầng lớp trí
thức có sự chia rẽ về tư tưởng, trong đó có tư tưởng pháp gia của Hàn Phi Tử. Tư
tưởng của Hàn Phi Tử: là dùng pháp trị nhưng lại trọng dân. Trước khi đặt ra luật
lệ mới, ông để cho dân tự phê bình. Còn lập pháp thuộc về nhà vua; quy tắc lập
pháp phải lấy tính người và phép trời làm tiêu chuẩn. Hành pháp thì phải công bố
luật cho rõ ràng, thi hành cho nghiêm chỉnh, tránh thay đổi nhiều, phải “chí công
vô tư”,”vua tôi, sang hèn đều phải theo pháp luật”, thưởng phạt phải nghiêm

minh, “danh chính, pháp hoàn bị thì bậc minh quân chẳng có việc gì phải làm
nữa, vô vi mà được trị”.
Nói chung cả hai phái Pháp gia và Nho gia đều có những tư tưởng xuất hiện
giữa thời loạn lạc, cảnh binh đao triền miên. Từ đó dẫn đến những tư tưởng nhất
định phục vụ cho một giai cấp, tầng lớp nhất định dựa trên quản điểm và tư
tưởng của các triết gia như Khổng Tử và Hàn Phi Tử.
 Bên cạnh đó, cả hai Phái cũng có những nhược điểm không phù hợp dẫn
đến sự sai lệch không giống mong muốn của chính người sáng lập và xây dựng
chúng. Nho giáo thì phát triển đến đời nhà Minh – Thanh trở nên già cỗi, khắt
khe. Còn phía phái Pháp gia thì có nhà Tần do thực hiện mà không có sự chọn
lọc áp dụng một cách triệt để tư tưởng của Pháp gia dẫn đến sự mất nước.
Mặc dù hai phái đều có mục đích hướng đến ổn định xã hội nhưng khi con
người áp dụng không có sự chọn lọc cho phù hợp với hoàn cảnh tình hình mà áp
dụng một cách rập khuân dẫn đến kết quả không như mong muốn.
16
2. Sự khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
2.1. Về trị quốc
Hai Phái có những đặc điểm trị quốc theo hướng riêng của mình vì do quan
điểm cũng như triết lý khác nhau giữa hai phái. Vấn đề trị quốc rất quan trọng vì
nó ảnh hưởng trực tiếp tới vận mệnh của một đất nước. Công cụ trị nước của
phải dựa vào tư tưởng của các triết gia và hoàn cảnh mà thời các triết gia đó sinh
thời.
Theo Phái Nho gia, cụ thể với Khổng Tử đạo đức là gốc của con người, nói
đến con người trước hết là nói đến đạo đức: "Làm người có nết hiếu đễ thì ít ai
dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa
từng có. Người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra.
Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân ". Đức với Khổng Tử là lời nói đi đôi với việc
làm trên cơ sở cái thiện: "Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà
không làm được".
Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức trị" - đường

lối trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Khổng Tử quan
niệm: "Làm chính trị (trị dân) mà dùng đức (để cảm hoá dân) thì như sao Bắc
Đẩu ở một nơi mà các ngôi sao khác hướng về cả (tức thiên hạ về theo)". Trước
sau Khổng Tử vẫn tin rằng: "dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để
bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo
đức để dắt dẫn dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà
lại theo đường chính".
Ở đây Nho gia muốn dùng cái đức để cảm hóa lòng người mà tiêu trừ cái xấu
nhằm xây dựng đất nước hưng thình và hạnh phúc. Coi nhẹ hình phạt đề cao việc
lấy đức mà trị dân. Tư tưởng “Đức trị” của Khổng tử còn thể hiện ở quan niệm
coi nhẹ chính hình và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Khổng
Tử quan niệm: "Không giáo hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn
ngược". Khổng Tử chủ trương giảm hình, coi nhẹ hình còn vì ông thật sự không
17
bao giờ tin vào bá đạo: "có thể (dùng sức mạnh) bắt được một vị nguyên soái,
chứ chí hướng của một thường dân thì không (dùng sức mạnh mà) đoạt nổi .
Khổng Tử cho việc thi ân rộng rãi cứu giúp dân chúng là sự nghiệp của thánh
vương mà Nghiêu, Thuấn chưa chắc đã làm được như vậy. Dưỡng dân, theo
Khổng Tử trước hết phải làm cho dân no đủ, giàu. Ông coi trọng việc dưỡng dân
hơn việc bảo vệ xã tắc và hơn cả việc giáo hoá dân nữa. Dưỡng dân còn phải
rảnh việc nhà nông. Đó là cái chỗ thâm thúy trong việc trị nước của Nho gia.
Còn Pháp gia thì sử dụng Pháp trị trong việc trị nước theo tư tưởng của Hàn
Phi Tử. Phái pháp gia muốn dùng vũ lực lật đổ chế độ phong kiến phân tán và lập
ra chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, thay “vương đạo” của Khổng Mạnh
bằng chính sách “Bá đạo”.Chính sách cai trị phải dựa vào ý dân, dân muốn thì gì
thì cấp cho cái đó, không muốn cái gì thì trừ cho cái đó. Hàn Phi Tử lại đưa ra
quan điểm: bản chất con người là ác, muốn quản lý xã hội phải khởi xướng ra lễ
nghĩa và chế định ra pháp luật để uốn nắn tính xấu của con người; theo các ông
quản lý xã hội là vị Pháp chứ không vị Đức. Hàn Phi phát triển học thuyết của
mình trên cơ sở kế thừa của các pháp gia trước ông, nhưng phải đến Hàn Phi thì

nó mới trở nên sâu sắc, phổ biến với nhiều nội dung mới. Hàn Phi dùng chữ
“pháp” theo nghĩa phép tắc, còn pháp gia nới tới “pháp” là chỉ pháp luật. Hàn Phi
ví pháp luật với dây mực, cái quy, cái củ tức là những đồ dùng làm tiêu chuẩn
để phân biệt đúng sai, phải trái. Pháp không tách rời khỏi Thế và Thuật mà cùng
tạo nên một cái kiềng ba chân. Luật pháp phải kịp thời. Hàn Phi viết: “Thời thay
mà pháp luật không đổi thì nước loạn, đời đã thay đổi mà cấm lệnh không biến
thì nước bị cắt”. Đối với Hàn Phi, pháp luật là thứ “phép công” điều khiển hành
vi của mọi người. Trong các phạm trù cơ bản của pháp học thi pháp là quan trọng
nhất, sau mới đến Thế và Thuận. Hàn Phi đã kế thừa tư tưởng “vô vi” của Nho và
Đạo, biến nó thành thuật cai trị của vua chúa. Trong cai trị - quản lý thì “tiên phú,
hậu giáo”- trước hết là làm cho dân giàu sau đó thì giáo dục họ. Trong giáo dục
thì “tiên học lễ - hậu học văn”. Nho gia chủ trương cai trị bằng đạo đức, bằng
văn và đã phát triển học thuyết- phương pháp Đức trị (Nhân trị). Ngược lại, Pháp
18
gia đã đưa ra một học thuyết và phương pháp cai trị mới - Pháp trị “Pháp bất vị
thân”, pháp phải hợp thời, pháp luật phải soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành;
pháp luật phải công bằng, bênh vực kẻ thiểu số; thưởng phải trọng hậu, phạt phải
nặng Đó là tư tưởng về chính trị quản lý xã hội còn có ý nghĩa đối với hiện nay.
2.2. Đề cập đến tố chất nhà cầm quyền.
Trong việc trị nước kể trên của hai phái thì tố chất của nhà cầm quyền là rất
quan trọng vì nó quyết định sự suy tồn của một thể chế, một đất nước.
Theo Nho gia, Để thực thi đường lối đức trị, đương nhiên cần phải có một
mẫu người cầm quyền thích hợp. Đó là mẫu người quân tử với những tiêu chuẩn
về tài đức nhất xứng đáng được nắm quyền trị dân. Đức của người quân tử là
"lấy nghĩa làm gốc, theo lễ mà làm, nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên
việc", "sửa mình để cho trăm họ yên trị". Tư cách người quân tử là "lo không đạt
đạo chứ không lo nghèo", "hòa hợp nhưng không a dua", "thư thái mà không
kiêu căng". Tài năng kiến thức của người quân tử "không phải như một đồ
dùng", tức là phải hiểu rộng, biết nhiều làm được nhiều việc và nhất là phải có
"tài trí đủ để trị dân". Người quân tử còn phải là "thận trọng về lời nói, mau mắn

về việc làm", thờ vua phải trung nhưng là trung một cách sáng suốt "không nên
lừa gạt vua, nhưng không ngại xúc phạm vua (mà phải dám can gián)". Với các
nhà cầm quyền, theo Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân muốn
việc chi, nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm quyền
đừng thi thố cho họ". Phân chia ruộng đất hợp lý và khuyến khích làm giàu cho
dân. Với Mạnh Tử giảm bớt tô thuế không chỉ là việc làm có ý nghĩa đối với dân
chúng mà còn là một trong những tiêu chuẩn của người trị dân theo đường lối
nhân chính.
Trong khi đó Phái Pháp gia đề cập tố chất của nhà cầm quyền qua quan niệm
về “Thế” và “Thuật”. Hai quan niệm này nói về những điều mà nhà cầm quyền
phải có và biết sử dụng nó. "Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị.
Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối
19
tôn trọng thi hành thì nhà vua phải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực,
quyền uy của người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan
trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị
dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy Kiệt làm thiên tử
chế ngự được thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu
không trị nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp". "Thế" không chỉ là địa
vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước
(xu thế lịch sử). Hàn Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được mũi tên lên cao là
nhờ có "gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng thì làm sao
kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”. Để nâng cao thế của nhà vua, pháp gia chủ
trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ
hành vi, lời nói đến tư tưởng "Nước của bậc minh chủ thì lệnh là cái quý nhất của
lời nói, pháp là cái thích hợp của việc làm. Lời nói không có hai cách đều quý,
việc làm không có hai cách đều thích hợp cho nên lời nói và việc làm mà không
đúng với pháp lệnh thì cấm". pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối
pháp trị. "Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn
trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ

nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ
chủ yếu của "Thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận
tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra công trạng
và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ
máy luật pháp và chế độ chuyên chế". "Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng
người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là: "Chính
danh", "Hình danh", "Thực danh". Chẳng hạn một người hứa đến thăm ta thì lời
hứa đó là "Danh" còn hành động tới thăm là "Hình" hay "Thực" vậy. Nếu người
đó đến thăm thực thì chứng tỏ "danh", "hình" (hay "danh" và "thực") hợp nhau,
"danh" và "thực" hợp nhau là "chính danh", còn "danh" và "thực" không hợp
nhau là trái, là không "chính danh" từ đó sẽ có căn cứ mà thưởng phạt một cách
nghiêm minh. "Thuật" phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh
chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi làm ra
20
hình. Nếu hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi người
trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có
ai dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng
việc thì vua phải biết dùng "Thuật". "Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo
lời mà trao việc, cứ theo việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì
thưởng. Công không xứng việc thì phạt".
2.3. Tư tưởng biện chứng
Phép biện chứng biến dịch là một nét đặc sắc của triết học Trung Hoa đồng
thời nó cũng tiêu biểu cho phái Nho gia ( Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử ). Triết
lý âm dương đi sâu vào sự suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của
vạn hữu. Theo thuyết âm dương thì mọi sự biến hoá vô cùng, vô tận, thường
xuyên của vạn hữu đều có thể quy về nguyên nhân của sự tương tác giữa hai thế
lực đối lập vốn có của Âm và Dương. Các nhà biện chứng thuộc phái này cho
rằng trời đất luôn luôn biến đổi không ngừng và có tính quy luật. Nguyên nhân
của mọi biến hoá là do sự giao cảm của hai mặt đối lập như âm dương, nước và
lửa, đất và trời. Chính trị-xã hội cũng theo đó mà biến đổi theo quy luật tự nhiên

đó. Tuy nhiên hạn chế của phép biện chứng này là ở chỗ coi sự biến hoá chỉ có
tính chất tuần hoàn theo chu kỳ khép kín, không có sự phát triển, không có sự
xuất hiện cái mới. Tư tưởng biện chứng trong Nho gia chủ yếu thể hiện theo
phương pháp duy tâm nhiếu hơn. Đường lối đức trị của Nho giáo từ Khổng Tử
tới Mạnh Tử lấy nhân nghĩa làm gốc, coi trọng vai trò của dân tuy đã thể hiện
được những quan điểm nhân bản khá sâu sắc. Chữ Nhân trong triết học Nho gia
được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo
đức cơ bản, quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người
từ trong gia tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức chính trị khác
như một hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán tạo thành bản săc riêng trong triết lý
nhân sinh của ông. Phép biện chứng ở đây mang tích chất tâm linh đi từ trong
con người mà ra.
21
Trong khi đó Pháp gia với những tư tưởng biện chứng khác thể hiện trên quan
điểm của hai tư tưởng biện chứng là thời biến thì pháp biến, điếu hành đất nước
theo quy luật. Hàn Phi Tử thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, khẳng định
rằng không thể có chế độ xã hội nào là không thay đổi. Do đó không thể có
khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.Do đó pháp luật cũng vậy, khi thời biến, xã hội
thay đổi thì việc mà cải biến pháp luật sao cho phù hợp với hoàn cảnh và xu thế
mới là điều tất nhiên để tồn tại theo quy luật vận động tự nhiên trong biện chứng.
Cái gì cũng có sự phát triển của vì vậy sẽ đào thải cái cũ không phù hợp nữa mà
tiếp nhận và phát huy cái mới phù hợp hơn. Với phép biện chứng duy vật Phái
pháp gia muốn nói đến quan điểm mọi sự vật đều tồn tại và phát triển theo quy
luật.
2.4. Giáo dục đạo đức
Riêng về mặt giáo dục đạo đức thì Nho gia chú trọng và phát triển nhiều hơn.
Ngay từ ban đầu Khổng Tử đã đưa việc giáo dục đạo đức là căn bản và nền tảng
của học thuyết Nho gia. Ngược lại Phái Pháp gia vì chú trọng lấy Pháp trị làm
gốc cho việc trị nước nên vấn đề giáo dục đạo đức của con người được quy về
luật pháp nhằm hạn chế bản tính ác. Với quan điểm “Nhân chi sơ, tính bản ác” có

chủ đạo dùng Pháp luật cộng hình phạt nhằm dăn đe người dân. Quan điểm về
vấn đề đạo đức chỉ dừng lại ở mức hỗ trợ cho Pháp luật và thi hành pháp luật của
phái Pháp gia mà thôi.
Còn vấn đề giáo dục đạo đức thì được coi trọng theo thuyết nhân, lễ, chính
danh của phái Nho gia.Khổng Tử là người sáng lập ra đạo Nho, ông được phong
là “Chí thánh tiên sư, Vạn thế sư biểu”, nghĩa là thầy, thánh của muôn đời, muôn
nhà.Những phạm trù cơ bản trong thuyết Đạo đức của Khổng Tử là Nhân, Lễ và
Chính danh."Nhân" thường được con người tân thời ngày nay hiểu là Mẫu Mực
Con Người hay một Ý Niệm Người do tự mình hoặc ý thức về chính mình, hoặc
do lịch sử của nhiều thời đại xây đắp nên. Các chủ thuyết nhân bản tân thời Tây
phương thường gọi ý niệm nầy là nhân loại. (= Humanité selon les humanismes
22
modernes). Còn Nho học thì sẽ gọi "nhân loại tự tôn nầy" là "bất nhân tạo bất
hòa", vì đây là ý niệm phát sinh do những kẻ không sợ trời đất gì nữa. "Nhân" nơi
Khổng Tử có nghĩa là "con người" trong tương quan với "Trời" (nét ngang ở trên)
và "Ðất" (là nét ngang ở dưới), như chữ Vương trong vương đạo.
Nhân: là lòng thương người. Người có nhân là người có đạo đức hoàn toàn.
Trung và Thứ là hai khía cạnh của Nhân: Trung là tính ngay thẳng với người,
điều mình muốn thì hãy làm cho người; Thứ là lòng vị tha, điều mình không
muốn thì đừng làm cho người. Trong đạo nhân, hiếu là gốc - hiếu không chỉ thể
hiện ở việc phụng dưỡng cha mẹ mà quan trọng nhất là lòng thành kính. Khổng
Tử nói: “Nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật”.
Lễ: là hình thức thể hiện lòng nhân. Lễ bao gồm mối quan hệ rộng lớn, từ
quan hệ thần linh đến quan hệ ứng xử giữa người với người, quan hệ đạo dức,
phong tục, tập quán, quan hệ nhà nước, luật pháp … Tuân theo lễ là một điều
kiện để thực hiện nhân đức. Người quân tử không bao giờ làm trái với lễ.
Chính danh: có nghĩa là phải bố trí người ở cương vị phù hợp với năng lực,
người ở cương vị nào thì phải xứng đáng với cương vị đó, phải làm đúng danh
phận, chức trách của mình “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Nói và làm
không được vượt chính danh.

Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, bảo không
gì thân bằng tình cha con, vậy mà có nhiều người cha sinh con trai thì nuôi, sinh
con gái thì giết đi, coi cái lợi của mình nặng hơn tình ruột thịt như vậy là con
người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không
trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật
của pháp gia để trị nước.
Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước
được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về
kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước
23
sẽ trị. Chủ trương "vô vi nhi trị" đó thực trái hẳn chủ trương của Lão Tử, Trang
Tử; chính ra nó là một thứ cực hữu vi.
3. Nhận xét
Bàn về sự tương đồng cũng như sự khác biệt giữa Nho gia và Pháp giúp ta
hiểu thêm nhiều khía cạnh, tư tưởng sâu xa của triết học Trung Quốc nói chung
và hai phái nói riêng.
Lịch sử văn hoá Nho gia gắn liền với lịch sử Trung Hoa,Việt Nam … thời Cổ,
Trung đại, nhưng bản thân văn hoá Nho gia không thuần nhất và khó hiểu. Nó có
sự tương hỗ, duyên nợ với Pháp gia một cách kỳ lạ. Những sự tiếp xúc giao lưu
đó tạo nên những phẩm chất người xưa gọi là Vương đạo, Bá đạo – tiêu chí văn
hoá trong việc chăn dắt thần dân.
Các tư tương triết học lên ngôi chiếm lĩnh vị trí trọng yếu trong chiến lược xây
dựng, vận hành của nhà nước phong kiến, trong giáo dục, trong thực tiễn ứng xử
xã hội ở mỗi thời điểm trong lịch sử triết học Trung Quốc. Thực tế xã hội, trình
độ nhận thức, sản xuất, tình trạng xung đột chiến tranh đã tác động không nhỏ
đến văn hoá Nho gia, Pháp gia, văn hoá bề mặt và văn hoá bề sâu (tầng văn hoá
tâm thức, quan niệm) và các hiện tượng hợp lưu tư tưởng khác…Nho giáo là một
nền tảng cho sự tự tu tỉnh, tự tiết độ và giữ gìn liêm sỉ, tư duy trị nước truyền
thống. Nho giáo xem đạo đức là nền tảng cho chính trị. Không phủ nhận vai trò
của pháp luật của Pháp gia trong giữ gìn trật tự xã hội, song Nho giáo hướng tới

nguồn gốc của sự bình an hơn là dùng hình luật để đe doạ hoặc trừng phạt điều
ác khi nó xảy ra. “Lễ quý ở chỗ dứt được điều ác từ lúc chưa nảy mầm để cho
dân ngày ngày gần điều thiện, xa tội lỗi, mà tự mình không biết”. Bởi vậy, lễ có
ý nghĩa giáo hoá, ngăn ngừa mầm mống bất an, còn pháp luật có ý nghĩa thống
trị, áp đặt của người cầm quyền, mang tính cấm đoán. Khổng tử nói: “Lấy chính
sự để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để thực hiện sự bình đẳng thì dân sẽ tránh
hình phạt nhưng không cảm thấy xấu hổ. Lấy đức để dẫn dắt dân, lấy lễ để thực
hiện sự bình đẳng thì dân biết xấu hổ và sẽ tốt”. Tiếc rằng, khi trở thành học
24
thuyết của người cầm quyền từ đời Hán, Nho giáo liên tục bị xuyên tạc để củng
cố quyền lực của người giữ quyền cai trị. Hán Nho dường như gạt bỏ mối qua lại
giữa người trên và người dưới, chỉ nhấn mạnh thái độ tuân thủ, phục tùng của
người dưới đối với người trên. Từ năm 140 tr. CN nhà Hán mở khoa thi, từ đó
việc học chỉ chú trọng vào mục đích thi cử, chú trọng khảo cứu câu chữ, tầm
chương trích cú mà mất đi ánh sáng tạo; Nho giáo vì thế mà dần trở thành bảo
thủ, tự mãn, chống lại đổi mới về kinh tế và chính trị. Bên cạnh những “khuôn
vàng, thước ngọc” giữ cho xã hội bình yên, Nho giáo cũng tạo ra gông cùm và
xiềng xích làm cho xã hội Việt Nam trở nên lạc hậu so với thế giới bên ngoài.
Điều trọng yếu là cần nhận diện rõ những phản động lực đó và hạn chế tác hại
của chúng, chỉ có như vậy Nho giáo mới có ích cho đời sống ngày nay.
Còn Pháp gia có vị trí hết sức quan trọng trong lịch sử triết học Trung Hoa.
Mặc dù một số triết gia Trung Hoa không có cái nhìn thiện cảm cho phái này
nhưng cũng không thể phủ nhận giá trị tư tưởng và sự đóng góp xây dựng của nó
cho triết học Trung Hoa. Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những
đóng góp to lớn cho sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho
sự nghiệp thống nhất đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng
trong bối cảnh xã hội Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của
pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được
yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư tưởng pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị
có thể vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta

hiện nay.
25

×