Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.6 KB, 31 trang )

- Trang 1 -
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


:
Đề
tài số 3
“NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA”

HVTH : Phan Lạc Đức
STT : 16
Nhóm : 02
Lớp : Cao học Đêm 1 – K20
GVHD : TS. Bùi Văn Mưa


Tp. Hồ Chí Minh, 2011

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1 U
PHẦN 2: NỘI DUNG 2
Chương I: Khái quát Nho gia và Pháp gia 2
I. Khái quát Nho gia 2
II. Khái quát Pháp gia 5
Chương II: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia 10
I. Sự tương đồng 10
II. Sự khác biệt 10


PHẦN 3: NHẬN XÉT 21
I. NHO GIA: 21
II. PHÁP GIA: 23
PHẦN BỐN: KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 1 -
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát
triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn thiện
của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Nếu Phương Đông là chiếc nôi
lớn của văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá
triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Triết học Trung Quốc
trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực
rỡ nhất, có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm
thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của
triết học Phương Đông thời đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Pháp
gia, đây là hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận
ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội…
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói
chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm
chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để
xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong
những nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải
xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự
tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về
hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư

tưởng ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội đương thời.





TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 2 -
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương I: Khái quát Nho gia và Pháp gia
I. Khái quát Nho gia
1) Lịch sử hình thành và đặc điểm
1.1 Lịch sử hình thành:
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của
Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ
thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi
ông là người sáng lập ra Nho giáo.
1.2
Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có
Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là
Ngũ kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận

ngữ
. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào
lời thầy mà soạn ra sách
Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng
Tử là Khổng Cấp, còn gọi là
Tử Tư viết ra cuốn Trung
Dung
. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng
mà sau này học trò của ông chép thành sách
Mạnh Tử. Từ
Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên
Nho giáo nguyên
thủy
, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng
giáo hay "
tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo
và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học;
còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 3 -
, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải
thực hành.
1.3
Hán Nho
, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ ĐếĐến đời Hán đưa
Nho giáo lên hàng
quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ

tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến
Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán
Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của
giai cấp thống trị,
Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
1.4
Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận
ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ
Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu
giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên
tuổi như
Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế
kỷ thứ 16
, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình").
Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với
Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ
Phật giáo) và các
yếu tố "siêu hình" (lấy từ
Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
2)
Đặc điểm của Nho gia:
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức
xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được
người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là
quân tử (quân = kẻ làm vua, quân
tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém
về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao

thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức
hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho
giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử,
 

- Trang 4 -
Nho giáo có rất nhiều điểm mâu thuẫn, nếu chưa tính đến Nho giáo các đời sau,
Nho giáo nguyên thủy chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn về nguyên tắc; ví dụ, Khổng
Tử nói "dân làm gốc" nhưng lại gọi dân là "tiểu nhân", Việc tìm ra các đặc điểm
của Nho giáo để giải thích các mâu thuẫn đó yêu cầu nghiên cứu về quá trình hình
thành Nho giáo, tức là tìm về nguồn gốc của Nho giáo. Nho giáo là sản phẩm của
hai nền văn hóa:
văn hóa du mục phương Bắc và văn hóa nông nghiệp phương
Nam. Chính vì thế nó mang đặc điểm của hai
loại hình văn hóa này.
3)
Các quan điểm của Nho gia:
Nho gia đặt vấn đề xây dựng con người một cách thiết thực. Nho gia hướng con
người vào tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất, luôn
được đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Theo nho giáo, năm mối quan hệ
mà con người phải xác định và làm tròn trách nhiệm của mình trong các quan hệ ấy
là Vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, bè bạn (Ngũ luân), trong đó ba điều chính là
vua tôi, cha con, chồng vợ (Tam cương). Trong ba điều chính có hai điều mấu chốt
là vua – tôi, biểu hiện bằng đức trung, cha – con biểu hiện bằng đức hiếu. Giữa
trung và hiếu thì trung đứng đầu. Những đức con người thường xuyên phải trau dồi
là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (Ngũ thường). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa, trong
đó nhân là chủ. Vì vậy, gọi đạo của Khổng Tử là đạo nhân.
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 


- Trang 5 -
Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia là con người phải xuất phát từ năm
mối quan hệ đó, rồi từ đó mới yêu quý rộng ra người khác. Trong hoàn cảnh xã hội,
Trung Quốc thời cổ đại, trung đại, mỗi học thuyết nêu trên đều có mặt tích cực và
hạn chế của nó. Trong đó, Nho gia đặt con người trong năm mối quan hệ với những
lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và nội dung tu dưỡng của
con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp phần củng cố trật tự xã hội, nó là
sản phẩm của xã hội và cũng là nguyên nhân trì trệ của xã hội đó.
II. Khái quát Pháp gia
1) Lịch sử hình thành và đặc điểm
lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, t
Trong
ư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất
sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và
phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng
Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị
nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có
giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
a)
Quản Trọng:
L
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
à một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu
(685 TCN). Ông nổi tiếng với "
chiến lược không đánh mà
thắng
" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là

tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng
kinh tế để giáo
huấn
. Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua việc
tiến hành rất nhiều
cải cách trong chính trị và kinh tế. Đối với
ông, người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định danh phận
cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ
 

- Trang 6 -
b)
Thương Ưởng:
Được vua Tần tin dùng áp dụng chính sách Pháp trị của
mình coi trọng hiến pháp, chủ trương "pháp trị" thay "đức
trị", sử dụng các chính sách khuyến khích dân chúng lao động,
binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại (401-337 TCN) chủ trương
dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo (370-290 TCN) chủ trương dùng thế, Ngô
Khởi (440 – 381 TCN) cho rằng muốn làm cho nước mạnh phải biết đạo nuôi quân,
trả lương hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình.
c) Hàn Phi:
à học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc
L
theo trường phái pháp
gia, Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là
Tuân Tử một cách
triệt để, cho rằng con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông
không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử,
mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp
gia để trị nước.Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh

trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc
tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm
soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị
nước không thể viện dẫn theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô
vi nhi trị” của Đạo gia như trước nữa mà phải dùng Pháp trị. Từ đó, ông đã phát
triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh
và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
2)
Các quan điểm của Pháp gia:
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
a)
Trị nước:
 

- Trang 7 -
Nội dung chủ yếu của Pháp luật, hình phạt là thưởng, phạt. Thưởng hậu thì điều
mình muốn dân làm, dân mau mắn làm. Phạt nặng thì điều mình ghét và cấm đoán
thì dân mới tránh, từ đó mới khuyến khích dân làm điều thiện, ngăn ngừa điều ác.
Theo Hàn Phi Tử thì hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được 6 hạng người: bọn hàng
giặc, sợ chết; bọn lìa xa pháp luật; bọn ăn chơi xa sỉ; bọn bạo ngược, ngạo mạn; bọn
dung thứ lũ giặc, che dấu kẻ gian và bọn nói khéo, khoe khôn, dối trá. Và khuyến
khích được 6 loại người : những người lăn mình vào chốn hiểm nghèo, dám hi sinh;
những người tuân theo pháp luật; những người dốc sức làm ăn, làm lợi cho đời;
những người trung hậu, thật thà, ngay thẳng, hiền lành; những người giết giặc trừ
gian và những người làm sáng tỏ lệnh trên.
Chủ trương xây dựng pháp luật tuân theo 4 nguyên tắc:
Nguyên tắc 1: thiên thời, địa lợi, nhân hòa;
-
Nguyên tắc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân nhắc kỹ càng;
-

-
Nguyên tắc 3: pháp luật phải soạn thảo sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành,
phải được áp dụng nhất loạt với mọi người;
-
Nguyên tắc 4: pháp luật phải công bằng, phải mang tính phổ biến. Đối
tượng tác động của pháp luật là toàn xã hội, tất cả thần dân; không phân biệt
đẳng cấp từ quan lại đến tướng lĩnh đã phạm tội thì phải chịu tội, tội nặng hay
nhẹ đều không được bỏ qua. Ông cũng đòi hỏi bậc minh chủ sai khiến bề tôi,
không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động trái pháp.

Về nông nghiệp: phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán (ức
thương), tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để
xây dựng quân đội mạnh.

Về chiến tranh: trường phái pháp gia chủ trương xây dựng quân đội
hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để
giải quyết chiến tranh.
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 8 -
• Về Thuật: thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu
lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu
người sai dùng họ như thế nào. Vua trị dân thông qua quan lại, quan lại tốt
thì dân không loạn, quan lại xấu thì dân nổi loạn. Thuật dựa trên hai nguyên
tắc, thứ nhất bề tôi tức là quan lại không làm hết trách nhiệm hay vượt quá
trách nhiệm của mình đều bị phạt; thứ hai là “Công”, “Danh”
tức là lời
nói và việc làm của quân thần không cân xứng cũng phạt. Nhờ Thuật mà
vua chọn được người tài năng, trao đúng chức vụ, quyền hạn và loại được

kẻ bất tài.

Về Thế: là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa
vào thế mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ
thực hiện pháp luật. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc
tôn, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân.
Muốn thi hành được pháp thì phải có thế, Pháp và Thế không thể tách rời
nhau.
b)
Tư tưởng biện chứng:
- Quan điểm thời biến, pháp biến thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội:
mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi
cho phù hợp. Không nên bắt chước người xưa mà phải xuất phát từ thực tế
trước mắt, không dùng lời lẽ cố nhân để biện hộ cho sự yếu kém của mình. Đại
diện Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với
mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn
thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
- Theo Hàn Phi Tử, ông thừa nhận sự tồn tại của lý-tính quy luật hay những lực
lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và
xã hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa
mà hành động cho phù hợp.
 

- Trang 9 -
- Thừa nhận bản tính con người là ác, cho rằng trong xã hội người tốt ít, còn kẻ
xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít,
mong họ làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số
đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác.
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC

 

- Trang 10 -
Chương II: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
I. Sự tương đồng
Khi so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta thấy có những
điểm tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh hưởng này:
- Đều là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử Trung Quốc cổ Đại, có giá trị lịch
sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
- Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền.
- Nhìn nhận Cấu trúc xã hội cùng những bất bình đẳng như một thực tế đã định
và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Cái giá phải trả để có sự
hòa hợp xã hội là cá nhân thuận theo xã hội.
- Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải
quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức - xã hội mà thời đại lúc bấy
giờ đã đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định
-
Cả Nho gia và Pháp gia đều cố lý giải và tìm cách giải đáp theo những yêu cầu
của thực tiễn lịch sử xã hội Trung Quốc lúc đó đặt ra hòng “cứu đời cứu người”
theo cách của mình
.
- Cả hai tư tưởng của Nho gia và Pháp gia cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ
lâm vào bế tắc". Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh - Thanh trở nên già cỗi,
khắt khe và bảo thủ, còn nhà Tần do thực hiện triệt để tư tưởng Pháp gia quá
nên cuối cùng mất nước.
II. Sự khác biệt
1. Về trị quốc
a) Nho gia:
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
- Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp,

hình phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc,
dân tình khổ sở là do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì
 

- Trang 11 -
phải giáo hoá đạo đức và thực hiện “chính danh, định phận”. Khổng Tử cho
rằng: Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng hình
phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân mà
dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và
thực lòng quy phục. Nội dung đường lối đức trị là thực hiện 3 điều: dân đông,
kinh tế phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong
công việc, gìn giữ chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức
dân hợp lý… Để xây dựng xã hội đại đồng, cần dựa vào sự nghiệp giáo dục để
uốn nắn nhân cách, bồi dưỡng đào tạo nhân tài theo hai phương châm: tiên học lễ,
hậu học văn và học đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tế. Để học tốt,
người học trò phải có tinh thần khiêm tốn và cầu tiến, biết suy tư và luôn tích cực
trong học tập…
- Khổng Tử cho rằng: Danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng thuận
thì việc không thành, việc không thành thì lễ - nhạc bất hưng, lễ - nhạc bất hưng
thì hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu vào
đâu? Người quân tử quan niệm được danh thì nói được, nói được thì làm được.
- Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng xã hội, cơ sở gia đình không phải là
những quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt
là 3 quan hệ (đạo) vua – tôi, cha – con, chồng - vợ. Khi các quan hệ này chính
danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra
vợ thì xã hội ổn định, gia đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân thu –
Chiến quốc loạn lạc, luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lõng lẽo là
do 3 quan hệ này rối loạn, do danh - thực oán trách nhau, nghĩa là, vua chẳng ra
vua, tôi chẳng ra tôi; cha chẳng ra cha, con chẳng ra con; vợ chẳng ra vợ, chồng
chẳng ra chồng. Vì vậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng

thì phải chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó, Nho gia
nguyên thủy lấy giáo dục đạo đức làm cứu cánh.
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 12 -
b) Pháp gia:
- Nếu như Nho gia đề cao đức trị thì Pháp gia đề cao "Thế" (Thận Đáo), "Thuật"
(Thân Bất Hại), "Pháp"( Thương Ưởng) trong phép trị nước và Hàn Phi Tử là
người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật"
là ba yếu tố thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp
luật.
• "Pháp": là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ.
Pháp được hiểu là qui định,
luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người
trong xã hội phải tuân theo; là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh phận,
trách nhiệm của con người trong xã hội. Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai
khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành
động trái pháp.
• "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh. Địa vị, thế lực, quyền
uy đó của người trị vì phải là độc tôn (Tôn quân quyền). Theo Hàn Phi, thế
quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi
hành được pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau.
• "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai
trị. Là mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà
không hiểu người sai dùng họ như thế nào.
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
- Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng Trung
Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và phát
triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát

triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa
được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy
nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo
của pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng
pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn
 

- Trang 13 -
"trị quốc bình thiên hạ" được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được vương
quốc Tần ra sức vận dụng và kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong
việc kết thúc cục diện phân tán cát cứ, thống nhất được đất nước Trung Hoa sau
những năm dài chiến tranh khốc liệt.
2. Khác biệt về chính trị - xã hội:
a) Nho gia:
- Khổng Tử – người sáng lập Nho gia làm hết sức để nhằm mục đích cho người
quân tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước
chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ
tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng nói:
“Bản thân mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì (người khác) cũng thi
hành; còn nếu bản thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người khác)
cũng không tuân theo”
b) Pháp gia:
- Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác.
Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà
là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hàn Phi quan niệm pháp luật là công
cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng: “Bậc thánh nhân
hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho
nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để
chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh
không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa

lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và
tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”.
c) Nhận xét
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
- Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có
một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời
 

- Trang 14 -
xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại,
Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt
nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Hàn Phi phê phán một cách gay gắt
những người hủ Nho, coi đó là “bọn học giả dốt nát ở đời không biết bản chất
của việc trị và loạn, cứ nói năng nhảm nhí và dẫn những sách của người xưa để
làm rối việc cai trị ở đời này Nếu nghe lời họ thì nguy, nếu dùng kế họ thì
loạn. Đó là điều ngu hết sức lớn và là mối lo hết sức lớn”.Then chốt của việc
xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có pháp luật, pháp luật
được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn
định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân
chúng được yên bình, hạnh phúc. Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật,
coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn
đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt
những kẻ làm trái lệnh”(10). Đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ so với đương
thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa so với cách
cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền đương thời.
Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh
phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là
cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực,
chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là
“hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của

“pháp” có thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
3. Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền
- N
ho gia: cho rằng người cầm quyền cần phải có đức tức là dùng đức trị, phải là
tấm gương cho người dưới noi theo.
- Pháp gia: cho rằng coi trọng cái tài của nhà cầm quyền.
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
4. Tư tưởng biện chứng:
 

- Trang 15 -
- Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia:
điều hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho
xã hội phát triển theo đúng hướng của nó, còn Nho gia không đề cập đến điều
này.
a) Pháp gia:
- Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải thích
hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có chế
độ xã hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
- Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của
lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch
ra cách trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp
luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo
thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì
thiên hạ loạn
b) Nho gia:
- Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người, nên
trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người,
lương tri, lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải
biết kính trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời.

- Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và
nâng cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông
vua mà thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất
biến, Đạo diệc bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay đổi).
Khổng Tử dựa vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính
danh
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 16 -
- Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu vốn
đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể
không cúi đầu trước con trời (Thiên tử).
- Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con người
một khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để chuyển
sang thần phục trước “siêu người”
- Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là do
trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù
hợp với cái Danh.
5. Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người

Sự
khác
biệt
Nho gia Pháp gia
Về
quan
niệm
đạo
đức

con
người
Nho gia thể hiện tính nhân bản sâu sắc
trong những quan niệm về đạo đức con
người. Họ xét đạo đức con người dựa
trên hệ thống các phạm trù như : nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… Với nhân và
nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo
đức Nho gia. Nhân là cách đối xử của
con người với con người, để tạo ra
người. Theo Khổng Tử, nhân đó là lòng
thương người (ái nhân), còn Mạnh Tử
cho rằng nhân đó là lòng trắc ẩn. Nghĩa
được hiểu là những gì hợp đạo lý mà
Pháp gia thừa nhận bản tính
con người là ác mà không
xem xét vấn đề đạo đức con
người dựa trên các phạm trù
đạo đức như phái Nho gia. Do
khẳng định bản tính con người
là ác nên theo họ, trong xã
hội, người tốt thì ít mà người
xấu thì nhiều. Vì vậy để xã
hội được yên bình, không thể
trông chờ vào số ít người tốt
làm việc thiện (thực hiện
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 17 -

TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
con người phải làm, bất kể điều đó có
đem lại lợi ích gì cho người thực hiện
việc làm đó hay không. Theo Nho gia
thì đạo đức là phương tiện chủ yếu để
cai trị đất nước, là điều kiện quan trọng
để hình thành và hoàn thiện con người
góp phần củng cố và duy trì trật tự xã
hội.
nhân nghĩa trị) mà phải xuất
phát từ số đông, ngăn chặn
không cho họ làm điều ác
(bằng cách thực hiện Pháp trị :
lấy pháp luật làm căn bản
trong việc cai trị đất nước, đặt
pháp luật một cách rõ ràng và
ban bố rộng rãi trong cho mọi
người cùng biết để tuân theo
nghiêm chỉnh). Vì quá nhấn
mạnh đến biện pháp trừng
phạt nặng nề, đồng thời thủ
tiêu văn hóa, giáo dục và phủ
nhận tình cảm, đạo đức con
người. …nên phái Pháp gia đã
đi ngược lại xu hướng phát
triển của văn minh nhân loại.

Về giáo
dục
con

người
Thể hiện rõ ở thuyết nhân trị : Quan
niệm nhà cầm quyền phải lấy đạo đức
mà giáo dục và cảm hóa, dẫn dắt dân
chúng chứ không phải dùng đến biện
pháp cưỡng chế và hình phạt như phái
Pháp gia.
Từ việc thừa nhận bản tính
con người là ác nên quan điểm
về giáo dục con người của
phái Pháp gia mang tính hà
khắc. Thể hiện ở thuyết Pháp
trị qua ba quan điểm Pháp,
Thế, Thuật:
Pháp được hiểu là những qui
định có tính chất khuôn mẫu
 

- Trang 18 -
mà mọi người trong xã hội
phải tuân theo.
Thế được hiểu là địa vị, thế
lực, quyền uy của người cầm
đầu chính thể. Muốn thi hành
được Pháp thì phải có Thế.
Thuật được hiểu là phương
pháp, thủ thuật, cách thức,
mưu lược điều khiển việc,
khiến người ta triệt để thực
hiện các mệnh lệnh mà không

hiểu người sai dùng họ như
thế nào. Thuật bao gồm ba
mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và
thưởng phạt.

Về xây
dựng
con
người
-Nho gia quan niệm xây dựng con người
theo chuẩn mực đạo đức, đó là tiêu
chuẩn của người quân tử : muốn trở
thành người quân tử phải tu thân. Để tu
thân phải đạt đạo (là con đường phải
theo, đó còn là quan hệ mà con người
phải biết giữ để biết ứng xử trong cuộc
sống). Ngoài đạt đạo, người quân tử
phải đạt đức, phải thể hiện được những
phẩm chất tốt đẹp trong cuộc sống, đồng
-Quan điểm của Pháp gia
trong việc xây dựng con người
trong xã hội không như Nho
gia :
+ Vua : là người cai trị không
phải chú trọng nhiều đến việc
tu thân, theo nghĩa phải sáng
suốt và am hiểu những nguyên
tắc pháp trị, và chịu khép
mình trong những nguyên tắc
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC

 

- Trang 19 -
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
thời phải biết thi, thư, lễ, nhạc. Lấy tu
thân làm gốc nhưng người quân tử phải
biết hành động tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ. Để hành động hiệu quả, người
quân tử phải thực hành đường lối nhân
trị, đó là cai trị bằng tình người, bằng sự
yêu người, coi người như bản thân
mình. Không những thế, người quân tử
còn phải chính danh (vua cho ra vua, tôi
ra tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra
chồng, vợ ra vợ).
-Với mong muốn xây dựng được một xã
hội đại đồng, Khổng Tử và các học trò
của ông đã đưa ra quan điểm về xây
dựng con người như sau:
+ Vua : mang phẩm chất của người cai
trị, phải là người quân tử, không thể là
dân võ biền mà phải là người có vốn văn
hóa toàn diện. Vua phải hiểu và thực
hành đạo đức, khi đó trên dưới sẽ hòa
mục.
+Tầng lớp nhân dân : lấy hiếu, đễ làm
gốc thì từ một nhà nhân hậu sẽ làm cho
cả nước nhân hậu. Xã hội khi ấy sẽ thái
bình và ổn định, có trật tự kỷ cương, đời
sống vật chất đầy đủ, mọi người trong

xã hội sẽ được giáo hóa.
đó. Người cai trị phải đặt ra hệ
thống luật pháp một cách rõ
ràng, ban bố rộng rãi cho mọi
người cùng biết để tuân theo.
+ Tầng lớp nhân dân : hiểu
rõ và thực thi nghiêm chỉnh
luật pháp đã định.
Hàn Phi Tử đòi hỏi vua phải
dùng Pháp như trời (nghiêm
minh, không vị nể), dùng
Thuật như quỷ (linh động,
uyển chuyển). Nghĩa là nếu
như Pháp được công bố rộng
rãi trong nhân dân, bắt buộc
họ phải tuân theo thì thuật là
cơ trí ngầm, là thủ đoạn của
vua được dấu kín. Nhờ Thuật
mà vua chọn được người tài
năng, trao đúng chức vụ
quyền hạn và loại được kẻ bất
tài.
 

- Trang 20 -
Tuy nhiên việc chỉ đơn thuần lấy giáo
dục đạo đức làm cốt yếu để xây dựng
một xã hội đại đồng như Khổng Tử
mong muốn là chưa đủ. Vì nền tảng
kinh tế của xã hội đó với chế độ công

hữu đã không còn, khi mà chế độ tư hữu
ngày càng phát triển vào thời bấy giờ.

TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 21 -
PHẦN 3: NHẬN XÉT
I. NHO GIA:
1. THỰC TẾ NGHIÊN CỨU:
- Trong việc nghiên cứu Nho giáo của ta có ý kiến khác nhau giữa hai phương
hướng tạm gọi là “học lý” và “thực tế”. Coi là “học lý” cách nghiên cứu dựa vào
kinh điển, tìm nội dung, hệ thống tư tưởng Nho gia trong kinh điển, mà kinh
điển thì ra đời ở Trung Quốc. Gọi là “thực tế” là chủ trương nghiên cứu Nho
giáo ngay ở Việt Nam, tác động đến đời sống Việt Nam; tư liệu nghiên cứu là
tác phẩm của các nhà Nho Việt Nam – tuyệt đại bộ phận là thơ ca. Nghiên cứu
Nho giáo ở Trung Quốc, nghiên cứu Nho giáo ở Việt Nam, nghiên cứu theo
kinh điển, nghiên cứu trong ảnh hưởng thực tế đều là phương hướng có thể chấp
nhận.
- Nho giáo được du nhập vào Việt Nam chứ không phải phát sinh ở Việt Nam. Ở
Việt Nam, nó không phải trải qua quá trình thai nghén, sinh thành, phát triển
từng bước liên tục, trọn vẹn theo quy luật vận động nội tại, có quan hệ ăn khớp
với hạ tầng cơ sở như ở bản địa. Nó được du nhập chậm – hay được tiếp nhận
chậm – qua nhiều đợt, có khi là ngẫu nhiên, có khi là qua lựa chọn sau khi ở bản
địa, Nho giáo đã trải qua một thời kỳ phát triển dài, từ Khổng Mạnh qua Hán
Nho, Đường Nho, Tống Nho. Khi các triều đại Lý, Trần có ý thức dùng nó phục
vụ cho vương triều thì Nho giáo từ lâu đã phát triển đến giai đoạn kinh viện,
tiên chú, đã tồn tại với cả những thể chế xã hội, những phong tục tập quán: ta
đưa Nho giáo vào là với cả những kinh điển đã được Hán Nho, Đường Nho,
Tống Nho chú giải, cùng với những quy chế học tập, thi cử, cùng với những tổ

chức thờ cúng tiên thánh, tiên hiền, tổ chức văn hội, sĩ hội, cùng với cả những
công thức biểu đạt về mặt văn học. Coi là khuôn vàng thước ngọc là tư tưởng
Nho gia với tất cả những điều kiện tồn tại như vậy. Sang Việt Nam, Nho giáo
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 22 -
tồn tại như những tín điều chỉ để học tập, noi theo, ứng dụng, không cần tranh
cãi, không cần bổ sung, phát triển. Người học phải học thuộc, nhớ kỹ, chỉ cần
nhắc qua vài ba chữ là phải nhớ ra cả trên, cả dưới. Nếu không quan niệm thứ
Nho giáo vào Việt Nam là như vậy thì đối với ta ngày nay thật khó hiểu lý do
của các biểu đạt tư tưởng bằng tích, bằng điển và càng khó hiểu mối thù truyền
kiếp của các nhà Nho Việt Nam đối với Pháp gia chẳng hạn, vì ở Việt Nam
chưa có sự đụng độ nào giữa Pháp gia và Nho gia cả.
2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU:
- Từ đời Hán ở Trung Quốc và quãng Lý Trần ở Việt Nam, cho mãi đến thế kỷ
XIX, Nho giáo được nhà nước phong kiến sử dụng làm công cụ thống trị về ý
thức tư tưởng. Cũng có khi nó không được độc tôn, phần nào thất sủng và chịu
cảnh suy đốn nhưng không khi nào thành đối tượng đấu tranh, gạt bỏ. Một học
thuyết không cần đến bộ máy và phương pháp tổ chức tín đồ và mê hoặc tôn
giáo mà vẫn giữ được sự thống trị đến hơn hai ngàn năm là một điều đáng chú
ý. Sức sống dai dẳng đó phải có lý do tất yếu, nghĩa là Nho giáo phải đáp ứng
đúng những nhu cầu của cơ sở kinh tế - xã hội thực chất của xã hội phương
Đông. Người ngoài nhìn vào hiện tượng sống lâu như vậy tưởng nó chứa đựng
một nội dung chân lý cao siêu nào đó; người trong quen với nó, thấy nó gắn bó,
là cái gì của mình; mọi hậu quả do sự trường thọ ấy gây ra đều tự nhiên, không
đáng kinh ngạc. Ai cũng tin rằng trong nó phải có cái gì đúng đắn làm cho nó
đứng vững mãi.
- Sự tồn tại lâu dài có làm cho Nho giáo biến thiên, thay đổi diện mạo: Nho giáo
thời Tiên Tần, thời Hán, thời Đường, thời Tống, thời Minh, thời Thanh có khác

nhau. Người quan tâm đến tác dụng, ảnh hưởng của nó đi tìm cái hay, cái dở
trong những hình thái đã đổi thay đó của Nho giáo. Sự tìm tòi được hướng vào
sự đổi thay cách hiểu các khái niệm, sự bổ sung những vấn đề mới vào nội
dung, sự chỉnh lý, sắp xếp các bộ phận trong hệ thống … Chúng ta cũng đã chú
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

- Trang 23 -
ý tới mối tương quan giữa các đổi thay đó, với những đổi thay về chính trị, kinh
tế, xã hội. Nhưng chúng ta chưa lưu ý tới chỗ trong từng thời khác nhau, các
giai cấp, các đẳng cấp đã sử dụng Nho giáo giải quyết những vấn đề gì, và vì
vậy đã làm đổi thay như thế nào vai trò, chức năng, vị trí của nó trong đời sống
xã hội.
II. PHÁP GIA:
- Trên thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã thu phục được các
nước còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc
Trung Hoa. Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở lại, Pháp gia
cùng hệ thống pháp trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về phương diện
này, Ngô Kinh Hùng, nhà triết học pháp luật nổi tiếng người Trung Quốc, đã
đưa ra một nhận xét tương đối xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản
thân cách làm của Pháp gia (trong đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực
đoan:
• Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các
hình phạt nghiêm khắc.
• Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng
quá máy móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử
dụng pháp luật.
• Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp
với pháp luật, hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
• Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất;

thực ra, luật pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích
khác nhau.
• Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức
lịch sử, dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử.
TIỂULUẬNTRIẾTHỌC HVTH:PHANLẠCĐỨC
 

×