Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.29 KB, 26 trang )






Đề tài số 3
!"#$%&'(
$%)
$

 *+, /0
*+,123


 45
/67  8
9: ;</=>?74@8A
$B &CD$E.F;
:G/HD./I8A44
JJ
1
Trang
MỤC LỤC 1
KLK
Quá trình đổi mới để phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước ta, đòi hỏi
đội ngũ trí thức Việt Nam phải luôn rèn luyện và khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của
mình, không ngừng đương đầu với nhiều thách thức. Tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế tài chính toàn cầu 2008 đã ảnh hưởng nhiều mặt đến nền kinh tế
nước ta và để lại nhiều hậu quả. Ngày 24/02/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Nghị quyết 11/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội.


Trong hoàn cảnh hiện tại, để đảm bảo các doanh nghiệp duy trì hoạt động,
không ngừng phát triển ổn định, yêu cầu đặt ra đối với cán bộ quản lý các cấp là
phải hết sức chú trọng hiệu quả, và thực hành tiết kiệm. Muốn làm tốt điều này,
việc phát huy nhân tố con người, thực hiện dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, sẽ là điều kiện quan trọng tạo động lực, khơi dậy tiềm năng, trí tuệ
trong bản thân từng người, góp phần đưa đất nước sớm vượt qua khó khăn, tiếp
tục phát triển nhanh và bền vững. Bên cạnh đó, là nỗ lực xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của
Chính phủ.
Từ những yêu cầu nói trên, các nhà quản trị, kể cả chúng tôi, các sinh viên
Cao học khóa 20 chuyên ngành Quản trị kinh doanh - Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí
2
Minh, cũng ngày càng chú trọng đến các quan điểm xây dựng con người, xây
dựng nhà nước pháp quyền và thuật dùng người, thông qua việc đào sâu tìm hiểu
kho tàng kiến thức và hệ thống các tư tưởng Triết học của nhân loại.
Với các kiến thức thu thập được từ bài giảng trên lớp của các Thầy - TS.
Bùi Văn Mưa và TS. Hoàng Trung; từ tài liệu đào tạo của Tiểu ban Triết học
Khoa lý luận chính trị - Trường Đại học Kinh tế Tp HCM – 2010; từ các giáo
trình của các trường Đại học khác và nguồn thông tin trên internet có liên quan,
nhóm chúng tôi chọn đề tài “Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp
gia”, với mong muốn mô tả lại các quan điểm triết học Trung Quốc liên quan đến
tư tưởng Đức trị - Nhân chính của Nho gia và tư tưởng Pháp trị của Pháp gia, so
sánh 2 trường phái này, qua góc nhìn và nhận thức của chính mình, để rồi sau đó
từ những kiến thức ban đầu này, chúng tôi sẽ tiếp tục các quá trình tìm hiểu tiếp
theo về việc kế thừa, chọn lọc, phát triển các tư tưởng có giá trị của Triết học
phương Đông trong tư tưởng Hồ Chí Minh, học hỏi và vận dụng sáng tạo trong
môi trường sống và làm việc của từng người, góp phần giải quyết các nhiệm vụ
mà công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đặt ra cho tất cả chúng ta,
những công dân Việt Nam, để đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.

Chân thành cảm ơn Thầy – TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình truyền đạt các
kiến thức nền tảng cho chúng tôi về Triết học và Lịch sử Triết học của nhân loại!
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 05 năm 2011
3
/FM.*
%%$%
I- /NDO+N2/<*D;
1. 0>/PQ/R./2/3./S3TU>TDV7
a) 0>/PQ/R./2/3./
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân
Thu, xã hội loạn lạc, /W.* Q (孔子, 551 – 479 TCN) phát
triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là
người sáng lập ra Nho giáo.
/<*DN<.*+,?.2/X,
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc.
Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ
kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là E.* Q
Y曾 子, 505 TCN - 435 TCN), dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó,
cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư, học trò của Tăng Tử,
viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Z./ Q (孟 子, 372 – 289
TCN) đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử.
Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là
4
Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ
đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học
thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học, còn Nho giáo mang tính tôn

giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo
chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
N./<
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ
phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi
là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao
quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy
"pháp trị".
[.*/<
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách
gối đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với
các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt
Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là
"Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt
của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ
Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo
quan lại và cai trị.
b) U>TDV7>X;/<*D;
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ
chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo
cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này được gọi là quân tử (quân =
kẻ làm vua, quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân",
những người thấp kém về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo
5
đức: những người cao thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là
những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được
lý giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những người cầm

quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "tự đào tạo",
phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải "hành
đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lý. Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu
thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lý vận hành
chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lý đó là những nguyên lý đạo đức do Nho gia
đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng
mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời.
Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần
phải hiểu cơ sơ triết lý của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của
nó.
[Ghi chú: nội dung Chương I- Mục I -1. tham khảo từ />2. N>O+;.TDV7>X;/<*D;
Nho gia đặt vấn đề xây dựng con người một cách thiết thực. Nho gia hướng
con người vào tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất,
luôn được đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Theo nho giáo, năm mối
quan hệ mà con người phải xác định và làm tròn trách nhiệm của mình trong các
quan hệ ấy là: vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, bè bạn (Ngũ luân), trong đó ba
điều chính là vua tôi, cha con, chồng vợ (Tam cương). Trong ba điều chính có
hai điều mấu chốt là vua – tôi, biểu hiện bằng đức trung, cha – con biểu hiện
bằng đức hiếu. Giữa trung và hiếu thì trung đứng đầu. Những đức con người
thường xuyên phải trau dồi là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (Ngũ thường). Đứng đầu
ngũ thường là nhân, nghĩa, trong đó nhân là chủ. Vì vậy, gọi đạo của Khổng Tử
là đạo nhân.
Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia là con người phải xuất phát từ
năm mối quan hệ đó, rồi từ đó mới yêu quý rộng ra người khác. Trong hoàn cảnh
xã hội, Trung Quốc thời cổ đại, trung đại, mỗi học thuyết nêu trên đều có mặt
tích cực và hạn chế của nó. Trong đó, Nho gia đặt con người trong năm mối quan
6
hệ với những lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và nội dung
tu dưỡng của con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp phần củng cố trật
tự xã hội, nó là sản phẩm của xã hội và cũng là nguyên nhân trì trệ của xã hội đó.

[Ghi chú: nội dung Chương I - Mục I -2. tham khảo từ “Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình triết
học – Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học. Nhà xuất bản
Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007”]
II- /NDO+N2/N:*D;
4 0>/PQ/R./2/3./S3TU>TDV7
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất
nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của
tư tưởng Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà
khắc để trị nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn
nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
+\.]=.* (管仲, 725 TCN - 645 TCN) là một chính trị gia, nhà quân sự
và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Ông
nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng" mà người
Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng
mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn. Quản Trọng
đã hiện đại hóa nước Tề thông qua việc tiến hành rất nhiều cải
cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông, người trị nước phải coi trọng luật,
lệnh, hình, chính. Luật là để định danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân
biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để
sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Quản Trọng được đánh giá là thủy tổ của
Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
Sang nữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được
tiếp tục phát triển. /FM.*^.* (商鞅,khoảng 390 TCN -
7
338 TCN) được vua Tần tin dùng áp dụng chính sách Pháp trị của mình coi trọng
hiến pháp, chủ trương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các chính sách khuyến

khích dân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại (401 - 337 TCN) chủ
trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo (370 - 290 TCN) chủ trương dùng
thế, Ngô Khởi (440 – 381 TCN) cho rằng muốn làm cho nước mạnh phải biết
đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình.
Cuối cùng phải kể đến 3./D Q (韓非子,khoảng 280 - 233 TCN) là học
giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường
phái Pháp gia, Hàn Phi Tử theo thuyết tính ác của thầy là
Tuân Tử một cách triệt để, cho rằng con người bẩm sinh vốn
đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không
trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng
thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.Ông chủ trương cho
dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và
ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua
chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Theo ông, thời
thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo “đạo đức”
của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi trị” của Đạo gia như trước nữa
mà phải dùng Pháp trị. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng Pháp gia
thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy
giờ.
[Ghi chú: nội dung mục I -1. tham khảo từ />2. N>O+;.TDV7>X;/N:*D;
a) ]0.F9>:/\D_`2/a:>N>,`+2[
Pháp Hình Nông Chiến Nghệ Thế
Luật Phạt Nghiệp Tranh Thuật Lực
● Về Pháp luật và Hình phạt : nội dung chủ yếu là thưởng, phạt. Thưởng
hậu thì điều mình muốn dân làm, dân mau mắn làm. Phạt nặng thì điều mình ghét
và cấm đoán thì dân mới tránh, từ đó mới khuyến khích dân làm điều thiện, ngăn
8
ngừa điều ác. Theo Hàn Phi Tử thì hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được 6 hạng
người: bọn hàng giặc, sợ chết; bọn lìa xa pháp luật; bọn ăn chơi xa sỉ; bọn bạo
ngược, ngạo mạn; bọn dung thứ lũ giặc, che dấu kẻ gian và bọn nói khéo, khoe

khôn, dối trá. Và khuyến khích được 6 loại người: những người lăn mình vào
chốn hiểm nghèo, dám hi sinh; những người tuân theo pháp luật; những người
dốc sức làm ăn, làm lợi cho đời; những người trung hậu, thật thà, ngay thẳng,
hiền lành; những người giết giặc trừ gian và những người làm sáng tỏ lệnh trên.
Chủ trương xây dựng pháp luật tuân theo 4 nguyên tắc: Nguyên tFc 1: thiên
thời, địa lợi, nhân hòa; Nguyên tFc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân
nhắc k‰ càng; Nguyên tFc 3: pháp luật phải soạn thảo sao cho dân dễ hiểu, dễ thi
hành, phải được áp dụng nhất loạt với mọi người; Nguyên tFc 4: pháp luật phải
công bằng, phải mang tính phổ biến. Đối tượng tác động của pháp luật là toàn xã
hội, tất cả thần dân; không phân biệt đẳng cấp từ quan lại đến tướng lĩnh, đã
phạm tội thì phải chịu tội, tội nặng hay nhẹ đều không được bỏ qua. Ông cũng
đòi hỏi bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn
trong pháp, không hành động trái pháp.
● Về Nông nghiệp : phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán (ức thương),
tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân
đội mạnh.
● Về Chiến tranh : trường phái Pháp gia chủ trương xây dựng quân đội
hùng mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải
quyết chiến tranh.
● Về Thuật : thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu
lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu
người sai dùng họ như thế nào. Vua trị dân thông qua quan lại, quan lại tốt thì
dân không loạn, quan lại xấu thì dân nổi loạn. Thuật dựa trên hai nguyên tắc, thứ
nhất là bề tôi tức là quan lại không làm hết trách nhiệm hay vượt quá trách nhiệm
của mình đều bị phạt; thứ hai là “Công”, “Danh”, tức là lời nói và việc làm của
quân thần không cân xứng cũng phạt. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài
năng, trao đúng chức vụ, quyền hạn và loại được kẻ bất tài.
9
● Về Thế : là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa
vào thế mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực hiện

pháp luật. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn, Thế quan
trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được
pháp thì phải có Thế, Pháp và Thế không thể tách rời nhau.
bc F2F^.*bD1.>/d.*
Quan điểm thời biến, pháp biến thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội:
mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho
phù hợp. Không nên bắt chước người xưa mà phải xuất phát từ thực tế trước mắt,
không dùng lời lẽ cố nhân để biện hộ cho sự yếu kém của mình. Hàn Phi Tử cho
rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật
mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép
trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn.
Theo Hàn Phi Tử, ông thừa nhận sự tồn tại của lý - tính quy luật hay những
lực lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và
xã hội. Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà
hành động cho phù hợp.
Thừa nhận bản tính con người là ác, cho rằng trong xã hội người tốt ít, còn
kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít,
mong họ làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông,
ngăn chặn không cho họ làm điều ác.
[Ghi chú: nội dung Chương I - Mục II tham khảo từ bài giảng Pháp gia của Thầy Hoàng Trung]
/FM.*
10
!"#$%&'($%
@ e2FM.*TG.*
Khi so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta thấy có
những điểm tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh
hưởng này:
● Thực túc = Nông nghiệp. Cả Nho gia và Pháp gia đều chú trọng phát
triển nông nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no
đủ.

● Binh cường = Chiến tranh. Cả Nho gia và Pháp gia đều coi trọng việc
xây dựng quân đội hùng mạnh.
● Tuân Tử (Nho gia) coi con người sinh ra vốn bản chất là ác = Hàn Phi
Tử cũng có cùng quan điểm (Hàn Phi Tử là học trò của Tuân Tử).
● Đều là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, có giá
trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
● Đều đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền.
● Nhìn nhận cấu trúc xã hội cùng những bất bình đẳng như một thực tế đã
định và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Cái giá phải trả để có
sự hòa hợp xã hội là cá nhân thuận theo xã hội.
● Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách
giải quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức - xã hội mà thời đại lúc
bấy giờ đã đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định.
● Cả Nho gia và Pháp gia đều cố lý giải và tìm cách giải đáp theo những
yêu cầu của thực tiễn lịch sử xã hội Trung Quốc lúc đó đặt ra hòng “cứu đời cứu
người” theo cách của mình.
● Cả hai tư tưởng của Nho gia và Pháp gia cuối cùng cũng đưa xã hội thời
bấy giờ lâm vào bế tắc. Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh - Thanh trở nên
già cỗi, khắt khe và bảo thủ, còn nhà Tần do thực hiện triệt để tư tưởng Pháp gia
quá nên cuối cùng mất nước.
[Ghi chú: nội dung Chương II - Mục I tham khảo từ bài giảng Triết học Trung Quốc và bài giảng
Pháp gia của Thầy Hoàng Trung]
11
@ e_/N>bD12
4 $f2]0O+[>
Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật
pháp, hình phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn
lạc, dân tình khổ sở là do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển
thì phải giáo hoá đạo đức và thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính danh,
định phận” là làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính

đáng của người ấy cứ thế mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự
được phân minh, “Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con”
(Luận ngữ, Nhan Uyên, 11). Khi Tử Lộ hỏi về chính trị, Khổng Tử đáp: Muốn trị
nước, trước hết phải thực hiện “chính danh”, bởi vì “nếu không chính danh thì lời
nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành sai…
Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì đúng với phận, với nghĩa, đã xưng danh
đúng với danh phận, thì phải tùy theo đó mà làm” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3).
Khổng Tử cho rằng: cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn
phép mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm
sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ
biết liêm sỉ và thực lòng quy phục. Nội dung đường lối đức trị là thực hiện 3
điều: dân đông, kinh tế phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là:
thận trọng trong công việc, gìn giữ chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương
người, sử dụng sức dân hợp lý… Để xây dựng xã hội đại đồng, cần dựa vào sự
nghiệp giáo dục để uốn nắn nhân cách, bồi dưỡng đào tạo nhân tài theo hai
phương châm: tiên học lễ, hậu học văn và học đi đôi với hành, học để vận dụng
vào thực tế. Để học tốt, người học trò phải có tinh thần khiêm tốn và cầu tiến,
biết suy tư và luôn tích cực trong học tập… Mạnh Tử chủ trương thực hành
đường lối đức trị dựa trên tinh thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh có nghĩa là, Dân quý nhất, kế đến là đất nước và lúa gạo, còn vua là cái
quý sau cùng), nhân chính và thống nhất…
Khổng Tử cho rằng: Danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng
thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ - nhạc bất hưng, lễ - nhạc bất
12
hưng thì hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu
vào đâu? Người quân tử quan niệm được danh thì nói được, nói được thì làm
được.
Theo Mạnh Tử, thì cách cai trị đất nước cũng bằng đức trị và thực hành
chính danh để xây dựng một xã hội đại đồng, … Triết lý này được trình bày
thành một hệ thống bao gồm các tư tưởng về đạo đức – chính trị – xã hội có quan

hệ chặt chẽ với nhau.
Có thể khái quát như sau: /<*D; nguyên thủy cho rằng, nền tảng xã hội,
cơ sở gia đình không phải là những quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan
hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt là 3 quan hệ (đạo) vua – tôi, cha – con, chồng -
vợ. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha,
con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ thì xã hội ổn định, gia đình yên vui; và
ngược lại. Xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc loạn lạc, luân thường đạo lý suy
đồi, kỷ cương phép nước lỏng lẽo là do 3 quan hệ này rối loạn, do danh - thực
oán trách nhau, nghĩa là, vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi; cha chẳng ra cha, con
chẳng ra con; vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra chồng. Vì vậy, muốn cải loạn
thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó.
Để chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo đức làm
cứu cánh.
Nếu như Nho gia đề cao đức trị thì /N:*D; đề cao "Thế" (Thận Đáo),
"Thuật" (Thân Bất Hại), "Pháp"( Thương Ưởng) trong phép trị nước và Hàn Phi
Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó.
Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống nhất không thể
tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó, "Pháp"
là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ. Pháp được hiểu là
qui định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân
theo; là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh phận, trách nhiệm của con người
trong xã hội. Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp,
không ban ơn trong pháp, không hành động trái pháp; "Thế" là công cụ, phương
tiện tạo nên sức mạnh. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc
13
tôn (Tôn quân quyền). Theo Hàn Phi Tử, thế quan trọng đến mức có thể thay thế
vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được pháp thì phải có thế. Pháp và thế
không tách rời nhau. còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội
dung chính sách cai trị. Là mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện
mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ như thế nào. Thuật bao gồm 3 mặt

là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
Trước hết nói về "Pháp". Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, "Pháp" là phạm trù
triết học được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là
chế độ chính trị xã hội của đất nước; theo nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật,
luật lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển
lý luận pháp trị của Pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố của các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp" [2, 346]. Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi Tử là thưởng và phạt
và ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Ông chê
Thương Ưởng chỉ biết phạt tội mà không thưởng công và cho rằng cần phải thực
hiện toàn diện cả hai mặt khuyến khích và răn đe thông qua thưởng và phạt. Bởi
vì "thưởng mà hậu thì điều mình muốn cho dân làm, dân mới mau mắn mà làm,
phạt mà nặng thì điều mình ghét và cấm đoán, dân mới mau mắn mà tránh
thưởng hậu không phải chỉ để thưởng công, mà còn để khuyến khích dân chúng
nữa, phạt mà nặng không phải chỉ là phạt một kẻ gian mà còn để ngăn kẻ bậy
trong nước " [2, 346]. Điều đáng chú ý là song song với việc "thưởng hậu, phạt
nặng" Hàn Phi Tử còn đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không cần biết đến tước vị của giới quý tộc vì
luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện
Pháp "để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh
không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít, người già được hưởng hết tuổi
đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân
nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù" [2, 347]. Với nội dung
và mục đích như trên Pháp thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh
14
phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về
một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy, Pháp trở thành cái gốc của thiên hạ.
Cùng với Pháp, Thế là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia
cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng

thi hành thì nhà vua phải có Thế. Thế trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của
người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. Thế có vị trí quan trọng đến mức
có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị
quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy Kiệt làm thiên tử chế ngự được
thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba
nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp" [2, 348]. Thế không chỉ là địa vị, quyền
hành của vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế
lịch sử). Hàn Phi Tử giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được mũi tên lên cao là nhờ
có "gió kích động", và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ
kém tài lại cai trị được thiên hạ” [3, 105]. Để nâng cao thế của nhà vua, Pháp gia
chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể
từ hành vi, lời nói đến tư tưởng "Nước của bậc minh chủ thì lệnh là cái quý nhất
của lời nói, pháp là cái thích hợp của việc làm. Lời nói không có hai cách đều
quý, việc làm không có hai cách đều thích hợp cho nên lời nói và việc làm mà
không đúng với pháp lệnh thì cấm" [3, 105]. Sau Pháp và Thế, Pháp gia rất chú ý
đến Thuật trong đường lối pháp trị. Thuật trước hết là cách thức, phương thức,
mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự
vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình
thiên hạ". "Nhiệm vụ chủ yếu của Thuật cai trị là phân biệt rõ ràng những quan
lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ,
kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai
trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế" [2, 349]. Thuật còn thể hiện
trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng
người là: Chính danh, Hình danh, Thực danh. Chẳng hạn một người hứa đến
thăm ta thì lời hứa đó là Danh còn hành động tới thăm là Hình hay Thực. Nếu
người đó đến thăm thực thì chứng tỏ "danh", "hình" (hay "danh" và "thực") hợp
15
nhau, "danh" và "thực" hợp nhau là "chính danh", còn "danh" và "thực" không
hợp nhau là trái, là không "chính danh" từ đó sẽ có căn cứ mà thưởng phạt một
cách nghiêm minh. Thuật phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh

chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi làm ra
hình. Nếu hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi người
trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có
ai dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng
việc thì vua phải biết dùng Thuật. "Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời
mà trao việc, cứ theo việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì
thưởng. Công không xứng việc thì phạt" [2, 350].
8 $f>/H./2]0@gh/iD
/W.*Q – người sáng lập Nho gia, đã làm hết sức nhằm mục đích cho
người quân tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất
nước chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính
quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng
nói: “Bản thân mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì (người khác) cũng thi
hành; còn nếu bản thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người khác)
cũng không tuân theo” (Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy
lệnh bất tòng. Luận Ngữ. Tử Lộ). Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua đều phải
như Nghiêu Thuấn – thánh hiền mang tính lý tưởng, song theo ông, tiền đề quyết
định sự thành bại trong việc trị nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì.
Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt được qua “lễ” (chế ước bản thân quay về
với điều lễ là nhân. “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”). Khổng Tử là người đặc biệt nệ
cổ, thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện của ông là làm sao để xã hội có thể trở
về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử, ông tổ phái Mặc gia, cũng rất đề cao quá khứ.
Theo ông, một trong ba tiêu chuẩn của chân lý (phép “Tam biểu”), là lời nói của
thánh nhân đời xưa, hay những gì đã từng được nói đến trong quá khứ. 3./D
Q đã phê phán một cách hết sức sFc sảo loại quan điểm này:“Khổng Tử, Mặc
Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ trương của hai người khác nhau. Họ
đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Nghiêu, Thuấn không sống lại,
16
vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc là đúng với Nghiêu, Thuấn? Đời Ân,
đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời Hạ trước đấy đã hơn hai ngàn năm

mà còn không quyết định được cái đúng của đạo Nho và đạo Mặc. Nay lại muốn
nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách đây đã ba ngàn năm, chẳng phải là
không thể nào làm được sao? Nếu như không tham nghiệm được mà lại quyết
định ngay thì đó là ngu. Nếu không thể quyết định được mà lại theo ngay thì đó
là dối trá. Cho nên chuyện nêu cao các tiên vương, quyết định theo Nghiêu và
Thuấn nếu như không phải là ngu thì cũng là dối trá vậy. Cái học ngu và dối trá,
cái hành động bác tạp và trái pháp luật này vị vua sáng không theo” [1, 561]. Các
nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính
phổ quát nhất định, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói
chung và Hàn Phi Tử nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị
luôn muốn tự khoác lên mình.
Hàn Phi Tử quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao
người khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó
ra sao, mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng và
Tề Hoàn Công thường được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng này. Các
nhà Nho tôn quân, Hàn Phi Tử cũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu
khác. Ông viết: “Bọn nhà Nho đời nay nói với nhà vua lại không nói đến cái làm
cho đời nay được trị mà nói đến công lao trị an ngày xưa, không hiểu rõ công
việc phép quan, không xét k‰ cái tình hình của bọn gian tà, mà đều nói đến
những chuyện truyền lại từ thời thượng cổ, ca ngợi công lao của các tiên vương.
Bọn nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo: ‘Nghe lời nói của ta thì có thể làm bá vương’.
Loại người nói như vậy cũng như bọn thày cúng, đồng cốt, vị vua có pháp độ
không nghe. Cho nên vị vua sáng nêu lên những việc có thực, bỏ cái vô dụng,
không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả”[4, 570].
Hàn Phi Tử quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa
bình, ổn định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và
trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật
đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ
17
cái họa trong thiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông

không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được
trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ
gìn cho nhau”[4, 130].
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi Tử đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi
ông có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng-Mạnh mượn
đời xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện
tại, Hàn Phi Tử cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều
được bắt nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió
bàn việc chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu
quả thực tế: “Trẻ con đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy
gỗ làm thịt. Nhưng chiều đến, thế nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh
bùn có thể đùa để chơi, nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền
tụng từ thượng cổ, hùng biện mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của
các tiên vương mà không biết sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể
dùng để đùa chơi chứ không dùng để trị nước” [4, 327].
Hàn Phi Tử phê phán một cách gay gắt những người hủ Nho, coi đó là “bọn
học giả dốt nát ở đời không biết bản chất của việc trị và loạn, cứ nói năng nhảm
nhí và dẫn những sách của người xưa để làm rối việc cai trị ở đời này Nếu nghe
lời họ thì nguy, nếu dùng kế họ thì loạn. Đó là điều ngu hết sức lớn và là mối lo
hết sức lớn” [4, 129].
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật.
Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội
mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu
mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không
có nước nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những
người thi hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành
pháp luật yếu thì nước yếu” [1, 55], Hàn Phi Tử đã đề xuất tư tưởng “trị nước
bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ trương “luật pháp không phân biệt sang
hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng
18

không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu).
Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận
pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”,
“thuật” với “thế”.
Hàn Phi Tử hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh
ban bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho
những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh” [1, 478-479].
Đây là một tư tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban
bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các
cá nhân quý tộc nắm quyền đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm
họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho
hành vi của mọi người, chứ không phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh
bạch là phương thức phòng bị tích cực, chứ không phải là một thủ đoạn chế tài
tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị
thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp” có thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là
“thưởng” và “phạt”.
[Ghi chú: nội dung Chương II - Mục II-2. tham khảo từ ]
j $f2[>/k2>X;./3>l7O+,f.
/<*D; nói rằng người cầm quyền cần phải có đức tức là dùng đức trị, phải
là tấm gương cho người dưới noi theo.
/N:*D; coi trọng cái tài của nhà cầm quyền.
m $f2F2F^.*bD1.>/d.*
Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia
quan niệm điều hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức
là làm cho xã hội phát triển theo đúng hướng của nó, còn Nho gia không đề cập
đến điều này
/N:*D;: quan điểm thời biến
19
Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải
thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có

chế độ xã hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của
lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch
ra cách trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp
luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo
thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì
thiên hạ loạn
/<*D;: quan điểm bất biến
Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người,
nên trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người,
lương tri, lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải
biết kính trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời.
Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và
nâng cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông
vua mà thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất
biến, Đạo diệc bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay đổi).
Khổng Tử dựa vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính
danh
Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu
vốn đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không
thể không cúi đầu trước con trời (Thiên tử)
Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con
người một khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để
chuyển sang thần phục trước “siêu người”
Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là
do trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù
hợp với cái Danh.
n $f*DN<op>ITZ<Td>Igq,oe.*><..*FrD
20
;c $fO+;..D17TZ<Td>><..*FrD

/<*D; thể hiện tính nhân bản sâu sắc trong những quan niệm về đạo đức
con người. Họ xét đạo đức con người dựa trên hệ thống các phạm trù như : nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… Với nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức
Nho gia. Nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người. Theo
Khổng Tử, nhân đó là lòng thương người (ái nhân), còn Mạnh Tử cho rằng nhân
đó là lòng trắc ẩn. Nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải
làm, bất kể điều đó có đem lại lợi ích gì cho người thực hiện việc làm đó hay
không [5, 59-60]. Theo Nho gia thì đạo đức là phương tiện chủ yếu để cai trị đất
nước, là điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần
củng cố và duy trì trật tự xã hội [5, 64].
/N:*D; thừa nhận bản tính con người là ác mà không xem xét vấn đề đạo
đức con người dựa trên các phạm trù đạo đức như phái Nho gia. Do khẳng định
bản tính con người là ác nên theo họ, trong xã hội, người tốt thì ít mà người xấu
thì nhiều. Vì vậy để xã hội được yên bình, không thể trông chờ vào số ít người
tốt làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị) mà phải xuất phát từ số đông, ngăn
chặn không cho họ làm điều ác (bằng cách thực hiện Pháp trị : lấy pháp luật làm
căn bản trong việc cai trị đất nước, đặt pháp luật một cách rõ ràng và ban bố rộng
rãi trong cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh). Vì quá nhấn mạnh
đến biện pháp trừng phạt nặng nề, đồng thời thủ tiêu văn hóa, giáo dục và phủ
nhận tình cảm, đạo đức con người. …nên phái Pháp gia đã đi ngược lại xu hướng
phát triển của văn minh nhân loại [5, 75-76].
bc $f*DN<op>><..*FrD
/<*D; thể hiện rõ ở thuyết nhân trị: quan niệm nhà cầm quyền phải lấy
đạo đức mà giáo dục và cảm hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng đến
biện pháp cưỡng chế và hình phạt như phái Pháp gia [5, 64].
/N:*D; từ việc thừa nhận bản tính con người là ác nên quan điểm về giáo
dục con người của phái Pháp gia mang tính hà khắc. Thể hiện ở thuyết Pháp trị
qua ba quan điểm Pháp, Thế, Thuật:
21
Pháp được hiểu là những qui định có tính chất khuôn mẫu mà mọi người

trong xã hội phải tuân theo.
Thế được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể.
Muốn thi hành được Pháp thì phải có Thế.
Thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược điều khiển
việc, khiến người ta triệt để thực hiện các mệnh lệnh mà không hiểu người sai
dùng họ như thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng
phạt [5, 75].
>c $fgq,oe.*><..*FrD
/<*D; quan niệm xây dựng con người theo chuẩn mực đạo đức, đó là tiêu
chuẩn của người quân tử : muốn trở thành người quân tử phải tu thân. Để tu thân
phải đạt đạo (là con đường phải theo, đó còn là quan hệ mà con người phải biết
giữ để biết ứng xử trong cuộc sống). Ngoài đạt đạo, người quân tử phải đạt đức,
phải thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp trong cuộc sống, đồng thời phải biết
thi, thư, lễ, nhạc [5, 63]. Lấy tu thân làm gốc nhưng người quân tử phải biết hành
động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Để hành động hiệu quả, người quân tử phải
thực hành đường lối nhân trị, đó là cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người, coi
người như bản thân mình. Không những thế, người quân tử còn phải chính danh
(vua cho ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ).
Với mong muốn xây dựng được một xã hội đại đồng, Khổng Tử và các học
trò của ông đã đưa ra quan điểm về xây dựng con người như sau:
- Vua : mang phẩm chất của người cai trị, phải là người quân tử, không thể
là dân võ biền mà phải là người có vốn văn hóa toàn diện. Vua phải hiểu và thực
hành đạo đức, khi đó trên dưới sẽ hòa mục.
- Tầng lớp nhân dân : lấy hiếu, đễ làm gốc thì từ một nhà nhân hậu sẽ làm
cho cả nước nhân hậu. Xã hội khi ấy sẽ thái bình và ổn định, có trật tự kỷ cương,
đời sống vật chất đầy đủ, mọi người trong xã hội sẽ được giáo hóa.
Tuy nhiên việc chỉ đơn thuần lấy giáo dục đạo đức làm cốt yếu để xây dựng
một xã hội đại đồng như Khổng Tử mong muốn là chưa đủ. Vì nền tảng kinh tế
22
của xã hội đó với chế độ công hữu đã không còn, khi mà chế độ tư hữu ngày

càng phát triển vào thời bấy giờ [5, 64].
/N:*D; quan niệm việc xây dựng con người trong xã hội không như Nho
gia :
- Vua : là người cai trị không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân, theo
nghĩa phải sáng suốt và am hiểu những nguyên tắc pháp trị, và chịu khép mình
trong những nguyên tắc đó. Người cai trị phải đặt ra hệ thống luật pháp một cách
rõ ràng, ban bố rộng rãi cho mọi người cùng biết để tuân theo.
- Tầng lớp nhân dân : hiểu rõ và thực thi nghiêm chỉnh luật pháp đã định.
Hàn Phi Tử đòi hỏi vua phải dùng Pháp như trời (nghiêm minh, không vị
nể), dùng Thuật như quỷ (linh động, uyển chuyển). Nghĩa là nếu như Pháp được
công bố rộng rãi trong nhân dân, bắt buộc họ phải tuân theo thì thuật là cơ trí
ngầm, là thủ đoạn của vua được dấu kín. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài
năng, trao đúng chức vụ quyền hạn và loại được kẻ bất tài [5, 75-76].
@ /s.gt2
Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo, với quan điểm dùng đạo đức để cai
trị, còn gọi là đường lối Đức trị. Đường lối này sau đó đã được Mạnh Tử kế thừa
và phát triển tương đối hoàn chỉnh, trở thành đường lối Nhân chính. Học thuyết
Đức trị của Nho gia đã tồn tại trong các xã hội phong kiến Châu Á với hơn hai
nghìn năm lịch sử. Với chủ trương coi trọng đạo đức, coi việc hoàn thiện nhân
cách đạo đức của mỗi người là điều kiện để xây dựng và hoàn thiện xã hội lý
tưởng, Nho gia đã góp phần tạo dựng cho con người lối sống có trách nhiệm với
gia đình, đất nước, với chính mình và đặc biệt coi trọng trật tự, kỷ cương, một lối
sống mà "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất",
nhờ đó tạo ra một cộng đồng xã hội có tôn ti trật tự, hòa mục từ trong gia đình
đến Nhà nước. Học thuyết Đức trị chứa đựng hầu hết các giá trị tinh hoa của Nho
gia và ngày nay vẫn rất cần được chúng ta tiếp tục nghiên cứu sâu hơn nữa để
khám phá thêm nhiều bài học bổ ích.
Tư tưởng Pháp trị hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng triết học Trung
Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và phát
23

triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng Pháp trị phải phát
triển lên một trình độ mới, trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được
phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau tạo thành học thuyết Pháp trị. Hàn
Phi Tử đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp
gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị
thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc
bình thiên hạ" được. Học thuyết Pháp trị của Pháp gia đã được vương quốc Tần
ra sức vận dụng và kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc
cục diện phân tán cát cứ, thống nhất được đất nước Trung Hoa sau những năm
dài chiến tranh khốc liệt. Mặc dù học thuyết Pháp trị của Pháp gia đã để lại nhiều
bài học về “phép làm vua” và “thuật trị nước”, tuy nhiên, pháp luật mà Hàn Phi
Tử đề cập là thứ pháp luật hà khắc, tàn bạo, khác xa với pháp luật ngày nay ở chỗ
con người phải vì pháp luật, chứ pháp luật không vì con người; hơn nữa, pháp
luật dù ở vị trí thượng tôn, trên muôn dân, nhưng lại dưới một người, đó là Vua,
đây cũng chính là hạn chế của học thuyết Pháp trị.
[Ghi chú: nội dung Chương II- Mục III- được phát biểu trên cơ sở tổng hợp ý chính từ các nguồn
tài liệu tham khảo]

Tuy mỗi trường phái Nho gia hay Pháp gia đều có những hạn chế riêng,
nhưng các nhà tư tưởng thuộc 2 trường phái này đã để lại cho lịch sử Triết học
Trung Quốc cổ đại, Triết học phương Đông nói riêng và Triết học thế giới nói
chung, nhiều quan điểm tư tưởng có giá trị trong việc xây dựng nhà nước, xây
dựng con người, các biện pháp để ổn định chính trị và trật tự xã hội. Các quan
điểm này cho đến ngày nay vẫn còn tiếp tục được nghiên cứu, kế thừa và vận
dụng trong nhiều quốc gia châu Á.
Đối với Việt Nam, PGS. TS Bùi Đình Phong - Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, đã có một bài viết về “Sự thống nhất giữa "Đức trị" với "Pháp trị"
trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, được đăng trên nhiều trang web, cho thấy việc
24
thống nhất 2 đường lối này trong tư tưởng Hồ Chí Minh “có nguồn gốc sâu xa từ

truyền thống văn hóa phương Đông và từ tấm gương trị nước của các vị vua chúa
hiền minh trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên, vượt lên tất cả những vị vua đức độ
và kẻ sĩ hiền tài, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Hồ Chí Minh đã thực thi triệt
để vấn đề “đức trị” với “pháp trị” trên cơ sở cách mạng, khoa học và nhân nghĩa,
nói đi đôi với làm vì hạnh phúc của nhân dân”.
Học hỏi tấm gương đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh, việc tìm hiểu không
chỉ hai trường phái Triết học Trung Quốc nói trên, sẽ là bước khởi đầu giúp
chúng tôi, những nhà quản trị hiện tại và tương lai, những người mong muốn kế
thừa có chọn lọc các quan điểm tư tưởng triết học vẫn còn nguyên giá trị trong xã
hội hiện đại, vận dụng sáng tạo thông qua việc kết hợp các kiến thức quản trị xưa
và nay, phương Đông và phương Tây trong điều kiện toàn cầu hóa về kinh tế
hiện nay. Do khả năng tư duy về triết học có hạn, việc trình bày của nhóm và cá
nhân tôi có thể vẫn chưa đầy đủ và còn nhiều hạn chế, nhưng với mong muốn
chân thành, cùng với nhiệt tình truyền đạt, chia sẻ kiến thức của các Thầy – TS.
Bùi Văn Mưa và TS. Hoàng Trung, đã tích lũy được trong suốt quá trình nhiều
năm nghiên cứu và giảng dạy, hy vọng những mong ước của chúng tôi sẽ trở
thành hiện thực.
'
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo trình triết học – Dùng cho học viên cao học
và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học. Nhà xuất bản Lý
luận chính trị, Hà Nội, 2007.
2. Doãn Chính (chủ biên). Đại cương triết học Trung Quốc. NXB Chính trị
quốc gia Hà Nội, 1997.
3. Nguyễn Đăng Thục. Lịch sử triết học phương Đông, Tập I. Nhà xuất bản Tp
Hồ Chí Minh,1991.
4. Phan Ngọc (dịch). Hàn Phi Tử. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2001.
5. Bùi Văn Mưa (chủ biên). Triết học phần I - Đại cương về lịch sử triết học.
Trường Đại học Kinh tế Tp Hồ Chí Minh, 2010.
25

×