Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.85 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề t
ài số 3 :
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
NHO GIA VÀ PHÁP GIA
SVTH : Dương Phúc Hải
STT : 23
NHÓM : 2
L
ỚP : Cao học Đêm 1 – K20
GVHD : TS.
Bùi Văn Mưa
Tp. Hồ Chí Minh, 2011
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
B. PH
ẦN NỘI DUNG 2
Chương 1 : KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA 2
1.1 Khái quát Nho gia 2
1.1.1 L
ịch sử hình thành và đặc điểm 2
1.1.2
Các quan điểm của Nho gia 4
1.2 Khái quát Pháp gia 4
1.2.1 L


ịch sử hình thành và đặc điểm 4
1.2.2
Các quan điểm của Pháp gia 6
Chương 2 : SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP
GIA 8
2.1 S
ự tương đồng 8
2.2 S
ự khác biệt 9
2.2.1 V
ề trị quốc 9
2.2.2 V
ề chính trị - xã hội 14
2.2.3
Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền 17
2.2.4
Tư tưởng biện chứng 17
2.2.5 V
ề giáo dục, đạo đức, xây dựng con người 18
2.3 Nh
ận xét 23
Chương 3: KẾT LUẬN 24
PH
Ụ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
1

A. PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn
thi
ện của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Nếu Phương Đông là chiếc
nôi lớn của văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn
hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Triết học Trung
Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển
rực rỡ nhất, có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm
thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của
triết học Phương Đông thời đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Pháp
gia, đây là hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận
ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội…
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói
chung, sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm
chung, dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong
những nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải
xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự
tương đồ
ng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về
hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư
tưởng ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế x
ã hội đương thời.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em
hoàn thành bài viết này!
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
2

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA
1.1 Khái quát Nho gia
1.1.1 L
ịch sử hình thành và đặc điểm
1.1.1.1 Lịch sử hình thành:
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ
thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi
ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh.
Sau khi Kh
ổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận
ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào
l
ời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp,
còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra
các tư tưởng m
à sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử
đến Mạnh Tử h
ình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần
(trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành
hai khái ni
ệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó
còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu
trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều

mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
3
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán
Nho
. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của
giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối
đầu giường của các nh
à Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các
tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế
kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình").
Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với
Nho giáo trước đó l
à việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu
tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
1.1.1.2 Đặc điểm của Nho gia:
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức
xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được
người cai trị kiểu mẫu
- người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân

t
ử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém
về điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao
thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân"
là những người thiếu đạo đức
hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho
giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử,
con người ta trước hết phải "tự đ
ào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người
quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho
gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao
chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những
nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần
phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
4
trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được
gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát
triển và tồn tại của nó.
1.1.2 Các quan điểm của Nho gia:
Nho gia đặt vấn đề xây dựng con người một cách thiết thực. Nho gia hướng
con người v
ào tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất,
luôn được đặt v
ào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Theo nho giáo, năm mối quan
hệ mà con người phải xác định và làm tròn trách nhiệm của mình trong các quan hệ
ấy l

à Vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, bè bạn (Ngũ luân), trong đó ba điều chính
là vua tôi, cha con, chồng vợ (Tam cương). Trong ba điều chính có hai điều mấu
chốt là vua – tôi, biểu hiện bằng đức trung, cha – con biểu hiện bằng đức hiếu. Giữa
trung và hiếu thì trung đứng đầu. Những đức con người thường xuyên phải trau dồi
là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (Ngũ thường). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa, trong
đó nhân là chủ. V
ì vậy, gọi đạo của Khổng Tử là đạo nhân.
Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia là con người phải xuất phát từ năm
mối quan hệ đó, rồi từ đó mới yêu quý rộng ra người khác. Trong hoàn cảnh xã hội,
Trung Quốc thời cổ đại, trung đại, mỗi học thuyết nêu trên đều có mặt tích cực và
h
ạn chế của nó. Trong đó, Nho gia đặt con người trong năm mối quan hệ với những
lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và nội dung tu dưỡng của
con người l
à có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp phần củng cố trật tự xã hội, nó là
s
ản phẩm của xã hội và cũng là nguyên nhân trì trệ của xã hội đó.
1.2 Khái quát Pháp gia
1.2.1 L
ịch sử hình thành và đặc điểm
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước
và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng
Pháp gia là đề cao vai
trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
5

nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có
giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
H
ọc thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời
kỳ bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được ho
àn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Quản Trọng (chữ Hán: 管仲) là một chính trị gia, nhà quân
s
ự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Ông
n
ổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng" mà người Trung
Hoa g
ọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng
ph
ạt và dùng kinh tế để giáo huấn. Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua
vi
ệc tiến hành rất nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông, người trị
nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định danh phận cho mỗi
người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái
lu
ật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Quản Trọng được
đánh giá là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp
gia.
Sang n
ữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp
tục phát triển. Thương Ưởng (商鞅 - khoảng 390 - 338 TCN) được
vua T
ần tin dùng áp dụng chính sách Pháp trị của mình coi trọng
hi

ến pháp, chủ trương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các chính
sách khuy
ến khích dân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại (401 - 337
TCN)
chủ trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo (370 - 290 TCN) chủ trương
dùng thế, Ngô Khởi (440 - 381 TCN) cho rằng muốn làm cho nước mạnh phải biết
đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình.
Cu
ối cùng phải kể đến Hàn Phi (韓非 - khoảng 280 - 233 TCN) là học giả nổi
tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp gia, Hàn Phi theo
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
6
thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, cho rằng con
người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa,
cũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế,
dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.Ông chủ trương cho
dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông
tin r
ằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần
làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh
đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm
ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi trị” của Đạo gia như trước nữa mà phải dùng Pháp trị.
T
ừ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị
nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
1.2.2 Các quan điểm của Pháp gia:
1.2.2.1

Trị nước phải kết hợp các yếu tố:
Pháp Hình Nông Chiến Nghệ Thế
Luật Phạt Nghiệp Tranh Thuật Lực
N
ội dung chủ yếu của Pháp luật, hình phạt là thưởng, phạt. Thưởng hậu thì
điều mình muốn dân làm, dân mau mắn làm. Phạt nặng thì điều mình ghét và cấm
đoán thì dân mới tránh, từ đó mới khuyến khích dân làm điều thiện, ngăn ngừa điều
ác. Theo Hàn Phi Tử thì hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được 6 hạng người: bọn
hàng giặc, sợ chết; bọn lìa xa pháp luật; bọn ăn chơi xa sỉ; bọn bạo ngược, ngạo
mạn; bọn dung thứ lũ giặc, che dấu kẻ gian và bọn nói khéo, khoe khôn, dối trá. Và
khuyến khích được 6 loại người : những người lăn mình vào chốn hiểm nghèo, dám
hi sinh; nh
ững người tuân theo pháp luật; những người dốc sức làm ăn, làm lợi cho
đời; những người trung hậu, thật thà, ngay thẳng, hiền lành; những người giết giặc
tr
ừ gian và những người làm sáng tỏ lệnh trên.
1.2.2.2 Tư tưởng biện chứng:
Quan điểm thời biến, pháp biến thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội:
mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
7
hợp. Không nên bắt chước người xưa mà phải xuất phát từ thực tế trước mắt, không
dùng lời lẽ cố nhân để biện hộ cho sự yếu kém của mình. Đại diện Hàn Phi Tử cho
r
ằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà
biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân
không thay đổi thì thiên hạ loạn.

Theo
Hàn Phi Tử, ông thừa nhận sự tồn tại của lý-tính quy luật hay những lực
l
ượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội.
Ông yêu c
ầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động
cho
phù hợp.
Th
ừa nhận bản tính con người là ác, cho rằng trong xã hội người tốt ít, còn kẻ
xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ

m việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn
không cho
họ làm điều ác.
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
8
Chương 2:
S
Ự TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA
2.1 S
ự tương đồng
Khi so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta thấy có
những điểm tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh hưởng
này:
- Th
ực túc = Nông nghiệp

- Binh cường = Chiến tranh
>>> Hướng đến sự thái b
ình, nhằm mục đích ổn định đất nước.
- Tuân Tử (nho gia) coi con người sinh ra vốn bản chất là ác = Hàn Phi Tử cũng có
cùng quan điểm (H
àn Phi Tử là học trò của Tuân Tử).
- Đều là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử Trung Quốc cổ Đại, có giá trị lịch sử
lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
-
Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền.
- Nhìn nhận Cấu trúc xã hội cùng những bất bình đẳng như một thực tế đã định và
cho phép chúng quy
ết định điều cá nhân nên làm. Cái giá phải trả để có sự hòa hợp
xã hội là cá nhân thuận theo xã hội.
- Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải quyết
cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức - xã hội mà thời đại lúc bấy giờ đã
đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định.
- Cả Nho gia và Pháp gia đều cố lý giải và tìm cách giải đáp theo những yêu cầu của
th
ực tiễn lịch sử xã hội Trung Quốc lúc đó đặt ra hòng “cứu đời cứu người” theo
cách của mình.
- C
ả hai tư tưởng của Nho gia và Pháp gia cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ
lâm vào bế tắc". Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh - Thanh trở nên già cỗi,
khắt khe và bảo thủ, còn nhà Tần do thực hiện triệt để tư tưởng Pháp gia quá nên
cu
ối cùng mất nước >>>Hướng đến mục đích ổn định XH.
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học

DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
9
2.2 Sự khác biệt
2.2.1 Về trị quốc
Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp,
hình phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân
tình khổ sở là do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải
giáo hoá đạo đức v
à thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính danh, định phận” là
làm m
ọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người
ấy cứ thế mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự được phân minh,
“Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (Luận ngữ, Nhan
Uyên, 11). Khi Tử Lộ hỏi về chính trị, Khổng Tử đáp: Muốn trị nước, trước hết phải
thực hiện “chính danh”, bởi vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn,
lời nói không đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng
danh thì đúng với phận, với nghĩa, đã xưng danh đúng với danh phận, thì phải tùy
theo đó mà làm” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3).
Khổng Tử cho rằng: Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép
mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị
dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ th
ì dân sẽ biết liêm sỉ và
th
ực lòng quy phục. Nội dung đường lối đức trị là thực hiện 3 điều: dân đông, kinh tế
phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong công việc,
gìn giữ chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức dân hợp lý… Để
xây dựng xã hội đại đồng, cần dựa vào sự nghiệp giáo dục để uốn nắn nhân cách, bồi
dưỡng đ
ào tạo nhân tài theo hai phương châm: tiên học lễ, hậu học văn và học đi đôi
với hành, học để vận dụng vào thực tế. Để học tốt, người học trò phải có tinh thần

khiêm tốn và cầu tiến, biết suy tư và luôn tích cực trong học tập… Mạnh Tử chủ
trương thực hành đường lối đức trị
dựa trên tinh thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc thứ
chi, quân vi khinh có nghĩa là, Dân quý nhất, kế đến là đất nước và lúa gạo, còn vua
là cái quý sau cùng), nhân chính và th
ống nhất…
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
10
Khổng Tử cho rằng: Danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng
thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ - nhạc bất hưng, lễ - nhạc bất
hưng th
ì hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu vào
đâu? Người quân tử quan niệm được danh thì nói được, nói được thì làm được.
Theo Mạnh Tử thì cách cai trị đất nước bằng đức trị và thực hành chính danh
để xây dựng một xã hội đại đồng,… Triết lý này được trình bày thành một hệ thống
bao gồm các tư tưởng về đạo đức – chính trị – xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Có thể khái quát như sau:
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng xã hội, cơ sở gia đình không phải là
nh
ững quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt là
3 quan h
ệ (đạo) vua – tôi, cha – con, chồng - vợ. Khi các quan hệ này chính danh,
ngh
ĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ thì
xã h
ội ổn định, gia đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc
lo

ạn lạc, luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lõng lẽo là do 3 quan hệ
này rối loạn, do danh - thực oán trách nhau, nghĩa là, vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra
tôi; cha ch
ẳng ra cha, con chẳng ra con; vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra chồng. Vì
v
ậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại
3 quan h
ệ đó. Để chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo
đức làm cứu cánh.
N
ếu như Nho gia đề cao đức trị thì Pháp gia đề cao "Thế" (Thận Đáo),
"Thuật" (Thân Bất Hại), "Pháp"( Thương Ưởng) trong phép trị nước và Hàn Phi Tử
là người đầ
u tiên coi trọng cả ba yếu tố đó.
Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống nhất không thể tách
r
ời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó, "Pháp" là nội
dung trong chính sách cai tr
ị được thể hiện bằng luật lệ. Pháp được hiểu là qui định,
lu
ật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân theo; là tiêu
chu
ẩn khách quan để định rõ danh phận, trách nhiệm của con người trong xã hội.
Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
11
trong pháp, không hành động trái pháp; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức

m
ạnh. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn (Tôn quân
quy
ền). Theo Hàn Phi, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền
nhân. Mu
ốn thi hành được pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau.
còn "Thu
ật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Là
mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu
người sai dùng họ như thế nào. Thuật bao gồm 3 mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và
thưởng phạt. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương. Trước hết nói về "Pháp".
Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, "Pháp" là phạm trù triết học được hiểu theo hai
ngh
ĩa: Theo nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất
nước; theo nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính
nguyên t
ắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển lý luận pháp trị của pháp gia thời
trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng hay
ph
ạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật, phạt kẻ
phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn
Phi là thưởng và phạt và ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính
quy
ền. Ông chê Thương Ưởng chỉ biết phạt tội mà không thưởng công và cho rằng
c
ần phải thực hiện toàn diện cả hai mặt khuyến khích và răn đe thông qua thưởng và
ph
ạt. Bởi vì "thưởng mà hậu thì điều mình muốn cho dân làm, dân mới mau mắn mà
làm, ph
ạt mà nặng thì điều mình ghét và cấm đoán, dân mới mau mắn mà tránh

thưởng hậu không phải chỉ để thưởng công, mà còn để khuyến khích dân chúng nữa,
ph
ạt mà nặng không phải chỉ là phạt một kẻ gian mà còn để ngăn kẻ bậy trong nước
"
. Điều đáng chú ý là song song với việc "thưởng hậu, phạt nặng" Hàn Phi còn đưa
ra chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Ông cho rằng sự trừng phạt
không c
ần biết đến tước vị của giới quý tộc vì luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội
dung thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện "Pháp" "để cứu loạn cho dân chúng, trừ
họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám
số ít, người già được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
12
không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị
cầm tù". Với nội dung và mục đích như trên "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan
để phân định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn
s
ự đều qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của
thiên h
ạ.
Cùng v
ới "Pháp", "Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp
gia cho r
ằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng
thi hành thì nhà vua ph
ải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của
người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đến mức có

th
ể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền
th
ế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy Kiệt làm thiên tử chế ngự được thiên hạ
không phải vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không
ph
ải vì hiền mà vì địa vị thấp". "Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà
còn là s
ức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Hàn Phi giải
thích: "Cái ná y
ếu lại bắn được mũi tên lên cao là nhờ có "gió kích động", và nếu
không có s
ự trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên
h
ạ”. Để nâng cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ
đề
u phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng "Nước của
b
ậc minh chủ thì lệnh là cái quý nhất của lời nói, pháp là cái thích hợp của việc làm.
L
ời nói không có hai cách đều quý, việc làm không có hai cách đều thích hợp cho
nên l
ời nói và việc làm mà không đúng với pháp lệnh thì cấm". Sau "Pháp" và
"Th
ế", pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đường lối pháp trị. "Thuật" trước hết là
cách th
ức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người, dùng người,
giao vi
ệc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện và nhà vua
có th

ể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ chủ yếu của "Thuật" cai trị là phân biệt rõ
ràng nh
ững quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử
năng lự
c của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng
cườ
ng bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế". "Thuật"
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
13
còn thể hiện trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật
dùng người là: "Chính danh", "Hình danh", "Thực danh". Chẳng hạn một người hứa
đến thăm ta thì lời hứa đó là "Danh" còn hành động tới thăm là "Hình" hay "Thực"
v
ậy. Nếu người đó đến thăm thực thì chứng tỏ "danh", "hình" (hay "danh" và "thực")
h
ợp nhau, "danh" và "thực" hợp nhau là "chính danh", còn "danh" và "thực" không
h
ợp nhau là trái, là không "chính danh" từ đó sẽ có căn cứ mà thưởng phạt một cách
nghiêm minh. "Thu
ật" phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh làm đầu, danh chính
thì v
ật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi làm ra hình. Nếu
hình và danh so sánh gi
ống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi người trong xã hội đều
nh
ất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai dám làm trái hay
làm quá danh ph

ận đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì vua phải biết
dùng "Thu
ật". "Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời mà trao việc, cứ theo
vi
ệc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công không xứng
vi
ệc thì phạt". Ngoài các nội dung "Pháp", "Thế", "Thuật" đã nêu ở trên, tư tưởng
Pháp gia còn h
ết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ sức đè bẹp và
thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông nghiệp, tích trữ
lương thự
c và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Qu
ốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và
phát tri
ển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát
tri
ển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được
phát tri
ển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn
Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của pháp gia là
mu
ốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội
có ph
ức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ"
được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được vương quốc Tần ra sức vận dụng và
k
ết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc cục diện phân tán cát
c

ứ, thống nhất được đất nước Trung Hoa sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
14
2.2.2 Khác biệt về chính trị - xã hội:
Khổng Tử – người sáng lập Nho gia làm hết sức để nhằm mục đích cho
người quân tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng,
nền tảng của việc cai trị đất nước
chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự
nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng nói: “Bản thân
mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh th
ì (người khác) cũng thi hành; còn nếu bản
thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh th
ì (người khác) cũng không tuân theo”
(Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Luận Ngữ.
Tử Lộ). Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua đều phải như Nghiêu Thuấn – thánh
hi
ền mang tính lý tưởng, song theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị
nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị v
ì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và
đạt được qua “lễ” (chế ước bản thân quay về với điều lễ là nhân. “Khắc kỷ phục lễ
vi nhân”). Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ, thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện
của ông là làm sao để xã hội có thể trở về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử, ông tổ phái
Mặc gia, cũng rất đề cao quá khứ. Theo ông, một trong ba tiêu chuẩn của chân lý
(phép “Tam biểu”), là lời nói của thánh nhân đời xưa, hay những gì đã từng được
nói đến trong quá khứ.
Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức sắc sảo loại quan
điểm n

ày: “Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ trương của
hai người khác nhau. Họ đều tự cho
mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Nghiêu,
Thu
ấn không sống lại, vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc là đúng với
Nghiêu, Thuấn? Đời Ân, đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời Hạ trước đấy
đ
ã hơn hai ngàn năm mà còn không quyết định được cái đúng của đạo Nho và đạo
Mặc. Nay lại muốn nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách đây đã ba ngàn
năm, chẳng phải là không thể nào làm được sao? Nếu như không tham nghiệm được
mà lại quyết định ngay thì đó là ngu. Nếu không thể quyết định được mà lại theo
ngay thì đó là dối trá. Cho nên chuyện nêu cao các tiên vương, quyết định theo
Nghiêu và Thuấn nếu như không phải là ngu thì cũng là dối trá vậy. Cái học ngu và
d
ối trá, cái hành động bác tạp và trái pháp luật này vị vua sáng không theo” (1). Các
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
15
nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính
phổ quát nhất định, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói
chung và Hàn Phi nói riêng đ
ã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn
muốn tự khoác lên mình.
Hàn Phi quan ni
ệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người
khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải l
à ông vua của nước đó ra sao,
mà là nền pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng và Tề Hoàn

Công thường được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng này. Các nhà Nho
tôn quân, Hàn Phi c
ũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu khác (2). Ông viết:
“Bọn nhà Nho đời nay nói với nhà vua lại không nói đến cái làm cho đời nay được
trị mà nói đến công lao trị an ngày xưa, không hiểu rõ công việc phép quan, không
xét kỹ cái tình hình của bọn gian tà, mà đều nói đến những chuyện truyền lại từ thời
thượng cổ, ca ngợi công lao của các tiên vương. Bọn nh
à Nho tô vẽ lời nói, bảo:
‘Nghe lời nói của ta thì có thể làm bá vương’. Loại người nói như vậy cũng như bọn
thày cúng, đồng cốt, vị vua có pháp độ không nghe. Cho n
ên vị vua sáng nêu lên
nh
ững việc có thực, bỏ cái vô dụng, không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời
bọn học giả” (3).
Hàn Phi quan ni
ệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình,
ổn định và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét
rõ th
ực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày
ra hình ph
ạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên
h
ạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít,
người gi
à cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không
bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau” (4).
S
ở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông
có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời
xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại,

Hàn Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
16
nguồn từ chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc
chính sự chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế:
“Trẻ con đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt.
Nhưng chiều đến, thế n
ào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để
chơi, nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, h
ùng
bi
ện mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà không biết
sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chứ không
dùng để trị nước”
(5)
Hàn Phi phê phán m
ột cách gay gắt những người hủ Nho, coi đó là “bọn học
giả dốt nát ở đời không biết bản chất của việc trị và loạn, cứ nói năng nhảm nhí và
d
ẫn những sách của người xưa để làm rối việc cai trị ở đời này Nếu nghe lời họ thì
nguy, n
ếu dùng kế họ thì loạn. Đó là điều ngu hết sức lớn và là mối lo hết sức
lớn”(6).
Then ch
ốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật.
Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới
ổn định, x

ã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh,
làm cho dân chúng được y
ên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước
nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi
hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu
thì nước yếu” (7), Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp
trị quốc), chủ trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý),
“hình phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu”
(hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Ông hết sức coi trọng tác dụng
của pháp luật và chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy
“pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”.
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban
bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những
kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh” (8). Đây là một tư
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
17
tưởng hết sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi
cửa công” khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc
nắm quyền đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết
pháp luật để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ
không phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị
tích cực, chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính
là “hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp”
có thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
2.2.3 Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền
Nho gia nói rằng người cầm quyền cần phải có đức tức là dùng đức trị, phải
là tấm gương cho người dưới noi theo

Pháp gia coi trọng cái tài của nhà cầm quyền.
2.2.4 Tư tưởng biện chứng:
Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia
điều hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho xã
h
ội phát triển theo đúng hướng của nó. Còn Nho gia không đề cập đến điều này
Pháp gia: quan điểm thời biến
Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải
thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có
chế độ xã hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan
của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch
ra cách trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật
nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật m
à biến chuyển được theo thời đại
thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
18
Nho gia: quan điểm bất biến
Theo quan điểm Nho giáo, trời l
à lực lượng sinh ra thế giới và con người, nên
tr
ời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người, lương
tri, lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải biết kính
trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời.
Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và
nâng cao nó lên. Trên tr

ời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông vua
mà thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất biến,
Đạo diệc bất biến (Trời không thay đổi th
ì đạo cũng không thay đổi). Khổng Tử
dựa vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính danh
Thuy
ết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu
vốn đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể
không cúi đầu trước con trời (Thi
ên tử)
Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con người
một khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khăn lắm để chuyển sang
thần phục trước “siêu người”
Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là
do tr
ời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù
h
ợp với cái Danh.
2.2.5 Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người
Sự khác biệt Nho gia Pháp gia
Về quan
niệm đạo đức
con người
Nho gia thể hiện tính nhân bản
sâu sắc trong những quan niệm
về đạo đức con người. Họ xét
đạo đức con người dựa trên hệ
thống các phạm trù như : nhân,
Pháp gia thừa nhận bản tính
con người l

à ác mà không xem
xét v
ấn đề đạo đức con người
dựa trên các phạm trù đạo đức
như phái Nho gia. Do khẳng
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
19
nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… Với
nhân và nghĩa là quan niệm
trung tâm của đạo đức Nho gia.
Nhân là cách đối xử của con
người với con người, để tạo ra
người. Theo Khổng Tử, nhân đó
là lòng thương người (ái nhân),
còn Mạnh Tử cho rằng nhân đó
là lòng trắc ẩn. Nghĩa được hiểu
là những gì hợp đạo lý mà con
người phải làm, bất kể điều đó
có đem lại lợi ích g
ì cho người
thực hiện việc làm đó hay
không (1-tr.59&60). Theo Nho
gia thì
đạo đức là phương tiện
ch
ủ yếu để cai trị đất nước, là
điều kiện quan trọng để hình

thành và hoàn thi
ện con người
góp phần củng cố và duy trì trật
tự xã hội. (1-tr.64).
định bản tính con người là ác
nên theo h
ọ, trong xã hội, người
tốt thì ít mà người xấu thì
nhi
ều. Vì vậy để xã hội được
yên bình, không thể trông chờ
vào số ít người tốt làm việc
thiện (thực hiện nhân nghĩa trị)
mà phải xuất phát từ số đông,
ngăn chặn không cho họ l
àm
điều ác (bằng cách thực hiện
Pháp trị : lấy pháp luật làm căn
bản trong việc cai trị đất nước,
đặt pháp luật một cách r
õ ràng
và ban b
ố rộng rãi trong cho
m
ọi người cùng biết để tuân
theo nghiêm chỉnh). Vì quá
nh
ấn mạnh đến biện pháp trừng
phạt nặng nề, đồng thời thủ tiêu
văn hóa, giáo dục và phủ nhận

tình cảm, đạo đức con người.
…nên phái Pháp gia đ
ã đi
ngược lại xu hướng phát
triển
của văn minh nhân loại (1-
tr.75&76).
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
20
Về giáo dục
con người
Thể hiện rõ ở thuyết nhân trị :
Quan niệm nhà cầm quyền phải
lấy đạo đức mà giáo dục và cảm
hóa, dẫn dắt dân chúng chứ
không phải dùng đến biện pháp
cưỡng chế v
à hình phạt như
phái Pháp gia (1-tr.64).
T
ừ việc thừa nhận bản tính con
người là ác nên quan điểm về
giáo dục con người của phái
Pháp gia mang tính hà khắc.
Thể hiện ở thuyết Pháp trị qua
ba quan điểm Pháp, Thế, Thuật:
Pháp được hiểu l

à những qui
định có tính chất khuôn mẫu
mà mọi người trong xã hội phải
tuân theo.
Th
ế được hiểu là địa vị, thế lực,
quyền uy của người cầm đầu
chính thể. Muốn thi hành được
Pháp thì phải có Thế.
Thuật được hiểu là phương
pháp, thủ thuật, cách thức, mưu
lược điều khiển việc, khiến
người ta triệt để thực hiện các
mệnh lệnh mà không hiểu
người sai d
ùng họ như thế nào.
Thu
ật bao gồm ba mặt là bổ
nhiệm, khảo hạch và thưởng
phạt (1-tr.75)
Về xây dựng
con người
-Nho gia quan niệm xây dựng
con người theo chuẩn mực đạo
đức, đó l
à tiêu chuẩn của người
quân tử : muốn trở thành người
-Quan điểm của Pháp gia trong
việc xây dựng con người trong
xã hội không như Nho gia :

+ Vua : là người cai trị không
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
21
quân tử phải tu thân. Để tu thân
phải đạt đạo (là con đường phải
theo, đó c
òn là quan hệ mà con
người phải biết giữ để biết ứng
xử trong cuộc sống). Ngoài đạt
đạo, người quân tử phải đạt đức,
phải thể hiện được những phẩm
chất tốt đẹp trong cuộc sống,
đồng thờ
i phải biết thi, thư, lễ,
nhạc (1-tr.63). Lấy tu thân làm
g
ốc nhưng người quân tử phải
biết hành động tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Để hành động
hiệu quả, người quân tử phải
thực hành đường lối nhân trị, đó
là cai trị bằng tình người, bằng
sự yêu người, coi người như
bản thân mình. Không những
thế, người quân tử còn phải
chính danh (vua cho ra vua, tôi
ra tôi, cha ra cha, con ra con,

ch
ồng ra chồng, vợ ra vợ).
-Với mong muốn xây dựng
được một x
ã hội đại đồng,
Khổng Tử và các học trò của
ông đ
ã đưa ra quan điểm về xây
dựng con người như sau:
phải chú trọng nhiều đến việc
tu thân, theo nghĩa phải sáng
suốt và am hiểu những nguyên
t
ắc pháp trị, và chịu khép mình
trong nh
ững nguyên tắc đó.
Người cai trị phải đặt ra hệ
thống luật pháp một cách rõ
ràng, ban b
ố rộng rãi cho mọi
người c
ùng biết để tuân theo.
+ Tầng lớp nhân dân : hiểu rõ
và th
ực thi nghiêm chỉnh luật
pháp đ
ã định.
Hàn Phi Tử đòi hỏi vua phải
dùng Pháp như trời (nghi
êm

minh, không v
ị nể), dùng Thuật
như quỷ (linh động, uyển
chuyển). Nghĩa là nếu như
Pháp được công
bố rộng rãi
trong nhân dân, b
ắt buộc họ
phải tuân theo thì thuật là cơ trí
ngầm, là thủ đoạn của vua được
dấu kín. Nhờ Thuật mà vua
ch
ọn được người tài năng, trao
đúng chức vụ quyề
n hạn và loại
được kẻ bất t
ài (1-tr.75&76).
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20
22
+ Vua : mang phẩm chất của
người cai trị, phải là người quân
tử, không thể là dân võ biền mà
ph
ải là người có vốn văn hóa
toàn diện. Vua phải hiểu và thực
hành đạo đức, khi đó trên dưới
sẽ hòa mục.

+Tầng lớp nhân dân : lấy hiếu,
đễ l
àm gốc thì từ một nhà nhân
h
ậu sẽ làm cho cả nước nhân
hậu. Xã hội khi ấy sẽ thái bình

ổn định, có trật tự kỷ cương,
đời sống vật chất đầy đủ, mọi
người trong x
ã hội sẽ được giáo
hóa.
Tuy nhiên vi
ệc chỉ đơn thuần
lấy giáo dục đạo đức làm cốt
yếu để xây dựng một xã hội đại
đồng như Khổng Tử mo
ng
mu
ốn là chưa đủ. Vì nền tảng
kinh tế của xã hội đó với chế độ
công hữu đã không còn, khi mà
ch
ế độ tư hữu ngày càng phát
tri
ển vào thời bấy giờ. (1-tr.64)
Giáo viên hướng dẫn Đề tài 3: Sự tương đồng và
TS. BÙI VĂN MƯA khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Sinh viên thực hiện Tiểu luận Triết học
DƯƠNG PHÚC HẢI Nhóm 2 Đêm 1 K20

23
2.3 Nhận xét
Nho gia chủ trương rằng con người phải được cai trị bằng lễ và đạo đức, chứ
không phải bằng pháp luật và hình phạt. Họ ủng hộ cách cai trị cổ truyền, nhưng
không nhận thức rằng hoàn cảnh thực hành cách cai trị ấy nay đã thay đổi. Ở
phương diện n
ày, Nho gia tỏ ra bảo thủ. Tuy nhiên ở phương diện khác, họ đồng
thời có tinh thần cách mạng, và tư tưởng họ phản ánh sự thay đổi của thời đại. Cho
nên họ không còn ủng hộ sự phân biệt giai cấp theo truyền thống, tức là những phân
biệt chỉ dựa trên xuất thân hay tài sản. Đương nhiên Khổng Tử và Mạnh Tử vẫn tiếp
tục giảng về sự phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân. Tuy nhiên đối với hai ngài, sự
phân biệt này căn cứ trên giá trị đạo đức của cá nhân chứ không nhất thiết căn cứ
trên sự khác biệt giai cấp cố hữu.
Trong xã hội phong kiến Trung Quốc cổ đại, giới quý tộc được cai trị theo lễ,
nhưng thứ dân th
ì được cai trị theo hình phạt. Do đó, Nho gia nhất quyết đòi hỏi
rằng thứ dân cũng phải được cai trị theo lễ như giới quý tộc, chứ không phải theo
hình phạt. Thực tế đó là một yêu cầu về tiêu chuẩn đạo đức cao hơn cần áp dụng cho
thứ dân. Với ý nghĩa này, Nho gia có tinh thần cách mạng.
Trong tư tưởng của Pháp gia cũng không có sự phân biệt giai cấp. Mọi người
đều b
ình đẳng trước pháp luật của nhà vua. Tuy nhiên, thay vì nâng thứ dân tới tiêu
chu
ẩn đạo đức cao hơn thì Pháp gia hạ quý tộc xuống tiêu chuẩn thấp hơn bằng cách
vất bỏ lễ và chỉ dựa trên thưởng phạt đối với mọi người như nhau mà thôi.
Tư tưởng Nho gia th
ì lý tưởng, tư tưởng Pháp gia thì hiện thực. Đó là lý do
t
ại sao trong lịch sử Trung Quốc Nho gia luôn chỉ trích Pháp gia là hạng bỉ lậu, còn
Pháp gia thì ch

ỉ trích Nho gia là hạng nói suông theo sách vở mà không thực tế.

×