Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.93 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề t
ài:
SO SÁNH SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA
SVTH : BÀNH THỊ MỸ HIỀN
STT : 25
NHÓM : 2
L
ỚP : K20 – ĐÊM 1
GVHD : TS. BÙI VĂN MƯA
TP.HCM 05/2011
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA 3
I.KHÁI QUÁT NHO GIA 3
1.L
ịch sử hình thành và đặc điểm Nho gia 3
1.1 L
ịch sử hình thành 3
1.2 Đặc điểm Nho gia 4
2. Quan điểm Nho gia 4
II. KHÁI QUÁT PHÁP GIA 6
1.L
ịch sử hình thành và đặc điểm Pháp gia 6
2. Quan điểm Pháp gia 6
CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ


PHÁP GIA
7
I. Sự tương đồng 7
II. Sự khác biệt 10
1.V
ề trị quốc 10
2. T
ố chất nhà cầm quyền 13
3. Tư tưởng biệc chứng 15
4. Giáo d
ục, đạo đức 17
5. Nhân sinh, b
ản thể 18
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG NHO GIA VÀ PHÁP GIA TRONG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
20
KẾT LUẬN 25
PH
Ụ LỤC I 26
PH
Ụ LỤC II 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 2
LỜI MỞ ĐẦU
Trung hoa là cái nôi văn hóa phương Đông, là nơi sản sinh ra nhiều tư
tưởng triết học lớn có ảnh hướng đến các nước tr
ên thế giới. Trong các hệ tư
tưởng đó không thể không nhắc đến hai hệ tư tưởng Nho gia v
à Pháp gia là hai

h
ệ tư tưởng vẫn còn ý nghĩa và có giá trị lâu dài cho đến tận ngày nay.
Nho gia b
ắt nguồn từ chữ Nhân, trong khi Pháp gia đề cao chữ Pháp. Cả
hai hệ tư tưởng không có vẻ gì tương đồng nhau nhưng khi nghiên cứu hai hệ tư
tưởng n
ày, ta lại thấy ngoài những điểm khác biệt thì chúng lại có những điểm
giống nhau ít ai biết đến.
Cả Nho gia và Pháp gia đều có những ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội loài
người và không ít các nhà chính trị gia lớn trên thế giới đã vận dụng các quan
điểm trong Nho gia và Pháp gia để xây dựng v
à bảo vệ đất nước, trong đó có Hồ
Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của nước ta.
Ngày nay, khi xã hội bước vào tiến trình hội nhập, dù mỗi quốc gia đều có các
quan điểm khác nhau trong nguy
ên tắc xây dựng và phát triển đất nước nhưng
vẫn có một số quy tắc cơ bản. Bên cạnh việc xây dựng một nhà nước pháp quyền
với một hệ thống pháp luật hoàn thiện thì việc giáo dục đạo đức là điều vô cùng
quan tr
ọng. Chúng tạo thành một thể tổng hòa bổ sung và gắn kết lẫn nhau. Đây
chính là ý nghĩa sâu xa trong quá trình tìm hiểu và chọn đề tài: So sánh sự tương
đồng v
à khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia là đề tài nghiên cứu trong bài tiểu
luận này.
Nghiên c
ứu về Nho gia và Pháp gia cũng như sự tương đồng và khác biệt
của hai hệ tư tưởng này giúp chúng ta hiểu rõ hơn nữa cách vận dụng những tinh
hoa của Nho gia và Pháp gia trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội,
nhất là trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay rất cần sự vận dụng
này để giúp cho quá tr

ình đưa đất nước phát triển, tiến bộ xã hội.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy Bùi Văn Mưa đã hướng dẫn
em hoàn thành bài tiểu luận này.
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA
I. KHÁI QUÁT NHO GIA
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm Nho gia
1.1 Lịch sử hình thành
Từ thời Tây Chu, Nho giáo với sự đóng góp của Chu Công đã dần được
hình thành nhưng phải đến thời Xuân thu, Khổng Tử mới hệ thống hóa và tích
c
ực truyền bá hệ tư tưởng Nho gia nên ông được coi là người sáng lập Nho gia
Nho gia được h
ình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau,
nhưng có 3 giai đoạn ti
êu biểu: thời nguyên thủy với Khổng tử, Tuân tử, Mạnh
tử, thời Hán với Đổng Trọng Thư, Lưu Hâm, thời Tống – Minh với Chu Hy,
Trình Hạo, Trình Dy.
Vào th
ời nguyên thủy, Khổng Tử quan tâm nhiều tới các vấn đề đạo đức,
chính trị, xã hội, coi đạo đức là nền tảng của xã hội. Ông san định, hiệu đính, giải
thích bộ Lục Kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân
Thu, Kinh Nhạc. Sau đó Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn lại năm bộ Kinh gọi là
Ng
ũ Kinh. Về sau, vào thời Chiến quốc, Nho gia được Tuân Tử và Mạnh Tử phát
triển theo hai xu hướng khác nhau: Mạnh Tử theo hướng duy tâm, Tuân Tử theo
hướng duy vật. Nói chung, từ Khổng Tử đến Mạnh Tử h
ình thành nên Nho giáo
nguyên th

ủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần.
Vào th
ời Hán, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ
phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Đổng Trọng Thư, khai thác lý
lu
ận âm dương, ngũ hành, đưa ra thuyết trời sinh vạn vật và thiên nhân cảm ứng
để ho
àn chỉnh thêm Nho giáo. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm
khác biệt của Hán Nho so với thời Nho giáo nguyên thủy là đề cao quyền lực của
giai cấp thống trị, thiên tử là con trời, dùng lễ trị để che đậy pháp trị.
Vào thời Tống – Minh, Nho giáo phát triển mạnh mẽ với Chu Đôn Di và
Thi
ệu Ung là những người khởi xướng Lý học trong Nho giáo. Ngoài ra còn có
Chu Hy và hai anh em h
ọ Trình là Trình Hạo và Trình Di là những nhà lý học
xuất sắc với thuyết cách vật trí tri. Điểm khác biệt của Nho giáo thời Tống là đã
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 4
bổ sung các yếu tố tâm linh lấy từ Phật giáo và các yếu tố siêu hình lấy từ Đạo
giáo phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị. Từ thời nhà Minh qua đến thời
nhà Thanh, Nho giáo không có gì phát triển nổi bật mà càng ngày càng khắt khe,
bảo thủ.
1.2 Đặc điểm Nho gia
Nho giáo mang tính quốc tế, thể hiện ở chỗ mục tiêu cao nhất của người
quân tử là bình thiên hạ, việc tìm một đấng minh quân quan trọng hơn việc làm
gì cho
đất nước của mình. Song song đó, Nho giáo còn mang tính phi dân chủ mà
h
ệ quả của nó chính là tư tưởng bá quyền, coi khinh các dân tộc khác, coi mình là
trung tâm, coi thường người dân, đặc biệt là phụ nữ. Được thể hiện ở chữ Dũng,

Nho giáo mang tính trọng sức mạnh, một trong ba đức mà người quân tử phải có:
Nhân, Trí, Dũng. Ngoài ra, với học thuyết Chính Danh, tính nguyên tắc được đề
cao trong Nho giáo, tức là tất cả phải có tôn ti, phải làm việc theo đúng bổn phận.
Mang đặc điểm của tính nông nghiệp phương Nam, Nho g
iáo nổi bật bởi
sự hài hòa khi đề cao chữ Nhân và nguyên lý Nhân trị. Với cách cư xử trung
dung trong Ngũ Luân, Nho giáo mang đặc tính dân chủ, nghĩa là các quan hệ đều
thể hiện tính hai chiều, bình đẳng. Bên cạnh những đó, sự coi trọng văn hóa tinh
thần được thể hiện trong Kinh Thi cho thấy sự mâu thuẫn giữa tính trọng văn
trong văn hóa nông nghiệp phương Nam so với tính trọng v
õ trong văn hóa du
mục phương Bắc.
Việc đồng thời dựa vào hai nền văn hóa khiến cho tư tưởng của Khổng Tử
không tránh khỏi giằng co và đầy mâu thuẫn.
2. Quan điểm Nho gia
Nho gia mà đại diện là Khổng Tử đặt ra những quan điểm về đường lối
xây dựng đất nước và quan điểm về đạo đức và giáo dục con người.
Đối với việc xây dựng đất nước, Khổng Tử cho rằng một quốc gia muốn
thịnh vượng thì người cầm quyền phải thực hiện được ba việc lớn, đó là Thực
túc, Binh cường và Dân tín, lúc đó x
ã hội mới ổn định. Trong ba điều trên thì dân
tín là quan tr
ọng nhất vì “dân vi bang bảo”, dân là gốc nước, gốc vững thì nước
mới yên. Việc dưỡng dân, giáo dân cũng rất quan trọng để xây dựng một quốc
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 5
gia. Dưỡng dân hay nuôi dân để dân quý, nước thịnh, còn khi dân được giáo hóa
thì dễ sai bảo, dễ trị, nước sẽ yên. Việc giáo dân sẽ được thực hiện bằng cách mở
các trường dạy học, dạy dân bằng lễ, nhạc, trong đó lễ để dân biết điều phải m
à

làm, tr
ọng người trên, nhạc để hòa nhập trên dưới, dạy con hiếu thảo với cha mẹ,
thận trọng trong cư xử. Giáo dân không phân biệt giàu nghèo. Thông minh thành
k
ẻ sỹ, cao hơn thì thành người quân tử là những người đủ đức tài trong xã hội.
Đối với nh
à cầm quyền, để giáo hóa dân thì phải tu dưỡng đạo đức cá nhân và
dùng Đức trị. Phải làm gương, sửa mình để sửa người. Người trị dân thì phải có
đức th
ì dân mới theo, mới cảm hóa được dân. Vua phải lấy đức để trị dân, từ đó
xã hội ổn định, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, dẫn dắt dân
chứ không cưỡng chế trừng phạt. Đối với vấn đề đào tạo con người thì trong xã
h
ội Nho gia phải đào tạo người có vừa đủ đức và tài, với ba loại người là kẻ sỹ,
đại trượng phu v
à quân tử.
Trong Nho gia, quan điểm về đạo đức và giáo dục con người bao gồm
thuyết Chính danh, tức là phải làm đúng danh phận của mình, không ở vị trí ấy
thì không được bàn công việc của vị trí ấy. Danh đi với ngôn, ngôn cũng phải
chính, lời nói đi đôi với việc làm, không được nói nhiều làm ít, không được bên
ngoài thì kính c
ẩn, bên trong lại không. Về giáo dục đạo đức con người còn có
Nhân là yêu thương người khác, không làm cho người khác những gì mình
không mu
ốn họ làm cho mình. Muốn đạt được đức nhân thì phải khắc kỷ, tức là
t
ừ bỏ tính tham lam, ích kỷ và phục lễ, tức là hành động theo đạo lý, chân lý.
Ngoài Nhân thì con người phải có Trung: vua trung – tôi trung, Hiếu là phải kính
yêu cha mẹ và những người lớn tuổi trong nhà, Nghĩa là thấy việc gì đáng làm
phải làm, không hề mưu tính lợi ích cá nhân, Trí là sự minh mẫn sáng suốt, biến

nhận thức đúng sai, muốn có trí phải học, không học thì dù thiện tâm đến đâu
cũng bị cái ngu dốt làm biến chất, Dũng là lòng can đảm, là sức mạnh để làm chủ
tình thế, hiểu rõ chân lý và bảo vệ chân lý, Lễ là những nghi thức nhất định trong
tế lễ, là kỷ cương của xã hội, những qui phạm đạo đức, qui tắc cư xử hàng ngày.
Trong h
ệ tư tưởng Nho giáo, năm mối quan hệ mà con người phải xác định và
làm tròn trách nhi
ệm của mình là Ngũ luân: quân – thần (vua phải minh thần phải
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 6
trung), phu – tử (cha phải từ con phải hiếu), phu – phụ (chồng trọn nghĩa vợ trọn
trinh), huynh – đệ (anh em như thể tay chân), bằng – hữu (bạn bè phải lấy tín
thành mà đối đ
ãi nhau).
II. KHÁI QUÁT PHÁP GIA
1. L
ịch sử hình thành và đặc điểm của Pháp gia
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất về tư tưởng
và chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại
. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp
gia là đề cao vai tr
ò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị
nước. Tư tưởng Pháp gia mặc d
ù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn
có giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Trong l
ịch sử hình thành của Pháp gia, Quản Trọng (TK VI TCN) chính là
th
ủy tổ của Pháp gia, nổi tiếng với chiến lược diễn biến hòa bình, tấn công bằng

mưu trí, trừng phạt v
à dùng kinh tế để giáo huấn. Theo ông, người trị nước phải
coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Sang thời chiến quốc, Thương Ưởng chủ trương
pháp trị thay đức trị, sử dụng các chính sách khuyến khích dân chúng lao động,
binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại chủ trương dùng thuật trị nước, Thận Đáo chủ
trương dùng T
hế. Cuối cùng Hàn Phi, một học giả nổi tiếng cuối thời chiến quốc
theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử, cho rằng con người bẩm sinh vốn đại ác.
Ông không bàn đến nhân nghĩa, không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương
pháp dùng thế, thuật, pháp để trị nước. Chính Hàn Phi Tử đã hoàn thiện và phát
tri
ển tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng
với thời đại lúc bấy giờ. Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong
phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài
v
ề chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm
soát kẻ dưới, là nước sẽ trị.
2. Các quan điểm của Pháp gia
Quan điểm của Pháp gia trước hết là quan điểm về đường lối xây dựng đất
nước và tư tưởng biện chứng của nó. Về đường lối xây dựng đất nước, trị nước
phải kết hợp các sáu yếu tố: pháp luật, hình phạt, nông nghiệp, chiến tranh, nghệ
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 7
thuật, thế lực. Về nông nghiệp thì tập trung phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn
bán, tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng
quân đội mạ
nh; về chiến tranh, phái Pháp gia chủ trương xây dựng quân đội
mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải quyết
chiến tranh. Thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược,
khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai

dùng họ như thế nào. Thế là địa vị, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa
vào thế mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực hiện
pháp luật. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn.
V
ề tư tưởng biện chứng trong hệ thống tư tưởng của Pháp gia là Pháp gia
th
ừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội. Đây được gọi là quan điểm thời biến,
mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi để
phù hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn đúng với
mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn
th
ời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn. Ngoài ra Hàn
Phi T
ử còn thừa nhận sự tồn tại của lý tính quy luật hay những lực lượng khách
quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu
c
ầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho
phù hợp.
CHƯƠNG II: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
NHO GIA VÀ PHÁP GIA
I. Sự tương đồng giữa Nho gia và Pháp gia
Khi so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta thấy có
những điểm tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh
hưởng n
ày. Sự tương đồng giữa hai trường phái Nho gia và Pháp gia thể hiện ở
những điểm sau đây:
Thứ nhất, sự tương đồng của Nho gia và Pháp gia nằm ở mục đích là cả
hai trường phái đều mang tinh thần muốn xây dựng một x
ã hội thái bình, đất
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

Tiu lun trit hc Trang 8
nước ấm no và giàu mạnh. Có thể quan điểm khác nhau nhưng mong muốn và
m
ục tiêu của cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều là giải quyết tình trạng hỗn
loạn, ổn định và phát triển quốc gia ngày một hùng cường. Nho gia và Pháp gia
đều ra đời trong thời đại loạn lạc, cụ thể là thời Xuân Thu, Chiến Quốc nên
Kh
ổng Tử - ông tổ của Nho gia hay Hàn Phi Tử - người có công lớn trong việc
hoàn thiện Pháp gia đã cho ra đời hai hệ tư tưởng có những quan điểm trái ngược
nhau nhưng lại có c
ùng một mục tiêu nhằm làm cho quốc thái dân an, hướng đến
xã hội ổn định.
Thứ hai đó chính là sự giống nhau trong việc sử dụng một số công cụ
nhằm điều hành đất nước. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Thực
túc, thì trong Pháp gia chính là Nông nghiệp, cụ thể là phát triển nông nghiệp, tập
trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội
mạnh. Mà Thực túc và Nông nghiệp đều nhằm tạo ra của cải cho xã hội. Nếu
trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Binh Cường, th
ì trong Pháp gia
chính là Chi
ến tranh, cụ thể là xây dựng quân đội mạnh, dùng chiến tranh để giải
quyết chiến tranh. Cả Binh cường và Chiến tranh đều là những công cụ có mục
đích giống nhau, tức là đều nhằm tạo ra một lực lượng binh hùng tướng mạnh,
bảo vệ nền an ninh của quốc gia.
Thứ ba là sự tương đồng trong khuynh hướng nhìn nhận bản chất con
người của một số nh
à Nho với một số nhà tư tưởng theo trường phái Pháp gia.
Tuân Tử - người chủ trương phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật, một trong
hai bậc thầy Nho gia thời Chiến quốc cùng với Mạnh Tử, cho rằng bản tính con
người l

à ác (nhân chi sơ tính bổn ác) vì con người vốn sẵn có lòng ham lợi, để
thỏa mãn những ham muốn, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên
c
ủa mình nên dẫn đến tình trạng tranh giành, cướp đoạt của nhau dẫn đến chiến
tranh. Còn theo Hàn Phi Tử, người học trò của Tuân Tử, theo trường phái triết
học Pháp gia cũng có cùng quan điểm với thầy mình khi quan niệm tính người là
ác, đưa ra học thuyết “cá nhân vị lợi”, cho rằng con người luôn có xu hướng lợi
mình hại người, tránh hại cầu lợi, nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội.
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 9
Thứ tư, Nho gia và Pháp gia đều là những tư tưởng trị quốc có ý nghĩa và
được vận dụng sâu rộng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, có lịch sử lâu dài và có
ảnh hưởng đến các quốc gia Á Đông khác, không chỉ bao hàm nội tại trong xã
h
ội Trung Quốc mà còn lan sang tận các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên,
Vi
ệt Nam phát triển bền bĩ, được hoàn thiện liên tục và có ý nghĩa cho đến tận
ngày nay. Nho gia và Pháp gia vẫn còn được vận dụng rộng rãi trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Những tinh
hoa đó đ
ã được Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của nước ta áp dụng thành công. Cả
hai hệ tư tưởng đã trở thành một kho tàng sống cho các nhà cầm quyền của thời
đại ng
ày nay noi theo.
Thứ năm, Nho gia và Pháp gia đều đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền.
Mặc dù tố chất của nhà cầm quyền trong Nho gia có thể khác ít nhiều so với
Pháp gia nhưng cả hai trường phái đều coi nh
à cầm quyền đóng một vai trò vô
cùng to l
ớn trong việc điều hành đất nước. Đối với Nho gia, nhà cầm quyền có

những tố chất để vừa làm gương cho dân, vừa dùng Đức trị để dưỡng dân, giáo
dân. Nhà cầm quyền giống như vì sao Bắc Đẩu để dân soi đường và học tập. Để
dân tin dân tín, nhà cầm quyền không những phải sáng suốt, hiểu cao biết rộng
mà còn phải biết cách trị nước, an dân, dùng Nhân để hướng lòng dân về một
mối. Song song đó, Pháp gia mặc dù sử dụng phương pháp trị nước khác với Nho
gia nhưng cũng chủ trương cần một đấng minh quân, một nhà cầm quyền am
hiểu nguyên tắc cai trị đất nước.
Thứ sáu, cả Nho gia và Pháp gia cùng nhìn nhận cấu trúc xã hội với
những bất bình đẳng như một thực tế đã định và cho phép chúng quyết định điều
cá nhân nên làm. Hòa hợp xã hội đồng nghĩa với việc cá nhân thuận theo xã hội.
Thực tế của xã hội luôn luôn có kẻ giàu, người nghèo, luôn có người quân tử và
k
ẻ tiểu nhân, các thứ bậc trong xã hội là một tất yếu mà mỗi một cá nhân trong xã
h
ội phải thuận. Mỗi cá nhân không được nằm ngoài vòng tròn thực tại của xã hội,
vì mỗi một cá nhân là mỗi yếu tố cấu thành xã hội.
Thứ bảy, mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những
phương cách giải quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị
- đạo đức – xã hội
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 10
mà thời đại lúc bấy giờ đã đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định. Trong
Nho gia, dựa vào lợi ích của giai cấp thống trị đã đưa ra các tư tưởng về Tam
Cương, Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tam T
òng, Tứ Đức, tạo thành một hệ thống tư
tưởng phục vụ cho các giá trị của x
ã hội. Nếu Nho gia sử dụng phương cách
Nhân trị để thu phục lòng dân thì Pháp gia sử dụng Pháp trị để giải quyết thực
tiễn xã hội.
Thứ tám, mặc dù cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều có những thời kỳ

phát triển rực rỡ và hưng thịnh nhưng cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ
lâm vào bế tắc. Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh – Thanh thì trở nên khắt
khe và bảo thủ. Sang thế kỷ XIX thì Nho giáo đã thật sự trở nên già cỗi, không
còn sức sống Chính vì tính phục cổ và bảo thủ mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng
trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp với
trào lưu văn minh của thế giới. Chính điều này đ
ã khiến Nho giáo dần dần không
phù hợp. Đối với Pháp gia, một minh chứng có thể dẫn dụ cho tình trạng bế tắc
của hệ tư tưởng này chính là Nhà Tần. Trong thời đại hỗn loạn, việc chủ trương
dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn khiến nước Tần trở nên hùng mạnh và
th
ống nhất được Trung Quốc. Nhưng do quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt
nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục đi ngược lại với
xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. V
ì vậy, sau khi đã thống nhất được
đất nước, nước Tần vẫn triệt để thực hành pháp trị mà dẫn đến mất nước.
Tóm lại cả Nho gia và Pháp gia đều có những điểm tương đồng. Nói cho
đến tận c
ùng thì cả Nho gia và Pháp gia đều nhằm giải quyết tình trạng hỗn loạn
của xã hội, hướng tới một sự ổn định lâu dài cho quốc gia. Cả hai trường phái
đều muốn mang những phần tinh túy nhất của m
ình để hướng tới những giá trị
chân, thiện, mỹ của cuộc sống. Đó chính là điều mà thời nay không ai có thể phủ
nhận.
II. Sự khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
1. Về trị quốc
Khi tìm hiểu về Nho gia và Pháp gia, mọi tư tưởng, luận bàn về sự khác
biệt giữa hai trường phái này đều xoay quanh chính ở vấn đề trị quốc. Nếu đọc
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 11

Luận Ngữ, ta thấy Khổng Tử hầu như chỉ nói tới đường lối Đức trị thì Hàn Phi
T
ử - một đại biểu xuất sắc của Pháp gia lại đề cao vai trò Pháp luật, chủ trương
dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Cả hai tư tưởng này mặc dù trở thành hệ
thống tư tưởng lớn hay chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng đều có giá trị
lịch sử lâu dài, ảnh hưởng sâu rộng và có ý nghĩa cho đến tận ngày nay.
Đối với Nho gia
Khổng Tử đề xuất đường lối “Đức trị” – đường lối trị nước bằng đạo đức,
mang bản sắc của chính người đề xuất ra nó. Nội dung đường lối “Đức trị” là
th
ực hiện 3 điều: dân đông, kinh tế phát triển, dân được học hành. Biện pháp để
thi hành là: thận trọng trong công việc, giữ gìn chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng,
thương người, sử dụng sức dân hợp lý Cơ sở tư tưởng “Đức trị” của ông suy
đến c
ùng là lòng thương yêu con người, lòng tin ở bản tính con người có thể cảm
hóa được. Ông quan niệm phép trị dân th
ì không cần dùng đến biện pháp giết
người. Trước sau g
ì Khổng Tử đều muốn lấy đạo đức mà cảm hóa người hơn là
dùng hình pháp mà trị người. Còn Mạnh Tử chủ trương thực hành đường lối
“Đức
trị” dựa trên tinh thần quý dân.
Kh
ổng Tử cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở
là do không “Chính danh”. “Chính danh” là làm mọi việc cho ngay thẳng, người
nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy, cứ thế m
à làm, nếu không
“Chính danh” thì lời nói sẽ không đúng đắn dẫn đến việc thi hành sai. Theo
M
ạnh Tử thì cai trị đất nước bằng “Đức trị” và thực hành Chính danh để xây

dựng một xã hội đại đồng. Có thể khái quát như sau: cơ sở gia đình, nền tảng xã
h
ội không phải là những quan hệ kinh tế, xã hội mà là quan hệ đạo đức, chính trị,
đặc biệt l
à quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Khi các quan hệ này chính
danh, ngh
ĩa là: “vua ra vua, tôi ra tôi, chồng ra chồng, vợ ra vợ” (Luận ngữ, Nhan
Uyên, 11) thì xã hội ổn định, gia đình yên vui. Nếu không Chính danh, tức vua
chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, vợ chẳng ra
vợ, chồng chẳng ra chồng thì luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước
lỏng lẻo.
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 12
Khổng Tử cũng phản đối nhà cầm quyền dùng luật pháp để cai trị dân. Cai
trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép thì dân có thể tránh được tội
lỗi nhưng không biết liêm sĩ. Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn
phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sĩ và thực lòng quy phục. Như trong Luận
Ngữ, ông đã nói: “dùng chính lệnh mà khiến, dùng hình pháp mà tề nhát thì dân
kh
ỏi tội nhưng không có lòng hổ thẹn, dùng đức mà khiến, dùng lễ mà tề nhất, thì
dân có lòng h
ổ thẹn, lại cố làm điều hay”.
Đối với Pháp gia
Ngược lại với Nho gia đề cao “Đức trị”, Pháp gia đề cao Pháp trị, tức cai
trị bằng Pháp luật. Nếu như Thận Đáo đề cao “Thế”, Thân Bất Hại đề cao
“Thuật”, Thương Ưởng đề cao “Pháp” thì Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi
tr
ọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng, “Thế”, “Thuật”, “Pháp” là ba yếu tố thống
nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật.
Hàn Phi Tử coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hòa bình, ổn định

và công bằng. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi
pháp luật: pháp luật phải nghiêm minh, không phân biệt sang hèn, mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật trong đó “Thế” là công cụ, phương tiện tạo nên sức
mạnh, “Thuật” là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai
trị, còn “Pháp” là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ.
Bàn luận sâu hơn về ba công cụ trị nước trong phép trị nước của Hàn Phi
T
ử, Pháp được hiểu là quy định, luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người
trong xã hội phải tuân theo, là tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh phận, trách
nhiệm của con người trong xã hội. Theo nghĩa rộng, “Pháp” là thể chế quốc gia,
là chế độ chính trị xã hội của đất nước, theo nghĩa hẹp, “Pháp” là những điều
luật, luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Ông cho rằng, thưởng và phạt là
hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền, thưởng phải hậu để khuyến
khích dân chúng, phạt phải nặng để không chỉ phạt kẻ gian mà còn để ngăn
những kẻ làm bậy trong nước. Hàn Phi Tử còn đưa ra chủ trương mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không cần biết đến tước vị
của giới quý tộc vì luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt, nhằm
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 13
mục đích thực hiện “Pháp” để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ. Với
nội dung và mục đích trên, “Pháp” thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định
danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui
về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. “Pháp” là cái gốc của thiên hạ. “Thế” được
hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Theo Hàn Phi Tử,
thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân: “chỉ có bậc
hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền
vậy” (Đại Cương triết học Trung Quốc, 348). Muốn thi hành pháp luật phải có
Thế. Thế không chỉ là địa vị quyền uy của vua mà còn là sức mạnh của dân, của
đất nước. Để y
ên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Nếu xét

về bản thân vua thì Thế là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn Pháp và Thuật
chỉ là công cụ.
Sau Pháp và Thế, Thuật là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược
khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai
dùng họ như thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng
phạt. Thuật còn thể hiện trong Thuật dùng người.
Tư tưởng Pháp trị của Pháp gi
a là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp
luật làm trọng, nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông
dân bao nhiêu thì vẫn trị quốc bình thiên hạ được. Nói chung, phép trị nước chính
là điểm khác biệt cơ bản nhất của hai trường phái N
ho gia và Pháp gia. Khi nói
đến Nho gia người ta nghĩ ngay đến “Đức trị” còn khi nói đến Pháp gia thì “Pháp
tr
ị”. Cả hai cách trị nước của Nho gia và Pháp gia đều có những điểm mạnh
riêng. Ngày nay những nhà cầm quyền hay vận dụng cả hai cách này trong đường
l
ối xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh chính là một minh chứng cụ thể cho việc
vận dụng thành công cả hai phương pháp trị nước này.
2. Tố chất nhà cầm quyền
Nho gia và Pháp gia có một điểm giống nhau là đều đề cập đến tố chất của
nhà cầm quyền, song mỗi tư tưởng lại có một cách đề cập khác nhau.
Theo Nho gia, khi đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền, Khổng Tử cho
rằng nền tảng của việc cai trị đất nước chính là tự chế ước bản thân nên ông làm
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 14
hết sức để nhằm mục đích cho người quân tử cai trị đất nước. Một vị quân chủ
cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất
nước. Khổng Tử v
à Mạnh Tử đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu chuẩn

của người quân tử, và muốn trở thành người quân tử cần phải Tu Thân. Để Tu
Thân cần phải đạt Đạo mà trước hết là đạo quân – thần, phụ - tử, phu – phụ và
c
ần phải đạt Đức, đồng thời phải biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Tu Thân – thái độ ứng
xử đúng đắn trong gia đình là phải luôn tu sửa thân mình để làm cho mình xứng
đáng với vị trí l
à một thành viên trong gia đình. Đặc biệt trong hai quan hệ cha –
con, quan h
ệ anh – em phải thể hiện hai đức hiếu và đễ, chúng là gốc của đức
nhân. Nho giáo đ
ã đem gắn chặt nước với nhà, coi tề gia là tiền đề của trị quốc.
Nói tới nước, là nói tới vua, vua có sứ mệnh lớn là cai trị đất nước. Để trị nước
họ phải trau dồi đức nhân.
Phái Nho gia hi
ểu là sự cai trị đất nước đặt trên cơ sở bản thân nhà cầm
quyền, sự hưng suy của xã hội đều do nơi giá trị bản thân của những người cầm
quyền mà ra và vấn đề cốt lõi tập trung ở chỗ làm sao cho người cai trị có đủ tài
đức, nghĩa là bên cạnh khả năng, nhà cầm quyền phải có đủ đức hạnh. Thuyết
Nhân trị còn được hiểu là cách cai trị, theo đó, nhà cầm quyền phải lấy đạo đức
mà giáo hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng đến cưỡng chế, trừng phạt.
Vai trò đạo đức theo Nho giáo là phương tiện chủ yếu để cai trị đất nước, là điều
kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố và duy
trì tr
ật tự xã hội. Biện pháp cơ bản để thực hiện nhân trị, là chính danh, lễ, vai trò

i đức của người cầm quyền và vai trò của dân với ý nghĩa là gốc là nền tảng của
chính trị.
Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua đều phải như Nghiêu Thuấn nhưng
theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước chính là đức hạnh
của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “Nhân” và đạt được qua “Lễ”

(Khắc kỷ phục lễ vi nhân)
Theo Pháp gia, chính xác là theo quan điểm của Hàn Phi thì cho rằng nhà
vua c
ũng chỉ là người bình thường như bao người khác. Cái làm cho đất nước trị
hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao mà là nền pháp trị của nước
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 15
đó như thế nào. Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại
hòa bình, ổn định và công bằng. Ông cho rằng: “bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực
tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì
nêu rõ pháp lu
ật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của
dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ” (Phan Ngọc.sđd.,130).
Phái Pháp gia ban đầu đều cho rằng nhà cầm quyền – hoàng đế với tư
cách người đứng đầu quốc gia luôn gắn liền với “sự bí ẩn của chính quyền”, và
như thế những quyết định của chính quyền buộc người dân phải kính trọng và
tuân th
ủ. Nhà vua đại diện cho tính chính thống. Một lãnh đạo giỏi, theo các tiêu
chu
ẩn của Hàn Phi Tử, phải biết từ chối chấp nhận lời đề nghị của những vị quan
trung thành khi chúng có sai sót, nhưng cũ
ng phải tỏ ra nhã nhặn với những kẻ
dưới quyền v
à không quá tham lam. Vị vua cai trị tài giỏi cũng phải hiểu được
tầm quan trọng của sự khắt khe ngay cả khi đang rộng lượng. Mặc dù mong rằng
nhà vua cai trị không phải là gia trưởng, Pháp gia nhấn mạnh rằng tỏ ra quá nhân
đức có thể l
àm hại đến tính quần chúng và đe dọa trật tự bên trong của quốc gia.
Trong khi các nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để
pháp luật có được tính phổ quát nhất đinh, hay nói cách khác, để có được một

nền pháp trị, Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần
thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình.
Thuy
ết Pháp trị của Hàn phi chủ trương nhà cầm quyền không phải chú
trọng nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho rõ ràng và ban bố
cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chính. Muốn thi hành được các chủ
trương của phái Pháp gia n
êu ra, xã hội cũng cần có một đấng minh quân, một
nhà vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình theo nguyên
t
ắc đó.
3. Tư tưởng biện chứng
Tư tưởng biện chứng chỉ thể hiện trong hệ tư tưởng Pháp gia. Tư tưởng
biện chứng này thể hiện trước tiên là ở chỗ Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của
đời sống x
ã hội: mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi
phải thay đổi cho phù hợp. Do không có chế độ xã hội nào bất dịch nên không có
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 16
khuôn mẫu chung cho mọi xã hội. Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn
cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra
chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử
cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp
luật mà biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà
phép tr
ị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn
Theo Hàn phi, lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hóa không ngừng
theo “đạo” v
à “lý” của nó. Hàn phi chia lịch sử thành bốn giai đoạn, mỗi giai
đoạn lịch sử đó khác nhau về tr

ình độ sản xuất, trình độ văn minh, tính chất sinh
hoạt xã hội, phong tục tập quán. Bậc thánh nhân không cốt trau dồi chuyện xưa,
không noi theo nhưng phép tắc bất biến, khi b
àn việc làm ở đời thì dựa theo tình
hình c
ủa thời mình mà đặt ra những biện pháp. Do vậy, những biện pháp trong
phép trị nước được sử dụng ở mỗi thời kỳ không giống nhau.
Phương pháp cai trị cần phải ph
ù hợp với hoàn cảnh cụ thể của hiện thực
xã hội và không phải là bất biến, nó sẽ thay đổi khi hoàn cảnh thay đổi. Không có
một biện pháp cai trị vĩnh viễn và cũng không có một thứ pháp luật luôn luôn
đúng với mọi thời đại. Việc trị dân không có cái nguy
ên tắc bất biến, chỉ có pháp
luật làm cho dân trị an. Pháp luật thay đổi theo thời thì trị, việc cai trị thích hợp
theo thời thì có công lao. Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh
lo
ạn.
Ông cho r
ằng, nếu muốn dùng cái chính trị khoan dung để cai trị cái dân
thời nguy cấp thì cũng chẳng khác gì không có dây cương và roi vọt và muốn
điều khiển con ngựa hung hăng. Đây chính l
à tiền đề về thực tiễn lịch sử xã hội
căn bản để Pháp gia thời nay phải d
ùng pháp trị mà không thể dùng nhân nghĩa,
kiêm ái, vô vi để trị nước được.
Do vậy kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu đòi hỏi tất yếu của thực tiễn
lịch sử xã hội, của thời đại mà tùy theo thời thế hoàn cảnh xã hội của thời đại mà
tùy theo th
ời thế hoàn cảnh mà lập ra chế độ mới và đặt ra những chủ trương,
chính sách, phương pháp trị nước an dân, b

ình thiên hạ mới cho phù hợp. Không
có một thứ pháp luật luôn luôn đúng cho mọi thời đại. Người trị vì thiên hạ
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 17
không cốt trau dồi chuyện xưa, không nên noi theo những phép tắc bất biến mà
khi để ra những chính sách, phương pháp trị nước phải căn cứ vào đặc điểm lịch
sử xã hội ở thời đại mình. Quan điểm cơ bản trong phép trị nước của hệ thống
triết học chính trị Pháp gia và Hàn phi là “thời biến, pháp biến”.
4. Giáo dục, đạo đức
Khác với các nhà tư tưởng thuộc các học phái khác nói chung và Pháp gia
c
ủa Hàn Phi Tử nói riêng không nói nhiều đến việc giáo dục đạo đức trong khi tư
tưởng Nho gia mà đại diện l
à Khổng Tử rất đề cao việc học tập, tu dưỡng đạo
đức v
à là nhà giáo dục danh tiếng bậc nhất.
Về ý nghĩa của giáo dục, Khổng Tử cho rằng giáo dục có ý nghĩa phổ
biến, giáo dục làm con người mở mang tri thức, hình thành nhân cách đầy đủ cả
ba mặt Nhân, Trí, Dũng, đem điều đã học ra ứng dụng đem lại lợi ích cho đời.
Ông cho rằng làm vua quan cũng phải học, làm ruộng vườn cũng phải học chứ
không thể dựa vào cảm tính và lòng nhiệt thành.
V
ề nội dung dạy học thì Khổng Tử rất coi trọng giáo dục đạo đức, dùng
đạo đức để thi hành chính sự. Ông ít quan tâm đến các kiến thức khác nhưng
không vì thế mà ông coi khinh những tri thức kỹ thuật cụ thể, đặc biệt Khổng Tử
rất để cao Nhạc và Thi. Cho nên, Khổng Tử nói: “hưng khởi là nhờ Thi, tạo lập
là nhờ Lễ, thành đạt là nhờ Nhạc”. Vì thế, Khổng Tử dành nhiều công sức để sưu
tập, chỉnh lý di sản văn hóa cổ (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Nhạc, Kinh Lễ, Kinh
Dịch) và chính ông biên soạn Kinh Xuân Thu. Sau này những sách này trở thành
nh

ững sách Kinh điển của nho gia.
Về Phương pháp giáo dục, Khổng Tử coi trọng kinh nghiệm thực tế, nhấn
mạnh vai trò của việc suy nghĩ tìm tòi, cố gắng của chủ quan, kết hợp học và
hành, th
ấy được mối quan hệ khăng khít giữa người dạy và người học. Ông luôn
khuyên m
ọi người học phải nghe nhiều rồi chọn điều hay mà theo, thấy nhiều để
xét rõ cái hay cái dở mà nhớ lấy, đó là điều quan trọng để trở thành trí giả.
Về mẫu hình con người mà Khổng Tử đào tạo là những sĩ quân tử, những
con người có thể thay m
ình hành đạo ở đời, những quan chức phục vụ các vương
triều quý tộc theo thuyết “Chính danh” và chủ trương “Đức trị”, “Lễ giáo”, là
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 18
những con người sẵn sàng phục vụ chế độ có chính sách “tôn hiền”, “nhiệm
năng” và “cử trực” do ông đề xướng.
Đối với thuyết Chính danh: Khổng Tử đưa ra học thuyết n
ày nhằm ổn
định trật tự x
ã hội, theo ông, danh với thực phải hợp nhau, nếu không hợp nhau
thì gọi tên ra người ta sẽ không hiểu, lý luận sẽ không xuôi, mọi việc sẽ không
thành, lễ nhạc, hình pháp không định được mà xã hội sẽ hỗn loạn.
Đối với Nhân
– Lễ - Nghĩa – Trí thì khái niệm Nhân được Khổng Tử nhắc
tới nhiều lần và tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà Nhân được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa sâu rộng nhất, Nhân là một nguyên tắc đạo
đức trong triết học Khổng Tử. Nhân được ông coi là cái quy định bản tính con
người thông qua lễ, nghĩa, quy định quan hệ giữa người với người từ trong gia
tộc đến ngoài xã hội Nhân cũng có thể hiểu là “trung thứ” tức là đạo đối người,
nhưng cũng là đạo đối với m

ình nữa.
Trong quan niệm của Khổng Tử, Nhân không chỉ là yêu người, thương
người, m
à còn là đức hoàn thiện của con người, và do vậy nhân chính là đạo làm
người, sống với mình và sống với người, đức nhân là cái bền vững như núi sông.
Đối với Lễ, bao gồm nghi thức lễ tế, phong tục tập quán được x
ã hội thừa
nhận, quyền hành của người trị nước và cách tiết chế hành vi của người dân.
Giáo d
ục Lễ nhằm bốn chủ đích: hàm dưỡng tính tình để tình cảm được trọng
hậu, làm gốc cho đạo nhân, giữ tình cảm sao cho trung dung, xác định phân minh
lẽ phải trái, tình thân sơ, trật tự trên dưới, tiết chế những thường tình dung tục
của con người. Khổng Tử cho rằng, chỉ có cách tuân giữ Lễ như những luật tắc
giao tế xã hội ta mới có khả năng thành tựu Nhân, một cách căn bản, chính nghi
lễ và nghi thức làm cho cuộc sống quân bình. Khổng Tử nhiều lần nhấn mạnh
đến Lễ như một phương cách củng cố tôn
ti trật tự của xã hội. Mỗi cá nhân đều
có Lễ thích đáng cho địa vị xã hội của mình.
Song song v
ới Lễ là Nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì phải làm, không
mưu tính lợi của cá nhân mình. Còn Trí trước hết là biết người, có hiểu biết sáng
suốt mới biết cách giúp người mà không làm hại cho người. Trí có lợi cho Nhân,
cho nên khi Khổng Tử nói đến người Nhân – quân tử, bao giờ cũng chú trọng tới
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 19
khả năng hiểu người, dùng người của họ. Phải sáng suốt mới biết yêu người đáng
yêu, ghét người đáng ghét.
5. Nhân sinh, bản thể
Quan niệm về vấn đề con người cũng như bản chất của nó, cả hai trường
phái Nho gia và Pháp gia có những quan niệm riêng. Mỗi trường phái thể hiện

cách nhìn nhận về nhân sinh, bản thể khác nhau. Nếu như phái Nho gia xem con
người hướng theo tính thiện th
ì Pháp gia lại xem con người hướng theo tính ác.
Theo Khổng Tử, bản tính con người vốn nhân từ. Đạo người có Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Dũng, Tín, trong đó Nhân được nhắc đến và là trung tâm của
Đạo. C
òn Pháp gia thì lại cho rằng bản tính con người là ác, người tốt cũng có
nhưng ít, c
òn kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội bình yên, không nên trông chờ
vào số ít, mong họ làm việc thiện mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không
cho họ làm điều ác. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với
con người là tư lợi, ai cũng muốn gi
ành cái lợi cho mình. Luật pháp đặt ra thì cái
l
ợi của nó phải lớn hơn cái hại.
Nho gia cho rằng bản chất con người là không lười biếng. Còn Pháp gia
thì cho r
ằng bản chất con người là lười biếng. Con người khi có dư ăn rồi thì
không mu
ốn làm gì nữa.
Theo Nho gia, bản tính con người phụ thuộc nhiều vào giáo hóa bằng lễ,
nghĩa, đặt tài đức lên trên địa vị, phải có tài đức tới một mức nào đó thì mới xứng
đáng với địa vị, mới không l
àm hại dân. Còn theo Pháp gia, bản tính con người là
ch
ỉ phục tùng quyền lực mà thôi. Đặt địa vị, quyền thế lên trên tài đức, miễn là
tài đức trung bình mà có quyền thế là trị nước được rồi.
Về khía cạnh bản thể, Nho gia cho rằng vạn vật không ngừng biến hóa
theo một trật tự không gì cưỡng lại được mà nền tảng tận cùng của trật tự đó là
thiên m

ệnh. Còn Pháp gia thì thừa nhận sự tồn tại của Lý: tính quy luật hay
những lực lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi hoạt động của tự
nhiên và xã hội. Con người phải nắm lấy cái Lý của vạn vật luôn biến hóa mà
hành động cho phù hợp.
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 20
CHƯƠNG III: VẬN DỤNG NHO GIA VÀ PHÁP GIA
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Qua tìm hiểu và phân tích hai hệ tư tưởng Nho gia và Pháp gia, ta thấy cả
hai vừa có những nét tương đồng và khác biệt. Nho gia và Pháp gia ra đời đều
nhằm đáp ứng nhu cầu thời đại lúc bấy giờ cần một hệ tư tưởng để đưa ra những
phương cách giải quyết cho các vấn đề thực tiễn chính trị, đạo đức, x
ã hội.
Chúng phục vụ cho những mục đích nhất định mà phần lớn là phục vụ cho tầng
lớp thống trị. Tư tưởng Pháp gia đã nói không có gì là bất biến, mỗi một xã hội
lại phù hợp với một chủ trương, chính sách khác nhau. Vận dụng tư tưởng này ta
th
ấy rằng cũng không có một hệ tư tưởng nào phù hợp hoàn toàn với mọi thời
đại. V
ì thế Nho gia có thể phù hợp với thời nguyên thủy hay thời Hán, Tống thì
không th
ể phù hợp với thời đại ngày nay.Tương tự như vậy, Pháp gia có thể phù
h
ợp với thời tiền Tần khi đất nước chưa thống nhất, cần có một hệ thống pháp
luật răn đe nghiêm khắc thì nó lại không phù hợp khi xã hội đã ổn định, thống
nhất. Đó chính là lí do mà nước Tần rơi vào tình trạng bế tắc, dẫn đến cuối cùng
là m
ất nước. Điều đó không có nghĩa là tới thời đại ngày nay Nho gia và Pháp gia
không có giá tr
ị tồn tại và sử dụng. Những tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã

và đang là hệ tư tưởng gắn liền với cuộc sống hàng ngày của mỗi người.
Xuất hiện từ rất lâu đời và đều là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử
Trung Quốc thời cổ đại, có giá trị lịch sử lâu dài và được nhiều nước phương
Đông áp dụng, trong đó có
cả Việt Nam. Hồ Chí Minh, mang tinh hoa của Nho
gia và Pháp gia áp dụng thành công trong cuộc đấu tranh và giải phóng dân tộc
Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng của lớp lớp đời đời con
cháu Việt Nam noi theo.
Với Nho gia, Hồ Chí Minh coi Khổng Tử là nhà nhân văn chủ nghĩa đầu
tiên theo đúng nghĩa của nó. Hồ Chí Minh đặt Khổng Tử ngang h
àng với Giê su,
Các Mác, Tôn D
ật Tiên. Người gọi Khổng Tử là Đức Khổng Tử vĩ đại. Các tác
phẩm, bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh thấm nhuần hệ tư tưởng Nho gia. Ví dụ
như Tăng
Tử nói trong Luận Ngữ là: “Kẻ sỹ cần phải có chí khí rộng lớn và
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 21
cương nghị. Là vì gánh thì nặng mà đường thì xa ” thì Hồ Chí Minh viết: “sức
có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành nhiềm vụ một cách vẻ vang” (Hồ Chí
Minh toàn tập, trang 236). Hoặc Khổng Tử nói về việc tu dưỡng đạo đức trong
Luận Ngữ: “Bậc quân tử như người thợ làm đồ ngà, cần phải cắt, phải cứa, như
người thợ chuốt ngọc, cần phải d
ùi, phải mài” thì Hồ Chí Minh viết: “Đạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống cũng như ngọc càng mài, càng sáng,
vàng càng luy
ện càng trong” (Hồ Chí Minh toàn tập, trang 248). Về nếp sống,
giữa Khổng Tử và Hồ Chí Minh cũng có điểm tương đồng, như Khổng Tử nói
trong Luận Ngữ: “Nếu tự mình giữ theo chính đạo, thì chẳng đợi ra lệnh dân

cũng ăn ở theo chính pháp. Còn nếu như tự mình chẳng giữ theo chính đạo thì
d
ẫu ra lệnh buộc dân theo, dân cũng không theo”, còn Hồ Chí Minh viết: “Tự
mình phải chính trước mới giúp người khác chính. Mình không chính mà muốn
người khác chính l
à vô lý” hay “Mình trước hết phải siêng năng trong sạch mới
bảo người ta trong sạch siêng năng được” (Hồ Chí Minh toàn tập, trang 247).
Trong bài phát biểu nhân lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam tại Việt Bắc
vào tháng 3/1951, Hồ Chí Minh nhắc lại nguyên vẹn lời nói của Mạnh Tử: “Phú
quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”, câu này Người đã
d
ịch ra là: “Giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy
l
ực không thể khuất phục”.
Kh
ổng Tử là nhà giáo dục và là nhà văn hóa lớn. Ông là người “học nhi
bất yếm, hối nhân bất quyện” tức là học không biết chán, dạy không biết mệt
mỏi. Hồ Chí Minh cũng là người hết sức hiếu học và hết sức coi trọng giáo dục.
Vào thời điểm đất nước rơi vào hoàn cảnh khó khăn, đói kém, giặc ngoại xâm
hoành hành, Người vẫn giương cao tinh thần: diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại
xâm. Trong hoàn cảnh hơn 2 triệu người bị chết đói và thảm họa ngoại xâm,
Người vẫn cho rằng chống giặc dốt l
à hết sức quan trọng. Thế mới việc, giáo dục
đối với Hồ Chí Minh có vai tr
ò vô cùng lớn trong đời sống xã hội, dù là thời đại
nào đi chăng nữa. Học tập v
à phấn đầu để đạt đạo là lí tưởng của các nhà Nho,
Kh
ổng Tử nói: “sớm nghe đạo, chiều chết cũng cam”, Hồ chí minh trả lời các
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia

Tiu lun trit hc Trang 22
nhà báo rằng: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta
được hoàn toàn đọc lập, dân ta được ho
àn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học h
ành” (Một cách tiếp cận văn hóa, trang 276).
Trong tư tưởng Nho gi
a, Ngũ luân chính là tư tưởng mà Hồ Chí Minh vận
dụng nhiều nhất. Ngũ luân là 5 mối quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em,
bạn bè. Đó là đạo và đạo thì Hồ Chí Minh đã nói: “Hiếu là Hiếu với nhân dân, ta
thươn
g cha mẹ ta mà còn phải thương cha mẹ người, phải làm cho mọi người đều
biết thương cha mẹ” (Hồ Chí Minh toàn tập, trang 243). Ngoài ra năm nét đức
hạnh hằng xuyên của Nho giáo: Ngũ thường gồm có Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín
cũng được Hồ Chí Minh vận dụng. Khổng Tử lúc đầu chỉ nêu ra ba đức hạnh:
Nhân, Trí, Dũng, Mạnh Tử chuyển thành: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Đổng Trọng Thư
bổ sung thêm Tín, Hồ Chí Minh sử dụng nguyên vẹn ba chữ của Khổng Tử, một
chữ Mạnh Tử, thêm vào chữ Liêm thành là: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm.
Nói m
ột cách chung nhất, Hồ Chí Minh vận dụng Nho giáo một cách
nhuần nhuyễn nhất, với những nhân tố tiến bộ, hợp lý tron đạo đức, kế thừa và
phát tri
ển những mặt tiến bố, kinh nghiệm giáo dục đạo đức của Nho giáo để rèn
luy
ện, bồi dưỡng đạo đức cách mạng. Tự mình tu thân và giúp người tu thân, Hồ
Chí Minh đ
ã vận dụng thành công tư tưởng Nho giáo trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc, giành chiến thắng vẻ vang.
Đối với việc vận dụng
Pháp trị, Hồ Chí Minh cho rằng quản lý xã hội

bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và tính chất phổ biến đối với các xã hội hiện
đại. Xuy
ên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người, Hồ Chí Minh chủ
trương tinh thần pháp luật phải chi phối, chỉ đạo mọi h
ành vi, hoạt động của bộ
máy, cơ quan nhà nước, môi trường pháp lý phải bao tr
ùm mọi mặt, mọi lĩnh vực
đời số
ng xã hội. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh chủ trương xây
dựng Hiến pháp vì trong nhận thức của Hồ Chí Minh, pháp luật của chế độ xã hội
có những giá trị nhân bản chung mà chúng ta có thể kế thừa, phát triển. Hồ Chí
Minh đ
ã nhìn nhận pháp luật trong chiều sâu văn hóa của nó. Sau năm 1954, khi
đất nước đạt được nhiều th
ành tựu quan trọng, Hồ Chí Minh chủ trương sửa đổi
và ban hành Hiến pháp mới – Hiến pháp 1959. Dựa theo tư tưởng biện chứng của
So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 23
Hàn Phi Tử là thời biến pháp biến, một khi điều kiện kinh tế xã hội thay đổi thì
pháp lu
ật cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ
xã hội đã phát sinh và định hình. Mỗi thời đại khác nhau thì việc vận dụng chính
sách pháp luật cũng phải khác nhau. Như vậy, tư tưởng biện chứng của Hàn Phi
t
ử trong hệ tư tưởng Pháp gia cũng được Hồ Chí Minh nhìn nhận và vận dụng
hợp lý. Ngoài ra, khi vận dụng pháp trị, Người còn cho rằng khi thực thi luật
pháp, việc thưởng phạt phải nghiêm minh vì nếu thưởng phạt không nghiêm
minh thì ng
ười tận tụy lâu ngày cũng thấy chán, còn người hư hỏng thì lại vi
phạm pháp luật. Người cho rằng, trong một nước, thưởng phạt nghiêm minh thì

nhân dân m
ới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Tư
tưởng n
ày của Hồ Chí Minh có thể tìm thấy trong các tác phẩm để lại của Hàn
Phi T
ử. Với việc đề cao pháp luật trong quá trình xây dựng đất nước, Hồ Chí
Minh khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và
phát huy hi
ệu lực thực tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản lý xã hội.
Đề cập đến chế độ pháp trị, Hồ Chí Minh đ
ã nói, tư pháp cần góp phần mình là
th
ực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ
dân chủ nhân dân.
Như vậy, Hồ Chí Minh đ
ã chắt lọc những tinh túy nhất của Nho gia và
Pháp gia và v
ận dụng chúng trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và
xây d
ựng đất nước. Người đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội
bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản
lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân. Hồ Chí Minh nhận rõ cả pháp luật và đạo đức đều dùng để điều chỉnh
hành vi của con người, nâng con người lên hướng đến chân, thiện, mỹ. Pháp luật
góp phần hoàn thiện nhân cách con người, còn đạo đức làm cho con người thực
hiện luật pháp một cách tự giác. Đạo đức là cơ sở để xây dựng và thực hiện pháp
luật. Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh được
thể hiện ở quan niệm xử lý các hành vi phạm pháp nguyên tắc có lý có tình, chi
ph
ối mọi hành vi ứng xử của con người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình, tùy từng

So sánh sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
Tiu lun trit hc Trang 24
trường hợp, tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt
khác.
Ch
ủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà chính trị gia lão luyện và sáng suốt đã
thâu hái được những kinh nghiệm lịch sử quý báu trong văn hóa trị nước của loài
người và đã vận dụng nó một cách nhuần nhuyễn, sáng tạo. Trong suốt 24 năm ở
cương vị đứng đầu Nhà nước, Người l
à một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và
pháp lu
ật, luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng
cao vai trò, sức mạnh của pháp luật.

×