Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.43 KB, 27 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC






TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài số 3:

“SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA
VÀ PHÁP GIA”




SVTH : Nguyễn Quan Hiển
STT : 27
NHÓM : 02
LỚP : Cao học đêm 1 – K20
GVHD : TS Bùi Văn Mưa





Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2011




- 1 -
MỤC LỤC
MỤC LỤC
1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 2

PHẦN 2: NỘI DUNG
3
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA
3
1.1 KHÁI QUÁT NHO GIA 3
1.1.1 Lịch sử hình thành và đặc điểm 3
1.1.1.1 Lịch sử hình thành 3
1.1.1.2 Đặc điểm nho gia 4
1.1.2 Các quan điểm của nho gia 5
1.2
KHÁI QUÁT PHÁP GIA 6
1.2.1 Lịch sử hình thành và đặc điểm 6
1.2.2 Các quan điểm của pháp gia 7
1.2.2.1 Trị nước 7
1.2.2.2 Tư tưởng biện chứng 9
CHƯƠNG 2 SỰ TƯƠNG ĐỒNG & KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA & PHÁP GIA
10
2.1 SỰ TƯƠNG ĐỒNG 10
2.2 SỰ KHÁC BIỆT 11
2.2.1 Về trị quốc 11
2.2.2 Về chính trị xã hội 16
2.2.3 Đề cập các tố chất nhà cầm quyền 19

2.2.4 Tư tưởng biện chứng 19
2.2.5 Về giáo dục đạo đức xây dựng con người 21
2.3
NHẬN XÉT 23

PHẦN 3: KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
26
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐2‐
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự
phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn
thiện của hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Nếu Phương Đông là chiếc
nôi lớn của văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn
hoá triết học cổ xưa rực rỡ
, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Triết học Trung
Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển
rực rỡ nhất, có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm
thấy”; “Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của
triết học Phương Đông thời đó phải kể
đến trường phái triết học Nho gia và Pháp
gia, đây là hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận
ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội…
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói chung,
sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm chung,
dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát tri
ển kinh tế. Một trong những
nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải xây

dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự
tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về
hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư
tưởng
ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội đương thời.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em
hoàn thành bài viết này!



Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐3‐
PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA
1.1. KHÁI QUÁT NHO GIA
1.1.1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
1.1.1.1. Lịch sử hình thành:
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ
thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người
đời sau coi
ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh
gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về
sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh.
Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạ
n ra cuốn Luận

ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào
lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp,
còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra
các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ
Khổng Tử
đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần
(trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành
hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó
còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu
trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều
mà các nhà Nho cần phả
i thực hành.
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐4‐
Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán
Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực củ
a
giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối
đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các
tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử
), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế
kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình").

Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với
Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các
yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
1.1.1.2. Đặc điể
m của Nho gia:
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức
xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được
người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân
tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém
về đ
iạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao
thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức
hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho
giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử
,
con người ta trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐5‐
quân tử phải có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho
gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao
chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những
nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần
phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có
Đạo, tức là nắm được đạo
trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được
gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát
triển và tồn tại của nó.
1.1.2. Các quan điểm của Nho gia:
Nho gia đặt vấn đề xây dựng con người một cách thiết thực. Nho gia hướng

con người vào tu thân và thực hành đạ
o đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất,
luôn được đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Theo nho giáo, năm mối quan
hệ mà con người phải xác định và làm tròn trách nhiệm của mình trong các quan hệ
ấy là Vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, bè bạn (Ngũ luân), trong đó ba điều chính
là vua tôi, cha con, chồng vợ (Tam cương). Trong ba điều chính có hai điều mấu
chốt là vua – tôi, biểu hiện bằng đức trung, cha – con biểu hiệ
n bằng đức hiếu. Giữa
trung và hiếu thì trung đứng đầu. Những đức con người thường xuyên phải trau dồi
là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (Ngũ thường). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa, trong
đó nhân là chủ. Vì vậy, gọi đạo của Khổng Tử là đạo nhân.
Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia là con người phải xuất phát từ
năm mối quan hệ đó, rồi từ đó mới yêu quý rộng ra ng
ười khác. Trong hoàn cảnh xã
hội, Trung Quốc thời cổ đại, trung đại, mỗi học thuyết nêu trên đều có mặt tích cực
và hạn chế của nó. Trong đó, Nho gia đặt con người trong năm mối quan hệ với
những lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và nội dung tu dưỡng
của con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp phần củng cố trật tự xã hội, nó
là s
ản phẩm của xã hội và cũng là nguyên nhân trì trệ của xã hội đó.
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐6‐
1.2. KHÁI QUÁT PHÁP GIA
1.2.1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất
sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và
phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng
Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắ
c để trị

nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có
giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ
bởi những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương
Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Quản Trọng (ch
ữ Hán: 管仲) là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng
Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Ông nổi tiếng với "chiến lược không đánh
mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình -
đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để
giáo huấn. Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua
việc tiến hành rất nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế.
Đối với ông, người trị nước phả
i coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định
danh phận cho mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị
những kẻ làm trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải.
Quản Trọng được đánh giá là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối
Nho gia với Pháp gia.


Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐7‐
Sang nữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển.
Thương Ưởng (商鞅 - khoảng 390 TCN-
338 TCN) được vua
Tần tin dùng áp dụng chính sách Pháp trị của mình coi trọng
hiến pháp, chủ trương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các
chính sách khuyến khích dân chúng lao động, binh sĩ chiến
đấu. Thân Bất Hại (401-337 TCN) chủ trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo

(370-290 TCN) chủ trương dùng th
ế, Ngô Khởi (440 – 381 TCN) cho rằng muốn
làm cho nước mạnh phải biết đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì
nước liều mình.
Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi (韓非 - khoảng 280 - 233 TCN) là học giả nổi
tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp
gia, Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách
triệt để, cho rằng con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông
không bàn đến nhân nghĩa, c
ũng không trọng lễ như Tuân Tử,
mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị
nước.Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước
được mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh
tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị.
Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể
viện dẫn theo
“đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc gia, “Vô vi nhi trị” của Đạo gia như
trước nữa mà phải dùng Pháp trị. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng
pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc
bấy giờ.
1.2.2 Các quan điểm của Pháp gia:
1.2.2.1. Trị nước: phải kết hợp các yếu tố:
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐8‐

Pháp Hình Nông Chiến Nghệ Thế
Luật Phạt Nghiệp Tranh Thuật Lực
• Nội dung chủ yếu của Pháp luật, hình phạt là thưởng, phạt. Thưởng hậu thì
điều mình muốn dân làm, dân mau mắn làm. Phạt nặng thì điều mình ghét và cấm

đoán thì dân mới tránh, từ đó mới khuyến khích dân làm điều thiện, ngăn ngừa điều
ác. Theo Hàn Phi Tử thì hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được 6 h
ạng người: bọn
hàng giặc, sợ chết; bọn lìa xa pháp luật; bọn ăn chơi xa sỉ; bọn bạo ngược, ngạo
mạn; bọn dung thứ lũ giặc, che dấu kẻ gian và bọn nói khéo, khoe khôn, dối trá. Và
khuyến khích được 6 loại người : những người lăn mình vào chốn hiểm nghèo, dám
hi sinh; những người tuân theo pháp luật; những người dốc sức làm ăn, làm lợi cho
đời; những người trung hậu, thật thà, ngay thẳ
ng, hiền lành; những người giết giặc
trừ gian và những người làm sáng tỏ lệnh trên.
Chủ trương xây dựng pháp luật tuân theo 4 nguyên tắc: nguyên tắc 1: thiên
thời, địa lợi, nhân hòa; Nguyên tắc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân nhắc
kỹ càng; Nguyên tắc 3: pháp luật phải soạn thảo sao cho dâm dễ hiểu, dễ thi hành,
phải được áp dụng nhất loạt với mọi người; Nguyên tắc 4:
pháp luật phải công bằng,
phải mang tính phổ biến. Đối tượng tác động của pháp luật là toàn xã hội, tất cả thần
dân; không phân biệt đẳng cấp từ quan lại đến tướng lĩnh đã phạm tội thì phải chịu
tội, tội nặng hay nhẹ đều không được bỏ qua. Ông cũng đòi hỏi bậc minh chủ sai
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐9‐
khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động
trái pháp.
• Về nông nghiệp: phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán (ức thương), tập
trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội
mạnh.
• Về chiến tranh: trường phái pháp gia chủ trương xây dựng quân đội hùng
mạnh đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải quyết
chiến tranh.
• V

ề Thuật: thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược
khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai
dùng họ như thế nào. Vua trị dân thông qua quan lại, quan lại tốt thì dân không loạn,
quan lại xấu thì dân nổi loạn. Thuật dựa trên hai nguyên tắc, thứ nhất bề tôi tức là
quan lại không làm hết trách nhiệm hay vượ
t quá trách nhiệm của mình đều bị phạt;
thứ hai là “Công”, “Danh”
tức là lời nói và việc làm của quân thần không cân
xứng cũng phạt. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài năng, trao đúng chức vụ,
quyền hạn và loại được kẻ bất tài.
• Về Thế: là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa vào thế
mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực hiệ
n pháp luật.
Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn, thế quan trọng đến mức
có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được pháp thì phải có thế,
Pháp và Thế không thể tách rời nhau.
1.2.2.2. Tư tưởng biện chứng:
Quan điểm thời biến, pháp biến thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội:
m
ọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù
hợp. Không nên bắt chước người xưa mà phải xuất phát từ thực tế trước mắt, không
dùng lời lẽ cố nhân để biện hộ cho sự yếu kém của mình. Đại diện Hàn Phi Tử cho
rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐10‐
biến chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân
không thay đổi thì thiên hạ loạn.
Theo Hàn Phi Tử, ông thừa nhận sự tồn tại của lý-tính quy luật hay những lực
lượng khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội.

Ông yêu cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động
cho phù hợp.
Thừa nhận b
ản tính con người là ác, cho rằng trong xã hội người tốt ít, còn kẻ
xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ
làm việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn
không cho họ làm điều ác.
Chương 2: SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP
GIA
2.1. SỰ TƯƠNG ĐỒNG
Khi so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta thấy có những
điểm
tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh hưởng này:
Thực túc = Nông nghiệp
Binh cường = Chiến tranh
Hướng đến sự thái bình, nhằm mục đích ổn định đất nước.
Tuân Tử (nho gia) coi con người sinh ra vốn bản chất là ác = Hàn Phi Tử
cũng có cùng quan điểm (Hàn Phi Tử là học trò của Tuân Tử).
Đều là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử Trung Quố
c cổ Đại, có giá trị
lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐11‐
Nhìn nhận Cấu trúc xã hội cùng những bất bình đẳng như một thực tế đã định
và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Cái giá phải trả để có sự hòa
hợp xã hội là cá nhân thuận theo xã hội.
Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải
quyết cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức - xã hội mà thời đại lúc bấy gi


đã đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định
Cả Nho gia và Pháp gia đều cố lý giải và tìm cách giải đáp theo những yêu
cầu của thực tiễn lịch sử xã hội Trung Quốc lúc đó đặt ra hòng “cứu đời cứu người”
theo cách của mình
Cả hai tư tưởng của Nho gia và Pháp gia cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy
giờ lâm vào bế tắc". Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh - Thanh trở nên già c
ỗi,
khắt khe và bảo thủ, còn nhà Tần do thực hiện triệt để tư tưởng Pháp gia quá nên
cuối cùng mất nước. Hướng đến mục đích ổn định XH.
2.2. SỰ KHÁC BIỆT
2.2.1 Về trị quốc
Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp,
hình phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân
tình khổ sở là do không “chính danh”, muốn xã h
ội ổn định và phát triển thì phải
giáo hoá đạo đức và thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính danh, định phận” là
làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người
ấy cứ thế mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự được phân minh,
“Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (Luận ngữ, Nhan
Uyên, 11). Khi Tử Lộ hỏi về chính trị, Khổng Tử đáp: Muốn trị nước, trước hế
t phải
thực hiện “chính danh”, bởi vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn,
lời nói không đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng
danh thì đúng với phận, với nghĩa, đã xưng danh đúng với danh phận, thì phải tùy
theo đó mà làm” (Luận ngữ, Tử Lộ, 3).
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐12‐
Khổng Tử cho rằng: Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép

mà dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị
dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và
thực lòng quy phục. Nội dung đường lối đức trị là thực hiện 3 điều: dân đông, kinh tế
phát triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong công việc,
gìn giữ chữ tín, tiết kiệ
m trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức dân hợp lý… Để
xây dựng xã hội đại đồng, cần dựa vào sự nghiệp giáo dục để uốn nắn nhân cách, bồi
dưỡng đào tạo nhân tài theo hai phương châm: tiên học lễ, hậu học văn và học đi đôi
với hành, học để vận dụng vào thực tế. Để học tốt, người học trò phải có tinh thần
khiêm tốn và cầu ti
ến, biết suy tư và luôn tích cực trong học tập… Mạnh Tử chủ
trương thực hành đường lối đức trị dựa trên tinh thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc thứ
chi, quân vi khinh có nghĩa là, Dân quý nhất, kế đến là đất nước và lúa gạo, còn vua
là cái quý sau cùng), nhân chính và thống nhất…
Khổng Tử cho rằng: Danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng
thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ - nhạc bất hưng, lễ - nhạc bất
hưng thì hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân bi
ết bám víu vào
đâu? Người quân tử quan niệm được danh thì nói được, nói được thì làm được.
Theo Mạnh Tử thì cách cai trị đất nước bằng đức trị và thực hành chính danh
để xây dựng một xã hội đại đồng,… Triết lý này được trình bày thành một hệ thống
bao gồm các tư tưởng về đạo đức – chính trị – xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Có thể khái quát như sau:
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng xã hội, cơ
sở gia đình không phải là
những quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt là
3 quan hệ (đạo) vua – tôi, cha – con, chồng - vợ. Khi các quan hệ này chính danh,
nghĩa là: vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ thì
xã hội ổn định, gia đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc
loạn lạc, luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lõng lẽo là do 3 quan hệ

Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐13‐
này rối loạn, do danh - thực oán trách nhau, nghĩa là, vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra
tôi; cha chẳng ra cha, con chẳng ra con; vợ chẳng ra vợ, chồng chẳng ra chồng. Vì
vậy, muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì phải chấn chỉnh lại
3 quan hệ đó. Để chấn chỉnh lại 3 quan hệ đó, Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo
đức làm cứu cánh.
Nếu như Nho gia đề cao đức trị thì Pháp gia
đề cao "Thế" (Thận Đáo),
"Thuật" (Thân Bất Hại), "Pháp"( Thương Ưởng) trong phép trị nước và Hàn Phi Tử
là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó.
Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó, "Pháp" là nội
dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ. Pháp được hiể
u là qui định,
luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân theo; là tiêu
chuẩn khách quan để định rõ danh phận, trách nhiệm của con người trong xã hội.
Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn
trong pháp, không hành động trái pháp; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo nên sức
mạnh. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn (Tôn quân
quyền). Theo Hàn Phi, thế quan trọng
đến mức có thể thay thế vai trò của bậc hiền
nhân. Muốn thi hành được pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời nhau.
còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Là
mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu
người sai dùng họ như thế nào. Thuật bao gồm 3 mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và
thưởng phạt. Tất c
ả đều là công cụ của bậc đế vương. Trước hết nói về "Pháp".
Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, "Pháp" là phạm trù triết học được hiểu theo hai

nghĩa: Theo nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất
nước; theo nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính
nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triể
n lý luận pháp trị của pháp gia thời
trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở, thưởng
hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật,
phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp". Nội dung chủ yếu của pháp luật
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐14‐
theo Hàn Phi là thưởng và phạt và ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ
vững chính quyền. Ông chê Thương Ưởng chỉ biết phạt tội mà không thưởng công
và cho rằng cần phải thực hiện toàn diện cả hai mặt khuyến khích và răn đe thông
qua thưởng và phạt. Bởi vì "thưởng mà hậu thì điều mình muốn cho dân làm, dân
mới mau mắn mà làm, phạt mà nặng thì điều mình ghét và cấm đoán, dân mới mau
mắn mà tránh thưởng hậ
u không phải chỉ để thưởng công, mà còn để khuyến
khích dân chúng nữa, phạt mà nặng không phải chỉ là phạt một kẻ gian mà còn để
ngăn kẻ bậy trong nước ". Điều đáng chú ý là song song với việc "thưởng hậu, phạt
nặng" Hàn Phi còn đưa ra chủ trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Ông
cho rằng sự trừng phạt không cần biết đến tước vị của giới quý t
ộc vì luật không xu
nịnh giới quý tộc. Nội dung thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện "Pháp" "để cứu
loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám
đông không hiếp đám số ít, người già được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được
nuôi lớn, biên giới không bị xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau,
không lo bị giết hay bị
cầm tù". Với nội dung và mục đích như trên "Pháp" thật sự là
tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm
cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy, "Pháp"

trở thành cái gốc của thiên hạ.
Cùng với "Pháp", "Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp
gia cho rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng
thi hành thì nhà vua ph
ải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của
người cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đến mức
có thể thay thế được hiền nhân: "Chỉ có bậc hiền trí không đủ trị dân, mà địa vị
quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy Kiệt làm thiên tử chế ngự được
thiên hạ không phả
i vì hiền mà vì có quyền thế. Nghiêu thất phu không trị nổi ba
nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp". "Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của
vua mà còn là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Hàn
Phi giải thích: "Cái ná yếu lại bắn được mũi tên lên cao là nhờ có "gió kích động",
và nếu không có sự trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐15‐
thiên hạ”. Để nâng cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất
mọi thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng
"Nước của bậc minh chủ thì lệnh là cái quý nhất của lời nói, pháp là cái thích hợp
của việc làm. Lời nói không có hai cách đều quý, việc làm không có hai cách đều
thích hợp cho nên lời nói và việc làm mà không đúng với pháp lệnh thì cấm". Sau
"Pháp" và "Thế", pháp gia rất chú ý đến "Thuật" trong đườ
ng lối pháp trị. "Thuật"
trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người,
dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện
và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Nhiệm vụ chủ yếu của "Thuật" cai trị là
phân biệt rõ ràng những quan lại trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh ma
giáo, thử nă
ng lực của họ, kiểm tra công trạng và những sai lầm của họ với mục

đích tăng cường bộ máy cai trị trên cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế".
"Thuật" còn thể hiện trong "thuật dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản
của thuật dùng người là: "Chính danh", "Hình danh", "Thực danh". Chẳng hạn một
người hứa đến thăm ta thì lời hứa đó là "Danh" còn hành động tới thă
m là "Hình"
hay "Thực" vậy. Nếu người đó đến thăm thực thì chứng tỏ "danh", "hình" (hay
"danh" và "thực") hợp nhau, "danh" và "thực" hợp nhau là "chính danh", còn "danh"
và "thực" không hợp nhau là trái, là không "chính danh" từ đó sẽ có căn cứ mà
thưởng phạt một cách nghiêm minh. "Thuật" phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh
làm đầu, danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi
làm ra hình. Nếu hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi ngườ
i
trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai
dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì
vua phải biết dùng "Thuật". "Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời mà trao
việc, cứ theo việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công
không xứng việc thì phạt". Ngoài các nội dung "Pháp", "Thế", "Thuật" đã nêu ở
trên, tư tưởng Pháp gia còn h
ết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ
sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông
nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐16‐
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và
phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát
triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa đượ
c
phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn

Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của pháp gia là
muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội
có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ"
được. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được v
ương quốc Tần ra sức vận dụng
và kết cục đã đưa nước Tần đến thành công trong việc kết thúc cục diện phân tán cát
cứ, thống nhất được đất nước Trung Hoa sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
2.2.2. Khác biệt về chính trị - xã hội:
Khổng Tử – người sáng lập Nho gia làm hết sức để nhằm mục đích cho
người quân tử cai trị đất nước. Ông tin ch
ắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước
chính là tự chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự
nhiên mang lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng nói: “Bản thân
mà chính đáng, dù không cần mệnh lệnh thì (người khác) cũng thi hành; còn nếu
bản thân không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người khác) cũng không tuân
theo” (Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân b
ất chính, tuy lệnh bất tòng. Luận
Ngữ. Tử Lộ). Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua đều phải như Nghiêu Thuấn –
thánh hiền mang tính lý tưởng, song theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong
việc trị nước chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là
“nhân” và đạt được qua “lễ” (chế ước bản thân quay về với điều lễ là nhân. “Khắc
kỷ ph
ục lễ vi nhân”). Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ, thường coi xưa hơn nay;
tâm nguyện của ông là làm sao để xã hội có thể trở về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử,
ông tổ phái Mặc gia, cũng rất đề cao quá khứ. Theo ông, một trong ba tiêu chuẩn
của chân lý (phép “Tam biểu”), là lời nói của thánh nhân đời xưa, hay những gì đã
từng được nói đến trong quá khứ. Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức s
ắc sảo
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia


‐17‐
loại quan điểm này: “Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ
trương của hai người khác nhau. Họ đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính.
Nghiêu, Thuấn không sống lại, vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc là đúng
với Nghiêu, Thuấn? Đời Ân, đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời Hạ trước
đấy đã hơn hai ngàn năm mà còn không quyết
định được cái đúng của đạo Nho và
đạo Mặc. Nay lại muốn nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách đây đã ba ngàn
năm, chẳng phải là không thể nào làm được sao? Nếu như không tham nghiệm được
mà lại quyết định ngay thì đó là ngu. Nếu không thể quyết định được mà lại theo
ngay thì đó là dối trá. Cho nên chuyện nêu cao các tiên vương, quyết định theo
Nghiêu và Thuấn nếu như không phải là ngu thì cũng là dối trá vậy. Cái học ngu và
d
ối trá, cái hành động bác tạp và trái pháp luật này vị vua sáng không theo”. Các
nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính
phổ quát nhất định, hay nói cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói
chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn
muốn tự khoác lên mình.
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người
khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao,
mà là nền pháp trị c
ủa nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng và Tề Hoàn
Công thường được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng này. Các nhà Nho
tôn quân, Hàn Phi cũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu khác. Ông viết:
“Bọn nhà Nho đời nay nói với nhà vua lại không nói đến cái làm cho đời nay được
trị mà nói đến công lao trị an ngày xưa, không hiểu rõ công việc phép quan, không
xét kỹ cái tình hình của bọn gian tà, mà đều nói đến những chuyện truyền lại từ th
ời
thượng cổ, ca ngợi công lao của các tiên vương. Bọn nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo:
‘Nghe lời nói của ta thì có thể làm bá vương’. Loại người nói như vậy cũng như bọn

thày cúng, đồng cốt, vị vua có pháp độ không nghe. Cho nên vị vua sáng nêu lên
những việc có thực, bỏ cái vô dụng, không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời
bọn học giả”.
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐18‐
Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định
và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực
chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình
phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ.
Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc ph
ạm số ít, người
già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị
xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”.
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông
có một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời
xưa để phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đố
i hóa để đo hiện tại, Hàn
Phi cho rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ
chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự
chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế: “Trẻ con
đùa nghịch với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nh
ưng
chiều đến, thế nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để chơi,
nhưng không thể dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, hùng biện
mà không chắc chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà không biết sửa
đổi nước, thì đó cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chứ không dùng
để
trị nước”.
Hàn Phi phê phán một cách gay gắt những người hủ Nho, coi đó là “bọn học

giả dốt nát ở đời không biết bản chất của việc trị và loạn, cứ nói năng nhảm nhí và
dẫn những sách của người xưa để làm rối việc cai trị ở đời này Nếu nghe lời họ thì
nguy, nếu dùng kế họ thì loạn. Đó là điều ngu hết s
ức lớn và là mối lo hết sức lớn”.
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật.
Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới
ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh,
làm cho dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐19‐
nào luôn luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi
hành pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu
thì nước yếu”, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị
quốc), chủ trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình
phạt không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá
bất tị
đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp
luật và chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp”
làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”.
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những k

cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Đây là một tư tưởng hết
sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công”
khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền
đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật
để tránh phạm pháp; lấy đó làm chu
ẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không
phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích

cực, chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là
“hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp” có
thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
2.2.3. Đề
cập đến tố chất của nhà cầm quyền
Nho gia nói rằng người cầm quyền cần phải có đức tức là dùng đức trị, phải là tấm
gương cho người dưới noi theo
Pháp gia coi trọng cái tài của nhà cầm quyền.
2.2.4. Tư tưởng biện chứng:
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐20‐
Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia: điều
hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho xã hội
phát triển theo đúng hướng của nó. Còn Nho gia không đề cập đến điều này
Pháp gia: quan điểm thời biến
Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ trương phải thích hợp
với th
ời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Do không có chế độ xã
hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho mọi xã hội.
Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch
sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách
trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào
luôn luôn đúng với mọi th
ời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì
thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn
Nho gia: quan điểm bất biến
Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra thế giới và con người, nên trời
đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung quanh con người, lương tri,
lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên con người phải biết kính trờ

i,
luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời.
Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và
nâng cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông vua
mà thôi. Bởi vậy mà Đổng Trọng Thư đã nói một câu lừng danh: Thiên bất biến,
Đạo diệc bất biến (Trời không thay đổi thì đạo cũng không thay đổi). Khổng T

dựa vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính danh
Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu
vốn đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không
thể không cúi đầu trước con trời (Thiên tử)
Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên. Con người
một khi đã thần phục trước siêu nhiên thì cũng không khó khă
n lắm để chuyển sang
thần phục trước “siêu người”
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐21‐
Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là
do trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù
hợp với cái Danh.

2.2.5. Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người
• Về quan niệm đạo đức con người
Nho gia thể hiện tính nhân bản sâu sắc trong những quan niệm về đạo đức con
người. Họ xét đạo đức con ng
ười dựa trên hệ thống các phạm trù như : nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín, dũng… Với nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo đức Nho gia.
Nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người. Theo Khổng Tử,
nhân đó là lòng thương người (ái nhân), còn Mạnh Tử cho rằng nhân đó là lòng trắc

ẩn. Nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải làm, bất kể điều đó
có đ
em lại lợi ích gì cho người thực hiện việc làm đó hay không. Theo Nho gia thì
đạo đức là phương tiện chủ yếu để cai trị đất nước, là điều kiện quan trọng để hình
thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố và duy trì trật tự xã hội.
Pháp gia thừa nhận bản tính con người là ác mà không xem xét vấn đề đạo đức
con người dựa trên các phạm trù đạo đức như phái Nho gia. Do khẳng định bản tính
con ngườ
i là ác nên theo họ, trong xã hội, người tốt thì ít mà người xấu thì nhiều. Vì
vậy để xã hội được yên bình, không thể trông chờ vào số ít người tốt làm việc thiện
(thực hiện nhân nghĩa trị) mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ
làm điều ác (bằng cách thực hiện Pháp trị : lấy pháp luật làm căn bản trong việc cai
trị đất nước, đặt pháp luật một cách rõ ràng và ban bố r
ộng rãi trong cho mọi người
cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh). Vì quá nhấn mạnh đến biện pháp trừng phạt
nặng nề, đồng thời thủ tiêu văn hóa, giáo dục và phủ nhận tình cảm, đạo đức con
người nên phái Pháp gia đã đi ngược lại xu hướng phát triển của văn minh nhân
loại.
• Về giáo dục con người
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐22‐
Thể hiện rõ ở thuyết nhân trị : Quan niệm nhà cầm quyền phải lấy đạo đức mà
giáo dục và cảm hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không phải dùng đến biện pháp cưỡng
chế và hình phạt như phái Pháp gia.
Từ việc thừa nhận bản tính con người là ác nên quan điểm về giáo dục con người
của phái Pháp gia mang tính hà khắc. Thể hiện ở thuyết Pháp trị qua ba quan điểm
Pháp, Thế, Thuật:
Pháp được hi
ểu là những qui định có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong

xã hội phải tuân theo.
Thế được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Muốn
thi hành được Pháp thì phải có Thế.
Thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược điều khiển việc,
khiến người ta triệt để thực hiện các mệnh lệnh mà không hiểu ng
ười sai dùng họ
như thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt.
• Về xây dựng con người
Nho gia quan niệm xây dựng con người theo chuẩn mực đạo đức, đó là tiêu
chuẩn của người quân tử : muốn trở thành người quân tử phải tu thân. Để tu thân
phải đạt đạo (là con đường phải theo, đó còn là quan hệ mà con người phải biết giữ
để biế
t ứng xử trong cuộc sống). Ngoài đạt đạo, người quân tử phải đạt đức, phải thể
hiện được những phẩm chất tốt đẹp trong cuộc sống, đồng thời phải biết thi, thư, lễ,
nhạc . Lấy tu thân làm gốc nhưng người quân tử phải biết hành động tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ. Để hành động hiệu quả, người quân tử phải thự
c hành đường lối nhân
trị, đó là cai trị bằng tình người, bằng sự yêu người, coi người như bản thân mình.
Không những thế, người quân tử còn phải chính danh (vua cho ra vua, tôi ra tôi, cha
ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ).
Với mong muốn xây dựng được một xã hội đại đồng, Khổng Tử và các học trò
của ông đã đưa ra quan điểm về xây dựng con người như sau:
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐23‐
Vua : mang phẩm chất của người cai trị, phải là người quân tử, không thể là dân võ
biền mà phải là người có vốn văn hóa toàn diện. Vua phải hiểu và thực hành đạo
đức, khi đó trên dưới sẽ hòa mục.
Tầng lớp nhân dân : lấy hiếu, đễ làm gốc thì từ một nhà nhân hậu sẽ làm cho cả
nước nhân hậu. Xã hội khi ấy sẽ thái bình và ổn định, có trật tự kỷ cương, đời số

ng
vật chất đầy đủ, mọi người trong xã hội sẽ được giáo hóa.
Tuy nhiên việc chỉ đơn thuần lấy giáo dục đạo đức làm cốt yếu để xây dựng một xã
hội đại đồng như Khổng Tử mong muốn là chưa đủ. Vì nền tảng kinh tế của xã hội
đó với chế độ công hữu đã không còn, khi mà chế độ tư hữu ngày càng phát triển
vào thời b
ấy giờ.
Quan điểm của Pháp gia trong việc xây dựng con người trong xã hội không
như Nho gia :
Vua : là người cai trị không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân, theo nghĩa phải
sáng suốt và am hiểu những nguyên tắc pháp trị, và chịu khép mình trong những
nguyên tắc đó. Người cai trị phải đặt ra hệ thống luật pháp một cách rõ ràng, ban bố
rộng rãi cho mọi người cùng biết để tuân theo.
Tầng lớp nhân dân : hiểu rõ và thực thi nghiêm ch
ỉnh luật pháp đã định.
Hàn Phi Tử đòi hỏi vua phải dùng Pháp như trời (nghiêm minh, không vị nể), dùng
Thuật như quỷ (linh động, uyển chuyển). Nghĩa là nếu như Pháp được công bố rộng
rãi trong nhân dân, bắt buộc họ phải tuân theo thì thuật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn
của vua được dấu kín. Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài năng, trao đúng chức
vụ quyền hạn và lo
ại được kẻ bất tài.
2.3. NHẬN XÉT
Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở khía cạnh nào đó có thể nói rằng, phù
hợp với tình hình chung, coi "Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng cả
Sự tương đồng và khác biệt giữa nho gia và pháp gia

‐24‐
đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách". Với tính cách tế bào xã hội, vườn ươm các nhân tài của đất nước, nơi nuôi
dưỡng những công dân mới cho tương lai, gia đình có vai trò quan trọng trong việc

xây dựng thành công nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự
tốt xấu của mỗi gia đình đều có ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội, tớ
i sự chuyển
đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà
chúng ta đang tiến hành. Đặc biệt, trong điều kiện chúng ta tiến hành xây dựng một
nền kinh tế thị trường cùng với sự mở cửa hội nhập với thế giới thì gia đình mới
càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Mô hình gia đình vợ chồng hoà thuận,
cha t
ừ con hiếu, anh em thương yêu đùm bọc nhau chính là thành trì để ngăn cản sự
xâm hại những tư tưởng thực dụng, vị kỷ, lối sống gấp chỉ biết hôm nay mà không
cần biết ngày mai. Như vậy, có thể nói rằng, nếu loại bỏ những tư tưởng bảo thủ,
mất dân chủ thì việc kế thừa những giá trị luân lý tích cực của Nho giáo về gia đình
để xây dựng gia
đình mới nhằm đáp ứng được sự phát triển đất nước là điều nên
làm.
Pháp trị là chế độ pháp luật của người thống trị xây dựng theo ý chí của
mình. Điểm cơ bản của pháp trị là lấy pháp để hạn chế quyền lực của chính phủ,
bảo đảm quyền lợi công dân “Quyền lực thuộc về nhân dân”, “Chính phủ phải giữ
luật”, là b
ố cục cơ bản của pháp trị. Do vậy, tiêu điểm chính mà pháp trị quan tâm là
hạn chế có hiệu quả vận dụng hợp lý quyền lực công cộng. Cái hại của pháp trị nó
còn thể hiện ở chỗ công hiệu của nó chỉ có hiệu quả trong một thời gian ngắn, mà
không phải là lâu dài. Cũng tức là nói, nó chỉ có thể cấm điều ác, không thể khuyên
điều thiện.
Do vậy, về
hành vi ác, nó chỉ có thể ngăn chặn mà không thể tiêu diệt. Chức
năng của pháp trị dựa vào sức răn đe để duy trì. Răn đe từ ngoài tới, ép buộc cho
con người. Sự phục tùng của mọi người là bị bắt buộc, miễn cưỡng, tiêu cực.


×