Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.8 KB, 21 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA SAU ĐẠI HỌC



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
SO SÁNH SỰ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA
NHO GIA

PHÁP GIA

SVTH: NGÔ DUY HINH
STT: 28
NHÓM 2
LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1
GVHD: TS BÙI VĂN MƯA



TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2011

So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
2
Ngô Duy Hinh
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


 

 




…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………………………………
…………………………………………


So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
3
Ngô Duy Hinh
PHẦN MỤC LỤC

PHẦN I: MỞ ĐẦU 4
PHẦN II: NỘI DUNG 5
C
HƯƠNG

I:

K
HÁI QUÁT
N
HO GIA VÀ
P
HÁP GIA
5
I. Khái quát Nho gia 5
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 5
a. Lịch sử hình thành: 5
Nho giáo nguyên thủy 5
Hán Nho 5
Tống Nho 6
b. Đặc điểm của Nho gia: 6
2. Các quan điểm của Nho gia: 7
II. Khái quát Pháp gia 7
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm 7
2. Các quan điểm của Pháp gia: 9
a) Trị nước phải kết hợp các yếu tố: 9
b) Tư tưởng biện chứng: 10
C
HƯƠNG
II:

S
ự TƯƠNG ĐồNG VÀ KHÁC BIệT GIữA
N
HO GIA VÀ

P
HÁP GIA
11
I. Sự tương đồng 11
II. Sự Khác Biệt 12
PHẦN III: KẾT LUẬN 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 21

So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
4
Ngô Duy Hinh
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát
triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn thiện của
hai nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của
văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá triết học cổ
xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Triết học Trung Quốc trải qua nhiều
thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, có nhiều
học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”; “Bách gia tranh
minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của triết học Phương Đông thời
đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Pháp gia, đây là hai hệ tư tưởng xưa
mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức,
chính trị- xã hội…
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói chung,
sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm chung, dựa
trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong những nguyên
tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải xây dựng một hệ
thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự tương đồng và
khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về hai hệ tư tưởng
này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư tưởng ấy trong

đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội đương thời.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn
thành bài viết này!




So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
5
Ngô Duy Hinh
PHẦN II: NỘI DUNG
Chương I: Khái quát Nho gia và Pháp gia
I. Khái Quát Nho Gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
a. Lịch sử hình thành:
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của
Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử
(sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và
tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người
sáng lập ra Nho giáo.
Nho giáo nguyên thủy:
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có
Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh
Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng
Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất
sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra
sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra
cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này
học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên
Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay

"tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia.
Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo
mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở
thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo
lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ
đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
6
Ngô Duy Hinh
trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho
[cần dẫn nguồn]
. Điểm
khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp
thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ
và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường
của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như
Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16,
Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây
gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước
đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình"
(lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
b. Đặc điểm của Nho gia:
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội.
Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người
cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử = chỉ
tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về điạ vị

xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng, phẩm
chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức
chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến
trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta trước
hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn
phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung cả vũ trụ
được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lí vận hành
chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề
xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh
làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành
trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sơ triết lí
của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
7
Ngô Duy Hinh
2. Các quan điểm của Nho gia:
Nho gia đặt vấn đề xây dựng con người một cách thiết thực. Nho gia hướng con người
vào tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất, luôn được đặt
vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Theo nho giáo, năm mối quan hệ mà con
người phải xác định và làm tròn trách nhiệm của mình trong các quan hệ ấy là Vua tôi,
cha con, anh em, chồng vợ, bè bạn (Ngũ luân), trong đó ba điều chính là vua tôi, cha
con, chồng vợ (Tam cương). Trong ba điều chính có hai điều mấu chốt là vua – tôi,
biểu hiện bằng đức trung, cha – con biểu hiện bằng đức hiếu. Giữa trung và hiếu thì
trung đứng đầu. Những đức con người thường xuyên phải trau dồi là: nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín (Ngũ thường). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa, trong đó nhân là chủ. Vì
vậy, gọi đạo của Khổng Tử là đạo nhân.
Mục tiêu xây dựng con người của Nho gia là con người phải xuất phát từ năm mối
quan hệ đó, rồi từ đó mới yêu quý rộng ra người khác. Trong hoàn cảnh xã hội, Trung
Quốc thời cổ đại, trung đại, mỗi học thuyết nêu trên đều có mặt tích cực và hạn chế
của nó. Trong đó, Nho gia đặt con người trong năm mối quan hệ với những lập luận

khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và nội dung tu dưỡng của con người là
có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp phần củng cố trật tự xã hội, nó là sản phẩm của xã
hội và cũng là nguyên nhân trì trệ của xã hội đó.
II. Khái quát Pháp gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất sắc là
Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển
xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là đề
cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư tưởng
Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch sử lâu
dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
8
Ngô Duy Hinh
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi
những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và
được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Quản Trọng (chữ Hán: 管仲) là một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung
Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Ông nổi tiếng với "chiến lược không đánh mà thắng"
mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn
công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.
Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua việc tiến
hành rất nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông,
người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định danh phận cho
mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm trái
luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Quản Trọng được đánh
giá là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp gia.
Sang nữa đầu thời Chiến quốc, tư tưởng pháp trị được tiếp tục phát triển. Thương
Ưởng (商鞅 - khoảng 390 TCN-338 TCN)
được vua Tần tin dùng

áp dụng chính sách Pháp trị của mình coi trọng hiến pháp, chủ
trương "pháp trị" thay "đức trị", sử dụng các chính sách khuyến
khích dân chúng lao động, binh sĩ chiến đấu. Thân Bất Hại
(401-337 TCN) chủ trương dùng thuật cai trị đất nước, Thận Đáo (370-290 TCN) chủ
trương dùng thế, Ngô Khởi (440 – 381 TCN) cho rằng muốn làm cho nước mạnh phải
biết đạo nuôi quân, trả lương hậu cho quân thì họ mới vì nước liều mình.
Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi (韓非 - khoảng 280 - 233 TCN) là học giả nổi tiếng
Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp gia, Hàn
Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, cho
rằng con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến
nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương
pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.Ông chủ trương cho dân
chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau giàu. Và ông tin rằng
theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng cần làm gì, cứ
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
9
Ngô Duy Hinh
ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Theo ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi
thì phép trị nước không thể viện dẫn theo “đạo đức” của Nho gia, “Kiêm ái” của Mặc
gia, “Vô vi nhi trị” của Đạo gia như trước nữa mà phải dùng Pháp trị. Từ đó, ông đã
phát triển và hoàn thiện tư tưởng pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn
chỉnh và thích ứng với thời đại lúc bấy giờ.
2. Các quan điểm của Pháp gia:
a) Trị nước phải kết hợp các yếu tố
:

Pháp Hình Nông Chiến Nghệ Thế
Luật Phạt Nghiệp Tranh Thuật Lực
• Nội dung chủ yếu của Pháp luật, hình phạt là thưởng, phạt. Thưởng hậu thì
điều mình muốn dân làm, dân mau mắn làm. Phạt nặng thì điều mình ghét và cấm

đoán thì dân mới tránh, từ đó mới khuyến khích dân làm điều thiện, ngăn ngừa điều
ác. Theo Hàn Phi Tử thì hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được 6 hạng người: bọn
hàng giặc, sợ chết; bọn lìa xa pháp luật; bọn ăn chơi xa sỉ; bọn bạo ngược, ngạo mạn;
bọn dung thứ lũ giặc, che dấu kẻ gian và bọn nói khéo, khoe khôn, dối trá. Và khuyến
khích được 6 loại người : những người lăn mình vào chốn hiểm nghèo, dám hi sinh;
những người tuân theo pháp luật; những người dốc sức làm ăn, làm lợi cho đời; những
người trung hậu, thật thà, ngay thẳng, hiền lành; những người giết giặc trừ gian và
những người làm sáng tỏ lệnh trên.
Chủ trương xây dựng pháp luật tuân theo 4 nguyên tắc: nguyên tắc 1: thiên
thời, địa lợi, nhân hòa; Nguyên tắc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân nhắc
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
10
Ngô Duy Hinh
kỹ càng; Nguyên tắc 3: pháp luật phải soạn thảo sao cho dâm dễ hiểu, dễ thi hành,
phải được áp dụng nhất loạt với mọi người; Nguyên tắc 4: pháp luật phải công bằng,
phải mang tính phổ biến. Đối tượng tác động của pháp luật là toàn xã hội, tất cả thần
dân; không phân biệt đẳng cấp từ quan lại đến tướng lĩnh đã phạm tội thì phải chịu tội,
tội nặng hay nhẹ đều không được bỏ qua. Ông cũng đòi hỏi bậc minh chủ sai khiến bề
tôi, không đặt ý ngoài pháp, không ban ơn trong pháp, không hành động trái pháp.
• Về nông nghiệp: phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán (ức thương), tập
trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội
mạnh.
• Về chiến tranh: trường phái pháp gia chủ trương xây dựng quân đội hùng mạnh
đủ sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh.
• Về Thuật: thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược
khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng
họ như thế nào. Vua trị dân thông qua quan lại, quan lại tốt thì dân không loạn, quan
lại xấu thì dân nổi loạn. Thuật dựa trên hai nguyên tắc, thứ nhất bề tôi tức là quan lại
không làm hết trách nhiệm hay vượt quá trách nhiệm của mình đều bị phạt; thứ hai là
“Công”, “Danh” tức là lời nói và việc làm của quân thần không cân xứng cũng phạt.

Nhờ Thuật mà vua chọn được người tài năng, trao đúng chức vụ, quyền hạn và loại
được kẻ bất tài.
• Về Thế: là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa vào thế
mà vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật.
Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn, thế quan trọng đến mức
có thể thay thế vai trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành được pháp thì phải có thế,
Pháp và Thế không thể tách rời nhau.
b) Tư tưởng biện chứng:
- Quan điểm thời biến, pháp biến thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ
trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp.
Không nên bắt chước người xưa mà phải xuất phát từ thực tế trước mắt, không dùng
lời lẽ cố nhân để biện hộ cho sự yếu kém của mình. Đại diện Hàn Phi Tử cho rằng,
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
11
Ngô Duy Hinh
không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến
chuyển được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không
thay đổi thì thiên hạ loạn.
Theo Hàn Phi Tử, ông thừa nhận sự tồn tại của lý-tính quy luật hay những lực lượng
khách quan trong xã hội. Lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông yêu
cầu con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù
hợp.
Thừa nhận bản tính con người là ác, cho rằng trong xã hội người tốt ít, còn kẻ xấu thì
rất nhiều nên muốn xã hội yên bình, không nên trông chờ vào số ít, mong họ làm việc
thiện (thực hiện nhân nghĩa trị), mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho
họ làm điều ác.
Chương II: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và Pháp gia
I. Sự tương đồng
Khi so sánh các quan điểm triết học của Nho gia và Pháp gia, ta thấy có những điểm
tương đồng giữa hai hệ tư tưởng được coi là có giá trị và có ảnh hưởng này:

- Thực túc = Nông nghiệp
- Binh cường = Chiến tranh
>>> Hướng đến sự thái bình, nhằm mục đích ổn định đất nước.
- Tuân Tử (nho gia) coi con người sinh ra vốn bản chất là ác = Hàn Phi Tử cũng có
cùng quan điểm (Hàn Phi Tử là học trò của Tuân Tử).
- Đều là những tư tưởng trị quốc trong lịch sử Trung Quốc cổ Đại, có giá trị lịch sử lâu
dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
- Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền
- Nhìn nhận Cấu trúc xã hội cùng những bất bình đẳng như một thực tế đã định và cho
phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Cái giá phải trả để có sự hòa hợp xã hội
là cá nhân thuận theo xã hội.
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
12
Ngô Duy Hinh
- Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải quyết cho
những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức - xã hội mà thời đại lúc bấy giờ đã đặt ra và
phục vụ cho một giai tầng nhất định
- Cả Nho gia và Pháp gia đều cố lý giải và tìm cách giải đáp theo những yêu cầu của
thực tiễn lịch sử xã hội Trung Quốc lúc đó đặt ra hòng “cứu đời cứu người” theo cách
của mình
- Cả hai tư tưởng của Nho gia và Pháp gia cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ lâm
vào bế tắc". Nho giáo phát triển đến thời nhà Minh - Thanh trở nên già cỗi, khắt khe
và bảo thủ, còn nhà Tần do thực hiện triệt để tư tưởng Pháp gia quá nên cuối cùng mất
nước. >>>Hướng đến mục đích ổn định XH.

II. Sự Khác Biệt
Nho Gia Pháp Gia

Về trị quốc
Khổng Tử – người sáng lập Nho gia

làm hết sức để nhằm mục đích cho
người quân tử cai trị đất nước. Ông
tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị
đất nước chính là tự chế ước bản thân.
Một vị quân chủ cao quý nắm giữ
chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa
bình và ổn định cho đất nước. Khổng
Tử đã từng nói: “Bản thân mà chính
đáng, dù không cần mệnh lệnh thì
(người khác) cũng thi hành; còn nếu
bản thân không chính đáng, dù có
mệnh lệnh thì (người khác) cũng
không tuân theo” (Kỳ thân chính, bất
lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy
lệnh bất tòng. Luận Ngữ. Tử Lộ)
- Phép trị quốc của Hàn Phi Tử là một
học thuyết có nội dung hoàn chỉnh
được
tổng hợp từ pháp, thế và thuật; trong
đó, pháp là nội dung của chính sách
cai trị,
thế và thuật là phương tiện để thực
hiện chính sách đó. Phép trị quốc này
còn được gọi là “Pháp trị”
Cả ba pháp, thế, thuật đều
là công cụ trị nước của bậc đế vương.
• Pháp: được hiểu là qui định,
luật lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi
người trong xã hội phải tuân theo; là
tiêu chuẩn khách quan để định rõ danh

So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
13
Ngô Duy Hinh
Khổng Tử cho rằng: Cai trị dân mà
dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn
phép mà dùng hình phạt thì dân có thể
tránh được tội lỗi nhưng không biết
liêm sỉ. Cai trị dân mà dùng đạo đức,
đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ
thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực lòng
quy phục. Nội dung đường lối đức trị
là thực hiện 3 điều: dân đông, kinh tế
phát triển, dân được học hành. Biện
pháp để thi hành là: thận trọng trong
công việc, gìn giữ chữ tín, tiết kiệm
trong tiêu dùng, thương người, sử
dụng sức dân hợp lý… Để xây dựng
xã hội đại đồng, cần dựa vào sự
nghiệp giáo dục để uốn nắn nhân cách,
bồi dưỡng đào tạo nhân tài theo hai
phương châm: tiên học lễ, hậu học văn
và học đi đôi với hành, học để vận
dụng vào thực tế. Để học tốt, người
học trò phải có tinh thần khiêm tốn và
cầu tiến, biết suy tư và luôn tích cực
trong học tập… Mạnh Tử chủ trương
thực hành đường lối đức trị dựa trên
tinh thần quý dân (Dân vi quý, xã tắc
thứ chi, quân vi khinh có nghĩa là,
Dân quý nhất, kế đến là đất nước và

lúa gạo, còn vua là cái quý sau cùng),
nhân chính và thống nhất…
phận, trách nhiệm của con người trong
xã hội. Ông đòi hỏi, bậc minh chủ sai
khiến bề tôi, không đặt ý ngoài pháp,
không ban ơn trong pháp, không hành
động trái pháp.
• Thế: được hiểu là địa vị, thế
lực, quyền uy của người cầm đầu
chính thể. Địa vị, thế lực, quyền uy đó
của người trị vì phải là độc tôn (Tôn
quân quyền). Theo Hàn Phi Tử, thế
quan trọng đến mức có thể thay thế vai
trò của bậc hiền nhân. Muốn thi hành
được pháp thì phải có thế. Pháp và thế
không tách rời nhau.
• Thuật: là phương pháp, thủ
thuật, cách thức, mưu lược khiển việc,
khiến người ta triệt để thực hiện mệnh
lệnh mà không hiểu người sai dùng họ
như thế nào vua phải dùng pháp như
trời, dùng thuật như quỷ. Và nếu pháp
được công bố rộng rãi trong dân, thì
thuật là cơ trí ngầm, là thủ đoạn của
vua được dấu kín. Nhờ Thuật mà vua
chọn được người tài năng, trao đúng
chức vụ quyền hạn, và loại được kẻ bất
tài.
Nhưng mặt khác, phái này quá nhấn
mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề,

phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu
văn hóa giáo dục… là đi ngược lại xu
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
14
Ngô Duy Hinh
hướng phát triển của văn minh nhân
loại

Về Chính trị - Xã hội
- Khổng Tử – người sáng lập Nho gia
làm hết sức để nhằm mục đích cho
người quân tử cai trị đất nước. Ông
tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị
đất nước chính là tự chế ước bản thân.
Một vị quân chủ cao quý nắm giữ
chính quyền sẽ tự nhiên mang lại hòa
bình và ổn định cho đất nước.
- Coi trọng giáo dục, phản đối bạo lực
và chiến tranh.
- Khổng Tử coi XH là tổng hợp các
mối quan hệ giữa người với người, đó
là Ngũ luân và Tam cương.
Các phạm trù cơ bản trong học thuyết
của Khổng Tử là Nhân-Nghĩa-Lễ-
Chính danh:
- Đường lối nhân trị của Khổng Tử có
tính chất điều hòa mâu thuẫn giai cấp,
phản đối đấu tranh. Ông khuyên giai
cấp thống trị phải thương yêu, tôn
trọng, chăm lo cho nhân dân. Đồng

thời, ông cũng khuyên dân phải an
phận, lấy nghèo làm vui, nghèo mà
không oán trách. Ông coi việc oán
trách cảnh nghèo hèn, ưa dùng bạo
lực là mầm mống của loạn. Tuy nhiên
những kế sách chính trị của ông chỉ
- Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ
là người bình thường như bao người
khác. Cái làm cho đất nước trị hay loạn
không phải là ông vua của nước đó ra
sao, mà là nền pháp trị của nước đó
như thế nào.
- Hàn Phi quan niệm pháp luật là công
cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình,
ổn định và công bằng. Then chốt của
việc xây dựng đất nước giàu mạnh là
phải dựa vào pháp luật. Có pháp luật,
pháp luật được thi hành một cách phổ
quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn
định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan
trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh,
làm cho dân chúng được yên bình,
hạnh phúc.
- Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về
pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh
ban bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình
phạt chắc chắn đối với lòng dân,
thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ
pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm
trái lệnh” . Đây là một tư tưởng hết sức

tiến bộ so với đương thời

So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
15
Ngô Duy Hinh
dừng lại ở tính chất cải lương và duy
tâm chứ không phải bằng cách mạng
hiện thực

Tố chất của nhà cầm quyền
Người cầm quyền cần phải có đức tức
là dùng đức trị, phải là tấm gương cho
người dưới noi theo
Coi trọng cái tài của nhà cầm quyền.

Tư tưởng biện chứng
-

Không đề cập vấn đề này.
- Quan điểm bất biến: Theo quan
điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh
ra thế giới và con người, nên trời
đóng vai trò chi phối toàn bộ những
gì vận động xung quanh con người,
lương tri, lương năng của con người
cũng do trời phú mà có nên con người
phải biết kính trời, luôn suy nghĩ và
hành động theo ý trời.
Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ
sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và

nâng cao nó lên. Trên trời chỉ có một
mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một
ông vua mà thôi. Bởi vậy mà Đổng
Trọng Thư đã nói một câu lừng danh:
Thiên bất biến, Đạo diệc bất biến
(Trời không thay đổi thì đạo cũng
không thay đổi). Khổng Tử dựa vào
ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ
giáo và thuyết chính danh
Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức
- Điều hành xã hội phải chú ý đến số
hay còn được hiểu là quy luật, tức là
làm cho xã hội phát triển theo đúng
hướng của nó.
- Quan điểm thời biến: thừa nhận sự
biến đổi của đời sống xã hội: mọi chủ
trương phải thích hợp với thời thế, khi
tình hình thay đổi phải thay đổi cho
phù hợp. Do không có chế độ xã hội
nào bất dịch nên không có khuôn mẫu
chung cho mọi xã hội.
Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị
phải căn cứ vào nhu cầu khách quan
của lịch sử, dựa vào đặc điểm của thời
thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách,
vạch ra cách trị nước sao cho thích
hợp. Ông cho rằng, không có một thứ
pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi
thời đại. Pháp luật mà biến chuyển
được theo thời đại thì thiên hạ trị, còn

thời thế thay đổi mà phép trị dân
không thay đổi thì thiên hạ loạn.
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
16
Ngô Duy Hinh
mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu
vốn đã tin ở sức mạnh siêu nhiên cho
nên con người cúi đầu trước Trời thì
không thể không cúi đầu trước con
trời (Thiên tử)
Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của
con người trước siêu nhiên. Con
người một khi đã thần phục trước siêu
nhiên thì cũng không khó khăn lắm
để chuyển sang thần phục trước “siêu
người”
Thuyết chính danh: bổ sung cho
thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi
vua là do trời định, thế nhưng người
làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để
cái Thực phù hợp với cái Danh


Quan niệm về giáo dục, đạo đức và xây dựng con người.

Giáo dục con người
Thể hiện rõ ở thuyết nhân trị: Quan
niệm nhà cầm quyền phải lấy đạo đức
mà giáo dục và cảm hóa, dẫn dắt dân
chúng chứ không phải dùng đến biện

pháp cưỡng chế và hình phạt như phái
Pháp gia.
Từ việc thừa nhận bản tính con người
là ác nên quan điểm về giáo dục con
người của phái Pháp gia mang tính hà
khắc. Thể hiện ở thuyết Pháp trị qua
ba quan điểm Pháp, Thế, Thuật.


Đạo đức con người
Nho gia thể hiện tính nhân bản sâu
sắc trong những quan niệm về đạo
đức con người. Họ xét đạo đức con
người dựa trên hệ thống các phạm trù
Pháp gia thừa nhận bản tính con người
là ác mà không xem xét vấn đề đạo
đức con người dựa trên các phạm trù
đạo đức như phái Nho gia. Do khẳng
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
17
Ngô Duy Hinh
như: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng…
Với nhân và nghĩa là quan niệm trung
tâm của đạo đức Nho gia. Nhân là
cách đối xử của con người với con
người, để tạo ra người. Theo Khổng
Tử, nhân đó là lòng thương người (ái
nhân), còn Mạnh Tử cho rằng nhân
đó là lòng trắc ẩn. Nghĩa được hiểu là
những gì hợp đạo lý mà con người

phải làm, bất kể điều đó có đem lại
lợi ích gì cho người thực hiện việc
làm đó hay không. Theo Nho gia thì
đạo đức là phương tiện chủ yếu để cai
trị đất nước, là điều kiện quan trọng
để hình thành và hoàn thiện con
người góp phần củng cố và duy trì trật
tự xã hội.
định bản tính con người là ác nên theo
họ, trong xã hội, người tốt thì ít mà
người xấu thì nhiều. Vì vậy để xã hội
được yên bình, không thể trông chờ
vào số ít người tốt làm việc thiện (thực
hiện nhân nghĩa trị) mà phải xuất phát
từ số đông, ngăn chặn không cho họ
làm điều ác (bằng cách thực hiện Pháp
trị: lấy pháp luật làm căn bản trong
việc cai trị đất nước, đặt pháp luật một
cách rõ ràng và ban bố rộng rãi trong
cho mọi người cùng biết để tuân theo
nghiêm chỉnh). Vì quá nhấn mạnh đến
biện pháp trừng phạt nặng nề, đồng
thời thủ tiêu văn hóa, giáo dục và phủ
nhận tình cảm, đạo đức con
người…nên phái Pháp gia đã đi ngược
lại xu hướng phát triển của văn minh
nhân loại.

Xây dựng con người
-Nho gia quan niệm xây dựng con

người theo chuẩn mực đạo đức, đó là
tiêu chuẩn của người quân tử: muốn
trở thành người quân tử phải tu thân.
Để tu thân phải đạt đạo (là con đường
phải theo, đó còn là quan hệ mà con
người phải biết giữ để biết ứng xử
trong cuộc sống). Ngoài đạt đạo,
người quân tử phải đạt đức, phải thể
hiện được những phẩm chất tốt đẹp
- Con người khó được đạo nghĩa
cảm hóa. Nên thay vì làm việc khó là
sửa đổi bản tính bẩm sinh của con
người, Hàn Phi chủ trương chấp nhận
và thi hành đường lối chính trị phù hợp
tính tự nhiên của con người: “trị thiên
hạ thì phải theo tình người, mà tình
người là có ưa có ghét, vì vậy mà sự
thưởng phạt (Thế) có thể dùng được;
thưởng phạt có thể dùng được thì có
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
18
Ngô Duy Hinh
trong cuộc sống, đồng thời phải biết
thi, thư, lễ, nhạc. Lấy tu thân làm gốc
nhưng người quân tử phải biết hành
động tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Để hành động hiệu quả, người quân
tử phải thực hành đường lối nhân trị,
đó là cai trị bằng tình người, bằng sự
yêu người, coi người như bản thân

mình. Không những thế, người quân
tử còn phải chính danh (vua cho ra
vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con,
chồng ra chồng, vợ ra vợ).
-Với mong muốn xây dựng được một
xã hội đại đồng, Khổng Tử và các học
trò của ông đã đưa ra quan điểm về
xây dựng con người như sau:
+ Vua : mang phẩm chất của người
cai trị, phải là người quân tử, không
thể là dân võ biền mà phải là người có
vốn văn hóa toàn diện. Vua phải hiểu
và thực hành đạo đức, khi đó trên
dưới sẽ hòa mục.
+Tầng lớp nhân dân : lấy hiếu, đễ
làm gốc thì từ một nhà nhân hậu sẽ
làm cho cả nước nhân hậu. Xã hội khi
ấy sẽ thái bình và ổn định, có trật tự
kỷ cương, đời sống vật chất đầy đủ,
mọi người trong xã hội sẽ được giáo
hóa.
Tuy nhiên việc chỉ đơn thuần lấy giáo
dục đạo đức làm cốt yếu để xây dựng
thể ban cấm lệnh (Pháp); đạo trị thiên
hạ thế là đủ” (Bát Kinh). Việc điều
chỉnh hành vi của con người hoàn toàn
do thưởng phạt. Việc thưởng phạt
không tùy hứng mà phải phù hợp
“pháp luật được ghi chép rõ ràng trong
sách vở, bày ra nơi quan phủ và phổ

biến ra trong bá tánh”. Nhờ pháp luật
được ban hành rộng rãi mà cả nước
biết được một đường lối chung. Nhờ
uy quyền uốn nắn mà cả nước thống
nhất được theo hướng chung đó.
Thưởng phạt theo đúng pháp luật, đánh
vào tư lợi làm cho hành vi của dân phù
hợp công lợi, đó là đạo trị thiên hạ của
Hàn Phi.
- Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản
của thuật dùng người là: "Chính danh",
"Hình danh", "Thực danh". Chẳng hạn
một người hứa đến thăm ta thì lời hứa
đó là "Danh" còn hành động tới thăm
là "Hình" hay "Thực" vậy. Nếu người
đó đến thăm thực thì chứng tỏ "danh",
"hình" (hay "danh" và "thực") hợp
nhau, "danh" và "thực" hợp nhau là
"chính danh", còn "danh" và "thực"
không hợp nhau là trái, là không
"chính danh" từ đó sẽ có căn cứ mà
thưởng phạt một cách nghiêm minh.
"Thuật" phải nắm được cái cốt yếu là
lấy danh làm đầu, danh chính thì vật
So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
19
Ngô Duy Hinh
một xã hội đại đồng như Khổng Tử
mong muốn là chưa đủ. Vì nền tảng
kinh tế của xã hội đó với chế độ công

hữu đã không còn, khi mà chế độ tư
hữu ngày càng phát triển vào thời bấy
giờ.
định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm
lấy danh, còn bề tôi làm ra hình. Nếu
hình và danh so sánh giống nhau thì
trên dưới hòa điệu. Mọi người trong xã
hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn
phận, chức vụ của mình, không có ai
dám làm trái hay làm quá danh phận
đã định. Để chọn đúng người trao đúng
việc thì vua phải biết dùng "Thuật".
"Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua
theo lời mà trao việc, cứ theo việc mà
trách công. Công xứng việc, việc xứng
lời thì thưởng. Công không xứng việc
thì phạt".












So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia

20
Ngô Duy Hinh
PHẦN III: KẾT LUẬN
Qua các phân tích về hai trường phái Nho gia và Pháp gia ta thấy rằng cả hai đều có
những mặt tích cực và mặt hạn chế riêng. Và cả hai trường phái này đã được các nhà
lãnh đạo, các sách lược gia nổi tiếng vận dụng và đã đạt được những thành công lớn:
- Nhờ một nền pháp trị khốc liệt Tần Thủy Hoàng đã thẳng tay trừng trị các nhà
Nho theo thuyết đức trị của Khổng giáo và thống nhất được một đất nước rộng lớn.
Sau khi cách mạng thắng lợi Mao Trạch Đông đã lựa chọn pháp trị, ca tụng Tần Thủy
Hoàng, tán thành phê Lâm phê Khổng trong Đại Cách mạng văn hóa.
- Ở nước ta, Hồ Chí Minh bằng tấm gương đạo đức của bản thân đã chinh phục
được trái tim và khối óc của nhân dân cả nước, thuyết phục được các sĩ phu yêu nước
cũ điển hình là Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại và tầng lớp trí thức tân học theo
Người. Thực hiện đức trị, trong suốt thời kháng chiến chống Pháp, Người chỉ xử tử có
một người: Trần Dụ Châu.
- Vào thời kỳ xây dựng đất nước khi vừa giành lại độc lập từ tay giặc, tình hình
chính trị và kinh tế hết sức khó khăn. Vừa phải xây dựng đất nước vừa đối phó với thù
trong giặc ngoài. Lúc đó, nhà nước phải áp dụng đồng thời cả “Đức trị” và “Pháp trị”.
Đức trị đối với nhân dân, kêu gọi mọi người cùng đồng lòng bảo vệ và xây dựng tổ
quốc. Còn đối với bọn phá hoại, bán nước phải dùng pháp trị, thẳng tay trừng trị để
dập tan mầm mống phản quốc.
Đối với bản thân chúng ta phải biết vận dụng bài học này vào tình hình thực tế cuộc
sống và công việc hằng ngày. Chúng ta phải biết khi nào cần áp dụng “Đức trị”, “Pháp
trị” hay kết hợp cả hai cho từng tình huống và ngữ cảnh cụ thể.



So Sánh Sự Tương Đồng Giữa Nho Gia và Pháp Gia
21
Ngô Duy Hinh


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chủ biên: TS.Bùi Văn Mưa, 2010, Triết học – Phần I: Đại cương về lịch sử Triết học.
2. Đồng chủ biên: GS, TS. Nguyễn Ngọc Long - GS, TS. Nguyễn Hữu Vu, Giáo
trìnhTriết học Mác – Lênin.
3. PGS, Viện sĩ Trần Ngọc Thêm, 1997, Cơ sở văn hóa Việt nam.
4. Tài liệu trên internet.

o/forum/showthread.php?t=18867
5. Nguyễn Thị Kim Bình, tạp chí khoa học công nghệ số 3, 2008, TƯ TƯỞNG TRỊ
NƯỚC CỦA PHÁP GIA VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG LỊCH SỬ.
6. Nguyễn Thị Kim Bình, 2008, tạp chí khoa học công nghệ số 4

ĐƯỜNG LỐI "ĐỨC
TRỊ" CỦA NHO GIÁO - TỪ KHỔNG TỬ ĐẾN MẠNH TỬ











×