Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ PHÁP GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.85 KB, 29 trang )

B
B


G
G
I
I
Á
Á
O
O
D
D


C
C
V
V
À
À
Đ
Đ
À
À
O
O
T
T



O
O
T
T
R
R
Ư
Ư


N
N
G
G
Đ
Đ


I
I
H
H


C
C
K
K
I

I
N
N
H
H
T
T


T
T
P
P
.
.
H
H


C
C
H
H
Í
Í
M
M
I
I
N

N
H
H

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀi SỐ 3:
NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA
NHO GIA VÀ ĐẠO GIA
S
S
V
V
T
T
H
H
:
:
L
L
ư
ư
ơ
ơ
n
n
g
g
M
M

i
i
n
n
h
h
H
H
o
o
à
à
n
n
g
g
S
S
T
T
T
T
:
:
3
3
0
0
N
N

h
h
ó
ó
m
m
:
:
2
2
L
L


p
p
:
:
C
C
a
a
o
o
h
h


c
c

Đ
Đ
ê
ê
m
m
1
1


K
K
2
2
0
0
G
G
V
V
H
H
D
D
:
:
T
T
S
S

.
.
B
B
ù
ù
i
i
V
V
ă
ă
n
n
M
M
ư
ư
a
a
TP.Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2011
MỤC LỤC
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………… 1
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT NHO GIA VÀ PHÁP GIA
I. KHÁI QUÁT NHO GIA …………………………………………… . 2
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ………………… 2
A. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ……………………………………. 2
B. ĐẶC ĐIỂM NHO GIA ……………………………………… 3
2. CÁC QUAN ĐIỂM CỦA NHO GIA 4

II. KHÁI QUÁT PHÁP GIA …………………………………………… 5
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ………………… 5
2. CÁC QUAN ĐIỂM CỦA PHÁP GIA ……………………………6
CHƯƠNG II : SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA NHO GIA VÀ
PHÁP GIA
I. SỰ TƯƠNG ĐỒNG …………………………………………………. 8
II. SỰ KHÁC BIỆT …………………………………………………… 10
1. VỀ TRỊ QUỐC …………………………………………………… 10
2. KHÁC BIỆT VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI ………………………. 14
3. ĐỀ CẬP ĐẾN TỐ CHẤT CỦA NHÀ CẦM QUYỀN ………… 19
4. TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG …………………………………… 19
5. KHÁC BIỆT VỀ GIÁO DỤC, ĐẠO ĐỨC, XÂY DỰNG CON
NGƯỜI ………………………………………………………… 20
NHẬN XÉT ………………………………………………………………… …. 23
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………… 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách Triết học phần 1 : Đại cương về lịch sử triết học (Trường ĐHKT
TpHCM), Chủ biên : TS Bùi Văn Mưa.
Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi", Tác giả : Nguyễn Tài Đông
Bộ Giáo dục và Đào tạo; Giáo trình triết học – Dùng cho học viên cao học và
nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học; NXB. Lý luận chính trị;
Hà Nội; năm 2007
Tài liệu từ mạng:
 /> />=2218:phat-giao-viet-nam&catid=43:sukien&Itemid=66
 /> /> /> />l%C6%B0%E1%BB%A3c
 />Thuc/Hom_nay_voi_Nho_giao/
 /> /> />SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 1
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển

những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình lâu dài và hoàn thiện của hai
nền văn hóa phương Đông và phương Tây. Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của
văn minh nhân loại thì Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá triết học
cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Triết học Trung Quốc trải qua
nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu, Chiến quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất,
có nhiều học thuyết gọi thời kỳ này là “Bách gia chu tử, trăm nhà trăm thấy”;
“Bách gia tranh minh, trăm nhà đua tiếng”. Trong số những thành tựu của triết học
Phương Đông thời đó phải kể đến trường phái triết học Nho gia và Pháp gia, đây là
hai hệ tư tưởng xưa mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về
vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội…
Trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta nói riêng và ở các nước khác nói chung,
sự phát triển kinh tế ở mỗi nước tuy khác nhau nhưng đều có một số điểm chung,
dựa trên một số quy tắc cơ bản để xây dựng và phát triển kinh tế. Một trong những
nguyên tắc cơ bản trong phát triển kinh tế ở mỗi nước là nhà nước cần phải xây
dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và thích hợp. Nghiên cứu về đề tài “Sự
tương đồng và khác biệt giữa Nho gia và pháp gia”, ngoài sự hiểu biết sâu sắc về
hai hệ tư tưởng này, sẽ phần nào giúp chúng ta hiểu rõ được cách vận dụng những tư
tưởng ấy trong đường lối xây dựng, phát triển kinh tế xã hội đương thời.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Mưa đã nhiệt tình hướng dẫn em hoàn
thành bài viết này!
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 2
Chương I: Khái quát Nho gia và Pháp gia
I. Khái quát Nho gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
a. Lịch sử hình thành:
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của
Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng
Tử (sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống
hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là
người sáng lập ra Nho giáo.

Nho gia được hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, nhưng có 3
giai đoạn tiêu biểu: thời nguyên thủy với Khổng tử, Tuân tử, Mạnh tử, thời Hán với
Đổng Trọng Thư, Lưu Hâm, thời Tống – Minh với Chu Hy, Trình Hạo, Trình Dy
Vào thời nguyên thủy, Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ
Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh
Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là
Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra
cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng
Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là
Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh
Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ
Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo
tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình
thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 3
của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn
Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín
điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho
giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng.
Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến
Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho

Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai
cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
Sau đó đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với
Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống
nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di.
Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo”. Điểm khác biệt của Tống nho với
Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu

tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
b. Đặc điểm của Nho gia:
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội.
Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người
cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua, quân tử =
chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với "tiểu nhân", những người thấp kém về
điạ vị xã hội; sau "quân tử" còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao thượng,
phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với "tiểu nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo
đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng
đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành người quân tử, con người ta
trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 4
có bổn phận phải "hành đạo" (Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia hình dung
cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên
lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do
Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời
giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời.
Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải
hiểu cơ sơ triết lí của Nho giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó.
2. Các quan điểm của Nho gia:
Nho gia đặt vấn đề xây dựng con người một cách thiết thực, hướng con người vào tu
thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất, luôn được đặt vào vị
trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Nho gia mà đại diện là Khổng Tử ,ông cho rằng
một quốc gia muốn thịnh vượng thì người cầm quyền phải thực hiện được ba việc
lớn, đó là Thực túc, Binh cường và Dân tín, lúc đó xã hội mới ổn định.
Quan điểm của Nho giáo ho rằng năm mối quan hệ mà con người phải xác định và
làm tròn trách nhiệm của mình trong các quan hệ ấy là Vua tôi, cha con, anh em,
chồng vợ, bè bạn (Ngũ luân), trong đó ba điều chính là vua tôi, cha con, chồng vợ
(Tam cương). Trong ba điều chính có hai điều mấu chốt là vua – tôi, biểu hiện bằng
đức trung, cha – con biểu hiện bằng đức hiếu. Giữa trung và hiếu thì trung đứng đầu.

Những đức con người thường xuyên phải trau dồi là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (Ngũ
thường). Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa, trong đó nhân là chủ.
Trong hoàn cảnh xã hội, Trung Quốc thời cổ đại, trung đại, mỗi học thuyết nêu trên
đều có mặt tích cực và hạn chế của nó. Trong đó, Nho gia đặt con người trong năm
mối quan hệ với những lập luận khá chặt chẽ, làm cơ sở cho mục tiêu phấn đấu và
nội dung tu dưỡng của con người là có tính hợp lý hơn. Nó thực sự góp phần củng
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 5
cố trật tự xã hội, nó là sản phẩm của xã hội và cũng là nguyên nhân trì trệ của xã hội
đó.
II. Khái quát Pháp gia
1. Lịch sử hình thành và đặc điểm
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia với đại biểu xuất sắc là
Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển
xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng Pháp gia là
đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị nước. Tư
tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có giá trị lịch
sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Học thuyết pháp trị của phái Pháp gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi
những trí thức xuất sắc như: Quản Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng
và được hoàn thiện bởi Hàn Phi Tử.
Quản Trọng là thủy tổ của Pháp gia, một chính trị gia, nhà quân sự và nhà tư tưởng
Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Ông nổi tiếng với "chiến lược không đánh
mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa bình - đó là tấn công bằng mưu
trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn. Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề
thông qua việc tiến hành rất nhiều cải cách trong chính trị và kinh tế. Đối với ông,
người trị nước phải coi trọng luật, lệnh, hình, chính. Luật là để định danh phận cho
mỗi người, Lệnh là để cho dân biết việc mà làm, Hình là để trừng trị những kẻ làm
trái luật và lệnh, Chính là để sửa cho dân theo đường ngay lẽ phải. Quản Trọng được
đánh giá là thủy tổ của Pháp gia, đồng thời ông cũng là cầu nối Nho gia với Pháp
gia.

SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 6
Ngoài ra còn phải kể đến Thương Ưởng (khoảng 390 TCN-338 TCN) và Hàn Phi
(khoảng 280 - 233 TCN). Thương Ưởng được vua Tần tin dùng áp dụng chính sách
Pháp trị của mình coi trọng hiến pháp, chủ trương "pháp trị" thay "đức trị". Hàn Phi
là học giả nổi tiếng Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc theo trường phái pháp gia,
Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, cho rằng con
người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng
lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp
gia để trị nước.
2.Các quan điểm của Pháp gia:
Quan điểm của Pháp gia trước hết là quan điểm về đường lối xây dựng đất nước và
tư tưởng biện chứng của nó. Về đường lối xây dựng đất nước, trị nước phải kết hợp
các sáu yếu tố: pháp luật, hình phạt, nông nghiệp, chiến tranh, nghệ thuật, thế lực.
Nội dung chủ yếu của Pháp luật, hình phạt là thưởng, phạt. Thưởng hậu thì điều
mình muốn dân làm, dân mau mắn làm. Phạt nặng thì điều mình ghét và cấm đoán
thì dân mới tránh, từ đó mới khuyến khích dân làm điều thiện, ngăn ngừa điều ác.
Chủ trương xây dựng pháp luật tuân theo 4 nguyên tắc: nguyên tắc 1: thiên thời, địa
lợi, nhân hòa; Nguyên tắc 2: luật pháp phải minh bạch, phải được cân nhắc kỹ càng;
Nguyên tắc 3: pháp luật phải soạn thảo sao cho dâm dễ hiểu, dễ thi hành, phải được
áp dụng nhất loạt với mọi người; Nguyên tắc 4: pháp luật phải công bằng, phải
mang tính phổ biến. Đối tượng tác động của pháp luật là toàn xã hội, tất cả thần dân;
không phân biệt đẳng cấp từ quan lại đến tướng lĩnh đã phạm tội thì phải chịu tội, tội
nặng hay nhẹ đều không được bỏ qua.
Về nông nghiệp: phát triển nông nghiệp, hạn chế buôn bán (ức thương), tập trung
lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng quân đội mạnh.
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 7
Về chiến tranh: trường phái pháp gia chủ trương xây dựng quân đội hùng mạnh đủ
sức đè bẹp và thôn tính các nước khác, dùng chiến tranh để giải quyết chiến tranh.
Về Thuật: thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược khiển
việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ

như thế nào. Thuật dựa trên hai nguyên tắc, thứ nhất bề tôi tức là quan lại không
làm hết trách nhiệm hay vượt quá trách nhiệm của mình đều bị phạt; thứ hai là
“Công”, “Danh” tức là lời nói và việc làm của quân thần không cân xứng cũng
phạt.
Về Thế: là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Dựa vào thế mà
vua đặt ra luật, ban bố luật pháp, chọn bề tôi giao nhiệm vụ thực hiện pháp luật. Địa
vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì phải là độc tôn. Muốn thi hành được pháp
thì phải có thế, Pháp và Thế không thể tách rời nhau.
Tư tưởng biện chứng:
Quan điểm: thời biến, pháp biến: mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình
hình thay đổi phải thay đổi cho phù hợp. Không nên bắt chước người xưa mà phải
xuất phát từ thực tế trước mắt, không dùng lời lẽ cổ nhân để biện hộ cho sự yếu kém
của mình.
Điều hành xã hội phải chú ý đến số - nay được hiểu là qui luật, làm cho xã hội phát
triển theo đúng hướng của nó.
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 8
Chương II: Sự tương đồng và khác biệt giữa Nho
gia và Pháp gia
I. Sự tương đồng
Khi so sánh sự tương đồng của Nho gia và Pháp gia, ta thấy giữa hai trường phái
này có những điểm tương đồng sau:về mục đích, công cục sử dụng, vấn đề đề cập,
thời kỳ hưng thịnh và thời điểm lâm vào bế tắc
+ Trường phái Nho gia và Pháp gia đều mang tinh thần hướng tới việc xây dựng một
xã hội thái bình, đất nước ấm no và giàu mạnh. Có thể quan điểm khác nhau nhưng
mong muốn và mục tiêu của cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều là giải quyết tình
trạng hỗn loạn, ổn định và phát triển quốc gia ngày một hùng cường.
+ Mặc dù có những nét khác nhau về tư tưởng, nhưng lại có những nét tương đồng
trong việc sử dụng trong quá trình điều hành đất nước.Nếu điều kiện trị nước chính
trong Nho gia là Thực túc, trong Pháp gia là Nông nghiệp, cụ thể là phát triển nông
nghiệp, tập trung lực lượng để làm ruộng, làm cho lương thực dồi dào để xây dựng

quân đội mạnh. Nếu trong Nho gia, điều kiện để trị nước chính là Binh Cường, thì
trong Pháp gia chính là Chiến tranh, cụ thể là xây dựng quân đội mạnh, dùng chiến
tranh để giải quyết chiến tranh.
+ Một trong hai bậc thầy Nho gia thời chiến quốc làTuân Tử, người chủ trương phát
triển Nho gia theo xu hướng duy vật, cùng với Mạnh Tử, cho rằng bản tính con
người là ác (nhân chi sơ tính bổn ác) vì con người vốn sẵn có lòng ham lợi, để thỏa
mãn những ham muốn, con người phải hành động thuận theo tính tự nhiên của mình
nên dẫn đến tình trạng tranh giành, cướp đoạt của nhau dẫn đến chiến tranh. Theo
Hàn Phi Tử, người học trò của Tuân Tử, theo trường phái triết học Pháp gia cũng có
cùng quan điểm với thầy mình khi quan niệm “tính người” là ác, đưa ra học thuyết
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 9
cá nhân vị lợi, con người luôn có xu hướng lợi mình hại người, tránh hại cầu lợi,
nghiêm phạt để duy trì trật tự xã hội
+ Nho gia và Pháp gia đều là những tư tưởng trị quốc có ý nghĩa và được vận dụng
sâu rộng trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, có lịch sử lâu dài và có ảnh hưởng đến các
quốc gia Á Đông khác, không chỉ bao hàm nội tại trong xã hội Trung Quốc mà còn
lan sang tận các nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam phát triển bền bĩ,
được hoàn thiện liên tục và có ý nghĩa cho đến tận ngày nay
+Khi đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền. Nho giacho rằng nhà cầm quyền có
những tố chất để vừa làm gương cho dân, vừa dùng Đức trị để dưỡng dân, giáo dân.
Nhà cầm quyền giống như vì sao Bắc Đẩu để dân soi đường và học tập. Để dân tin
dân tín, nhà cầm quyền không những phải sáng suốt, hiểu cao biết rộng mà còn phải
biết cách trị nước, an dân, dùng Nhân để hướng lòng dân về một mối. Còn Pháp gia
mặc dù sử dụng phương pháp trị nước khác với nho gia nhưng cũng chủ trương cần
một đấng minh quân, một nhà cầm quyền am hiểu nguyên tắc cai trị đất nước
+ Cùng nhìn nhận cấu trúc xã hội với những bất bình đẳng như một thực tế đã định
và cho phép chúng quyết định điều cá nhân nên làm. Hòa hợp xã hội đồng nghĩa với
việc cá nhân thuận theo xã hội. Thực tế của xã hội luôn luôn có kẻ giàu, người
nghèo, luôn có người quân tử và kẻ tiểu nhân, các thứ bậc trong xã hội là một tất yếu
mà mỗi một cá nhân trong xã hội phải thuận. Mỗi cá nhân không được nằm ngoài

vòng tròn thực tại của xã hội, vì mỗi một cá nhân là mỗi yếu tố cấu thành xã hội.
+ Mỗi một tư tưởng ra đời và phát triển nhằm đưa ra những phương cách giải quyết
cho những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức – xã hội mà thời đại lúc bấy giờ đã
đặt ra và phục vụ cho một giai tầng nhất định. Trong Nho gia, dựa vào lợi ích của
giai cấp thống trị đã đưa ra các tư tưởng về Tam Cương, Ngũ Luân, Ngũ Thường,
Tam Tòng, Tứ Đức, tạo thành một hệ thống tư tưởng phục vụ cho giá trị dương
trong thuyết âm dương ngũ hành, hay cho lễ giáo theo trật tự đã định trong xã hội.
Nho gia sử dụng phương cách Nhân trị để thu phục lòng dân thì Pháp gia sử dụng
pháp trị để giải quyết thực tiễn xã hội.
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 10
+ Mặc dù cả hai phái Nho gia và Pháp gia đều có những thời kỳ phát triển rực rỡ và
hưng thịnh nhưng cuối cùng cũng đưa xã hội thời bấy giờ lâm vào bế tắc. Phát triển
đến thời nhà Minh – Thanh nhưng bắt đầu già cỗi, thiếu sức sống ở thế kỷ XIX
Chính vì tính phục cổ và bảo thủ mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của
xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp với trào lưu văn minh của
thế giới. Chính điều này đã khiến Nho giáo dần dần không phù hợp. Đối với Pháp
gia, một minh chứng có thể dẫn dụ cho tình trạng bế tắc của hệ tư tưởng này chính là
Nhà Tần. Trong thời đại hỗn loạn, việc chủ trương dùng pháp luật để trị nước là
đúng đắn khiến nước Tần trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc.
Nhưng do quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận tình cảm đạo đức,
thủ tiêu văn hóa giáo dục đi ngược lại với xu hướng phát triển của văn minh nhân
loại. Vì vậy, sau khi đã thống nhất được đất nước, nước Tần vẫn triệt dể thực hành
pháp trị mà dẫn đến mất nước.
II. Sự khác biệt
1. Về trị quốc
Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp, hình
phạt để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ
sở là do không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải giáo hoá
đạo đức và thực hiện “chính danh, định phận”. “Chính danh, định phận” là làm mọi
việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn phận chính đáng của người ấy cứ thế

mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự được phân minh, “Vua cho ra
vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (Luận ngữ, Nhan Uyên, 11).
Khổng Tử cho rằng: Cai trị dân mà dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà
dùng hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ. Cai trị dân
mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và thực
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 11
lòng quy phục. Nội dung đường lối đức trị là thực hiện 3 điều: dân đông, kinh tế phát
triển, dân được học hành. Biện pháp để thi hành là: thận trọng trong công việc, gìn giữ
chữ tín, tiết kiệm trong tiêu dùng, thương người, sử dụng sức dân hợp lý… Để xây
dựng xã hội đại đồng, cần dựa vào sự nghiệp giáo dục để uốn nắn nhân cách, bồi
dưỡng đào tạo nhân tài theo hai phương châm: tiên học lễ, hậu học văn và học đi đôi
với hành, học để vận dụng vào thực tế. Để học tốt, người học trò phải có tinh thần
khiêm tốn và cầu tiến, biết suy tư và luôn tích cực trong học tập… Mạnh Tử chủ
trương thực hành đường lối đức trị dựa trên tinh thần quý dân, nhân chính và thống
nhất…
Khổng Tử cho rằng: Danh không chính thì ngôn chẳng thuận, ngôn chẳng thuận thì
việc không thành, việc không thành thì lễ - nhạc bất hưng, lễ - nhạc bất hưng thì
hình phạt không trúng lý, hình phạt không trúng lý thì dân biết bám víu vào đâu?
Người quân tử quan niệm được danh thì nói được, nói được thì làm được.
Theo Mạnh Tử thì cách cai trị đất nước bằng đức trị và thực hành chính danh để
xây dựng một xã hội đại đồng,… Triết lý này được trình bày thành một hệ thống bao
gồm các tư tưởng về đạo đức – chính trị – xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có
thể khái quát như sau:
Nho gia nguyên thủy cho rằng, nền tảng xã hội, cơ sở gia đình không phải là những
quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan hệ đạo đức - chính trị, đặc biệt là 3 quan
hệ (đạo) vua – tôi, cha – con, chồng - vợ. Khi các quan hệ này chính danh, nghĩa là:
vua ra vua, tôi ra tôi; cha ra cha, con ra con; chồng ra chồng, vợ ra vợ thì xã hội ổn
định, gia đình yên vui; và ngược lại. Xã hội thời Xuân thu – Chiến quốc loạn lạc,
luân thường đạo lý suy đồi, kỷ cương phép nước lõng lẽo. Vì vậy, muốn cải loạn
thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng nên Nho gia nguyên thủy lấy giáo dục đạo

đức làm cứu cánh.
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 12
Nếu như Nho gia đề cao đức trị thì Pháp gia đề cao "Thế" (Thận Đáo), "Thuật"
(Thân Bất Hại), "Pháp"( Thương Ưởng) trong phép trị nước và Hàn Phi Tử là người
đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó.
Ông cho rằng "Pháp", "Thế", "Thuật" là ba yếu tố thống nhất không thể tách rời
trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó, "Pháp" là nội dung
trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ. Pháp được hiểu là qui định, luật
lệ có tính chất khuôn mẫu mà mọi người trong xã hội phải tuân theo; là tiêu chuẩn
khách quan để định rõ danh phận, trách nhiệm của con người trong xã hội."Thế" là
công cụ, phương tiện tạo nên sức mạnh. Địa vị, thế lực, quyền uy đó của người trị vì
phải là độc tôn. Theo Hàn Phi, thế quan trọng đến mức có thể thay thế vai trò của
bậc hiền nhân. Muốn thi hành được pháp thì phải có thế. Pháp và thế không tách rời
nhau. Còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai
trị. Là mưu lược khiển việc, khiến người ta triệt để thực hiện mệnh lệnh mà không
hiểu người sai dùng họ như thế nào. Thuật bao gồm 3 mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và
thưởng phạt. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương. Trước hết nói về "Pháp".
Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại, "Pháp" là phạm trù triết học được hiểu theo hai
nghĩa: Theo nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất
nước; theo nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ, những luật lệ mang tính
nguyên tắc và khuôn mẫu. Nội dung chủ yếu của pháp luật theo Hàn Phi là thưởng
và phạt và ông gọi đó là hai đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. Ông
chê Thương Ưởng chỉ biết phạt tội mà không thưởng công và cho rằng cần phải thực
hiện toàn diện cả hai mặt khuyến khích và răn đe thông qua thưởng và phạt Điều
đáng chú ý là song song với việc "thưởng hậu, phạt nặng" Hàn Phi còn đưa ra chủ
trương mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không
cần biết đến tước vị của giới quý tộc vì luật không xu nịnh giới quý tộc. Nội dung
thưởng phạt, nhằm mục đích thực hiện "Pháp" "để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa
cho thiên hạ, khiến cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đám số ít,
người già được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không bị

SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 13
xâm phạm, vua tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm tù".
Với nội dung và mục đích như trên "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân
định danh phận, phải trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều
qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên
hạ.
Cùng với "Pháp", "Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho
rằng muốn có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành
thì nhà vua phải có "Thế". "Thế" trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của người
cầm quyền mà trước hết là của nhà vua. "Thế" có vị trí quan trọng đến mức có thể
thay thế được hiền nhân."Thế" không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là
sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước (xu thế lịch sử). Để nâng cao thế của
nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải tuân theo pháp
lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng. Sau "Pháp" và "Thế", pháp gia rất
chú ý đến "Thuật" trong đường lối pháp trị. "Thuật" trước hết là cách thức, phương
thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán
sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình
thiên hạ". Nhiệm vụ chủ yếu của "Thuật" cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại
trung thành, tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm
tra công trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên
cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế" . "Thuật" còn thể hiện trong "thuật
dùng người". Pháp gia đưa ra nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người là: "Chính
danh", "Hình danh", "Thực danh". "Thuật" phải nắm được cái cốt yếu là lấy danh
làm đầu, danh chính thì vật định, danh lệch thì vật đổi. Vua nắm lấy danh, còn bề tôi
làm ra hình. Nếu hình và danh so sánh giống nhau thì trên dưới hòa điệu. Mọi người
trong xã hội đều nhất nhất phải làm tròn bổn phận, chức vụ của mình, không có ai
dám làm trái hay làm quá danh phận đã định. Để chọn đúng người trao đúng việc thì
vua phải biết dùng "Thuật". "Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua theo lời mà trao
việc, cứ theo việc mà trách công. Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 14

không xứng việc thì phạt". Ngoài các nội dung "Pháp", "Thế", "Thuật" đã nêu ở
trên, tư tưởng Pháp gia còn hết sức coi trọng việc xây dựng quân đội hùng mạnh đủ
sức đè bẹp và thôn tính các nước khác. Pháp gia cũng rất chú trọng phát triển nông
nghiệp, tích trữ lương thực và của cải làm cho đời sống của xã hội no đủ.
Như vậy tư tưởng chủ đạo của pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân
bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
2. Khác biệt về chính trị - xã hội:
Những tư tưởng triết học về chính trị-đạo đức của Nho gia được khảo sát chủ yếu
trong sách “luận ngữ”. Ngoài ra còn có thể bổ cứu thêm trong Ngũ kinh: “thi, Thư,
Lễ, Dịch và Xuân Thu” và các sách khác như “đại học”, “Trung dung”. Qua hệ
thống kinh điển có thể thấy hầu hết là các kinh, sách viết về xã hội chính trị - đạo
đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo.
Quan điểm về chính trị- đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng chủ
yếu sau:
Thứ nhất: Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng
của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan hệ này vào
ba rường mối chủ đạo (gọi là tam cương). Trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua-
tôi, cha- con và chồng- vợ. Nếu xếp theo “tôn ty trên- dưới” thì vua ở vị trí cao nhất,
còn nếu xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua- cha- chồng xếp ở hàng làm chủ.
” Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước hết là mối quan hệ “tam
cương”, Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện chính danh,
Khổng Tử đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chức không phải “pháp trị
Thứ hai: Do xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của Nho
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 15
gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua
sáng- tôi hiền, cha từ- con thảo, trong ấm- ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận
của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Đối với quan hệ vua tôi,
Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống và chủ trương “thượng

hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân của người ấy. Trong việc chính trị vua
phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng
sự ”.
Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức nhân, “lế”
được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm nguyên tắc đạo
đức. Phải dùng lễ để khôi phục lại chính danh.
Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm đầu và
cha đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của con đối với cha
mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính.
Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những ông vua không lấy điều nhân nghĩa làm
gốc, chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức mạnh để đàn áp dân; ông
gọi đó là “bá đạo” và thường tỏ thái độ khinh miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa
là tàn”.
Thứ ba: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng
“đại đồng”. Nền giáo dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức
con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”.
Những chuẩn mực khác như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu đều là những biểu
hiện của Nhân. Chữ Nhân trong triết học Nho gia được Khổng Tử đề cập với ý
nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản, quy định bản tính
con người và những quan hệ giữa người với người từ trong gia tộc đến xã hội. Nó
liên quan đến các phạm trù đạo đức chính trị khác như một hệ thống triết lý chặt
chẽ, nhất quán tạo thành bản săc riêng trong triết lý nhân sinh của ông.
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 16
Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ” nghĩa là sống
đúng với mình và sống phải với người. Người có đức nhân là người làm được năm
điều trong thiên hạ “cung, khoan, tín mẫu, huệ”. Người có nhân theo Khổng Tử là
người “trước làm những điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch hết quả”.
Như vậy nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên “nhân”
chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức tạp, phong phú nhưng chung
quy lại chỉ là những điều sống với mình và sống với người. Người muốn đạt đức

nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ có trí, con người mới có sự sáng suốt,
minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán được sự việc, phân biệt được phải trái, thiện
ác, để trau dồi đạo đức và hành động hợp với “thiên lý”. Nhưng người muốn đạt
“nhân” chỉ có “trí” thôi chưa đủ, mà cần phải có dũng khí nữa. Người nhân có dũng
phải là người có thể tỏ rõ ý kiến của mình một cách cao minh, có thể hành động một
cách thanh cao, khi vận nước loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn lạn. Người nhân
có dũng mới tự chủ đựoc mình, mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa. Khi cơn thiếu
thốn cực khó không nao núng làm mất nhân cách của mình, khi đầy đủ sung túc
không ngả nghiêng xa rời đạo lý.
Thứ tư: Trong Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn đề bản tính con
người nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông “bản tính người vốn là
thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh như,
Nhân, Lễ, Nghĩa Mạnh Tử thần bí hoá những giá trị chính trị- đạo đức đến mức coi
chúng là tiên thiên. Do quan niệm bản tính con người là thiện nên Nho gia đề cao sự
giáo dục để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức sẵn có.Đối
lập với Mạnh Tử coi tính người là thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn là
ác. Mặc dù bản thân con người ác, nhưng có thể giáo hoá thành thiện. Xuất phát từ
quan điểm đó về tính người, Tuân tử đã chủ trươngđường lối trị nước kết hợp Nho
gia với pháp gia.
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 17
Tuy nhiên do chưa hiểu rõ nguyên nhân sâu xa của các sự biến lịch sử và bị những
quyền lợi giai cấp quy định nên phương pháp cải biến con người và xã hội của
Khổng Tử chỉ đạt ở mức cải lương, duy tâm chứ không phải bằng cách mạng hiện
thực.
Đối lập với các quan điểm trên, Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức sắc sảo loại
quan điểm này. Các nhà Nho luôn muốn thần thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp
luật có được tính phổ quát nhất định, hay nói cách khác, để có được một nền pháp
trị, Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà
những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình.
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác. Cái

làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà là nền
pháp trị của nước đó như thế nào.
Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định
và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực
chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình
phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trong thiên hạ.
Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người
già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị
xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”.
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có một
quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để phê
phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho
rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính
thực tiễn của đất nước.
Hàn Phi phê phán một cách gay gắt những người hủ Nho, coi đó là “bọn học giả dốt
nát ở đời không biết bản chất của việc trị và loạn, cứ nói năng nhảm nhí và dẫn
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 18
những sách của người xưa để làm rối việc cai trị ở đời này Nếu nghe lời họ thì
nguy, nếu dùng kế họ thì loạn. Đó là điều ngu hết sức lớn và là mối lo hết sức lớn”.
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có pháp
luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định,
xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho
dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Hàn Phi cho rằng “ hễ những người thi hành
pháp luật mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì
nước yếu”,ông đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ
trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt không
kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại
thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và
chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt
nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”.

Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn
thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Đây là một tư tưởng hết sức
tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác
xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền
đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật
để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không
phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích
cực, chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là
“hiến lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp” có
thể quy về 2 khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 19
3.Đề cập đến tố chất của nhà cầm quyền
Nho gia nói rằng người cầm quyền cần phải có đức tức là dùng đức trị, phải là tấm
gương cho người dưới noi theo. Pháp gia coi trọng cái tài của nhà cầm quyền.
4.Tư tưởng biện chứng:
Sự khác nhau về tư tưởng biện chứng của Nho gia so với Pháp gia: Pháp gia: điều
hành xã hội phải chú ý đến số hay còn được hiểu là quy luật, tức là làm cho xã hội
phát triển theo đúng hướng của nó. Còn Nho gia không đề cập đến điều này
Pháp gia (quan điểm thời biến) : Pháp gia thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã
hội: mọi chủ trương phải thích hợp với thời, khi tình hình thay đổi phải thay đổi cho
phù hợp. Do không có chế độ xã hội nào bất dịch nên không có khuôn mẫu chung
cho mọi xã hội.
Hàn Phi Tử cho rằng, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch
sử, dựa vào đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, đặt ra chính sách, vạch ra cách
trị nước sao cho thích hợp. Hàn Phi Tử cho rằng, không có một thứ pháp luật nào
luôn luôn đúng với mọi thời đại. Pháp luật mà biến chuyển được theo thời đại thì
thiên hạ trị, còn thời thế thay đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn
Nho gia (quan điểm bất biến) : Theo quan điểm Nho giáo, trời là lực lượng sinh ra
thế giới và con người, nên trời đóng vai trò chi phối toàn bộ những gì vận động xung

quanh con người, lương tri, lương năng của con người cũng do trời phú mà có nên
con người phải biết kính trời, luôn suy nghĩ và hành động theo ý trời.
Học thuyết Khổng Tử bắt nguồn từ cơ sở tự nhiên vốn có, để rồi nối tiếp và nâng
cao nó lên. Trên trời chỉ có một mặt trời và dưới đất cũng chỉ có một ông vua mà
thôi. Khổng Tử dựa vào ba luận điểm: Thuyết thiên mệnh, Lễ giáo và thuyết chính
danh
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 20
+ Thuyết thiên mệnh: Trời có một sức mạnh siêu nhiên, mà con người từ lâu vốn đã
tin ở sức mạnh siêu nhiên cho nên con người cúi đầu trước Trời thì không thể không
cúi đầu trước con trời (Thiên tử)
+ Lễ giáo là biểu hiện sự thần phục của con người trước siêu nhiên.
+ Thuyết chính danh: bổ sung cho thuyết Thiên mệnh và Lễ giáo. Ngôi vua là do
trời định, thế nhưng người làm vua cần phải nỗ lực chủ quan để cái Thực phù hợp
với cái Danh.
5.Khác biệt về giáo dục, đạo đức, xây dựng con người
Về quan điểm đạo đức con người: Nho gia thể hiện tính nhân bản sâu sắc trong
những quan niệm về đạo đức con người. Họ xét đạo đức con người dựa trên hệ
thống các phạm trù như : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… Với nhân và nghĩa là như :
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng… Với nhân và nghĩa là quan niệm trung tâm của đạo
đức Nho gia. Nhân là cách đối xử của con người với con người, để tạo ra người.
Theo Khổng Tử, nhân đó là lòng thương người (ái nhân), còn Mạnh Tử cho rằng
nhân đó là lòng trắc ẩn. Nghĩa được hiểu là những gì hợp đạo lý mà con người phải
làm, bất kể điều đó có đem lại lợi ích gì cho người thực hiện việc làm đó hay không.
Theo Nho gia thì đạo đức là phương tiện chủ yếu để cai trị đất nước, là điều kiện
quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp phần củng cố và duy trì trật
tự xã hội.
Đối với Pháp gia thì thừa nhận bản tính con người là ác mà không xem xét vấn đề
đạo đức con người dựa trên các phạm trù đạo đức như phái Nho gia. Do khẳng định
bản tính con người là ác nên theo họ, trong xã hội, người tốt thì ít mà người xấu thì
nhiều. Vì vậy để xã hội được yên bình, không thể trông chờ vào số ít người tốt làm

việc thiện (thực hiện nhân nghĩa trị) mà phải xuất phát từ số đông, ngăn chặn không
cho họ làm điều ác (bằng cách thực hiện Pháp trị : lấy pháp luật làm căn bản trong
SVTH: Lương Minh Hoàng Trang 21
việc cai trị đất nước, đặt pháp luật một cách rõ ràng và ban bố rộng rãi trong cho
mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh). Vì quá nhấn mạnh đến biện pháp
trừng phạt nặng nề, đồng thời thủ tiêu văn hóa, giáo dục và phủ nhận tình cảm, đạo
đức con người. …nên phái Pháp gia đã đi ngược lại xu hướng phát triển của văn
minh nhân loại.
Thứ hai là về giáo dục con người: Với Nho gia Thể hiện rõ ở thuyết nhân trị :
Quan niệm nhà cầm quyền phải lấy đạo đức mà giáo dục và cảm hóa, dẫn dắt dân
chúng chứ không phải dùng đến biện pháp cưỡng chế và hình phạt như phái Pháp
gia .Từ việc thừa nhận bản tính con người là ác nên quan điểm về giáo dục con
người của phái Pháp gia mang tính hà khắc. Thể hiện ở thuyết Pháp trị qua ba quan
điểm Pháp, Thế, Thuật: Pháp được hiểu là những qui định có tính chất khuôn mẫu
mà mọi người trong xã hội phải tuân theo.
+ Thế được hiểu là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể. Muốn thi
hành được Pháp thì phải có Thế.
+Thuật được hiểu là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược điều khiển việc,
khiến người ta triệt để thực hiện các mệnh lệnh mà không hiểu người sai dùng họ
như thế nào. Thuật bao gồm ba mặt là bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt
Thứ ba là về xây dựng con người: Nho gia quan niệm xây dựng con người theo
chuẩn mực đạo đức, đó là tiêu chuẩn của người quân tử : muốn trở thành người quân
tử phải tu thân. Để tu thân phải đạt đạo. Ngoài đạt đạo, người quân tử phải đạt đức,
phải thể hiện được những phẩm chất tốt đẹp trong cuộc sống, đồng thời phải biết thi,
thư, lễ, nhạc. Lấy tu thân làm gốc nhưng người quân tử phải biết hành động tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ. Để hành động hiệu quả, người quân tử phải thực hành đường
lối nhân trị. Không những thế, người quân tử còn phải chính danh (vua cho ra vua,
tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ).

×