MC LC
Trang
13. Kết luận 16
14. Tài liệu tham khảo 17
Trang 1
SỬ DNG SƠ ĐỒ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 12
PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM
Phần I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
I-Lý do chọn đề tài.
Dạy học Lịch sử trong các trường phổ thông hiện nay đã trở thành vấn đề
đáng quan tâm của xã hội, khiến nhiều lo lắng và trăn trở. Đã đến lúc không thể
thờ ơ đối với những người làm công tác giáo dục. Là một giáo viên dạy lịch sử 15
năm nay và thường xuyên được giao trách nhiệm dạy các lớp theo học khối C
( Ban KHXH), tôi cũng băn khoăn và trăn trở về vấn đề này. Tại sao chất lượng bộ
môn lịch sử trong mấy năm trở lại đây lại thấp như vậy. Đó thực sự là những vấn
đề đáng báo động.
Để dạy và học tốt môn Lịch sử không hề đơn giản. Đó là nhận xét của nhiều
học sinh và giáo viên. Kiến thức nhiều, thời lượng ít, nó tác động từ nhiều phía:
Sách giáo khoa, giáo viên, học sinh, gia đình và xã hội. Nhiều học sinh của chúng
ta hiện nay chán ghét học môn lịch sử.
Đã có rất nhiều hội thảo, nhiều diến đàn, nhiều bài viết, nhiều ý kiến đưa ra
về vệc đổi mới phương pháp dạy học nói chung mô lịch sử nói riêng. Chương trình
giáo dục phổ thông bàn hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QQĐ-BGDĐT ngày
5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã nêu: “phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tích cực tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp
với đặc điểm môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học.
Bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện, kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
và trách nhiệm học tập cho học sinh" .
Thực hiện chủ trương đó, nhiều địa phương, nhiều trường học và đội ngũ giáo
viên đã tích cực tìm tòi, nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp dạy học. Có
nhiều phương pháp hay đã đưa lại kết quả bước đầu.
Dạy học là một hoạt động sáng tạo. Không có phương pháp, mô hình nào là
bất biến. Vấn đề học sinh chán học và “ngại” học bộ môn sử là do nhiều nguyên
nhân, do từ nhiều phía. Vậy thì giáo viên phải là người biết tìm ra những phương
pháp mới để tạo cho học sinh tính chủ động nắm bắt, khai thác kiến thức, say mê
học tập, biến những số liệu, những Chỉ thị, Nghị quyết thành những nội dung sống
động, lôgic.
Qua nhiều năm dạy và bồi dưỡng học sinh khối C, bản thân thấy rất nhiều học
sinh chăm chỉ học, tích cực học hỏi và sưu tầm tài liệu nhưng kiến thực đọng lại rất
ít ỏi. Nhiều em chỉ một thời gian ngắn là quên hết kiến thức đã học. Một bộ phận
nắm được kiến thức nhưng khi làm bài thì sa vào trình bày lộn xộn, thiếu tuần tự.
Trang 2
Xuất phát từ những vấn đề trên tôi chọn đề tài “ Sử dụng sơ đồ trong dạy học
Lịch sử lớp 12 – Phần Lịch sử Việt Nam”. Tuy nhiên, vận dụng sơ đồ vào dạy học
lịch sử có thể áp dụng ở nhiều cấp học, nhiều bài học.
II. Phạm vi , đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Một số bài học trong chương trình Lịch sử
Việt Nam lớp 12.
Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: sử dụng phương pháp lịch sử, ngoài ra còn sử dụng
phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá, tổng hợp, tích hợp.
III. Mục đích nghiên cứu
Nhằm góp một phần giúp các em học sinh có những kiến thức lịch sử nhất
định để trang bị cho những kỳ thi tốt nghiệp, thi học sinh giỏi tinh, thi ĐHCĐ cho
học sinh ban C; Khắc phục tình trạng “ học vẹt” lịch sử. Mục đích chuyển từ quan
niệm “ giáo viên là trung tâm” sang quan niệm “ lấy học sinh làm trung tâm”.
Giúp các em hình thành và phát huy tư duy tự học, tự tìm hiểu và giải quyết
vân đề liên quan đến lịch sử, nhất là những vấn đề mà giáo viên cũng như học sinh
thường sa vào phân tích chính trị, nặng về giáo điều lý luận.
IV. Điểm mới trong kết quả nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu một nội dung mới, người giáo viên chỉ đóng vai trò
hướng dẫn và kết luận. Sơ đồ để dạy học cũng có thể xem là những phiếu học tập.
Khi tiến hành dạy bài mới giáo viên phát cho học sinh những sơ đồ “câm”, giáo
viên giảng bài và hướng dẫn học sinh trả lời các thông tin trên sơ đồ. Giáo viên có
thể vẽ sơ đô bài học lên bảng và gọi đại diện các nhóm hoặc các tiểu nhóm lên
trình bày. Sau đó giáo viên nhận xét và kết luận.
V. Điểm khó của đề tài.
Ngoài việc soạn giáo án, giáo viên phải thiết kế sơ đồ để vận dụng. Vì vây, đòi
hỏi giáo viên phải đầu tư một khối lượng thời gian tương đối lớn.
Muốn thiết kế sơ đồ yêu cầu người giáo viên phải cơ bản biết sử dụng máy vi
tính. Phải có sự kiên trì. Phải bỏ ra một số kinh phí nhất định để in và photo sơ đồ
cho các nhóm học sinh.
Trang 3
Phần II
NỘI DUNG
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1) Cơ sở lý luận của vấn đề:
Lịch sử là một dòng chảy không bao giờ ngưng nghỉ. Học quá khứ để nhận
thức hiện tại và phán đoán tương lai, đó là đặc thù của môn lịch sử. Muốn học tốt
lịch sử phải tường minh ba vấn đề: Thời gian, không gian và con người. Đặc trưng
nối bật của nhận thức lịch sử là con người không thể tri giác trực tiếp những gì
thuộc về quá khứ. Lịch sử không phải là một bộ môn chính trị, nhưng lịch sử gần
với chính trị.
Hướng dẫn học sinh tự học, tự tiếp cận vấn đề là một trong những đặc trưng
của phương pháp dạy học tích cực. Mỗi một tiết dạy, giáo viên có một phương
pháp riêng, tìm ra những con đường để học sinh tiếp nhận nội dung bài học một
cách thoải mái, tự giác, tích cực. Trong chương trình lịch sử lớp 12 rất nhiều bài
học giáo viên có thể vận dụng sơ đồ để dạy học theo phương pháp nhóm.
2. Thực trạng của vấn đề
Học sinh THPT hiện nay tuyệt đại đa số không muốn tiếp xúc với môn học
này. Khi học một giờ lịch sử, nhiều học sinh xem đó là một giờ “ tra tấn tinh thần
và thể xác”. Nào là “ chủ trương”, nào là “chính sách”, nào là “đường lối”, nó
chẳng khác gì cán bộ đi học Nghị quyết.
Mới đây, khi nghe tin Bộ GD và ĐT công bố sáu môn thi tốt nghiệp, trong đó
không có môn Lịch sử, các học sinh trường THPT Nguyễn Hiền ở Thành phố Hồ
Chí Minh đã reo mừng và xé đề cương ôn thi môn Sử. Đây là một hành động phản
cảm nhưng cũng nói lên thực trạng rất báo động của bộ môn Lịch sử trong hệ
thống giáo dục của nước ta hiện nay.
Mặc dù đội ngũ giáo viên dạy sử ở các trường phổ thông đang rất cố gắng đổi
mới phương pháp để nâng cao hiệu quả của bài học nhưng kết quả không có mấy
chuyển biến. Khi hỏi về một nhân vật lịch sử Việt Nam, một bộ phim lịch sử Việt
Nam học sinh trở nên “ mù tịt”, nhưng khi nói về một bộ phim lịch sử Trung Quốc
thì có nhiều học sinh kể vanh vách. Học xong bài học là trả lại cho thầy cô.Thật là
một thực trạng đáng báo động.
Một hiện tượng phổ biến bây giờ của học lịch sử là chủ yếu học thuộc lòng,
ghi nhớ một cách máy móc , đối phó với thi cử: thiếu kỹ năng miêu tả, phân tích,
tổng hợp, đánh giá về một sự kiện lịch sử.
Trong các cuộc thi như “ Đường lên đỉnh Ôlimpia”, các chương trình vui chơi
giải trí trên truyền hình như: “ Đấu trường 100”, “ Ai là triệu phú” các thí sinh và
những người chơi đa số mất điểm ở câu hỏi liên quan đến lịch sử.
Trang 4
3. Nguyên nhân của vấn đề
Có rất nhiều cuộc họp, rất nhiều Hội thảo bàn về cách dạy và học Lịch sử đã
diễn ra trong mấy năm lại đây để tìm ra nguyên nhân, tìm biện pháp khắc phục. Và
rất nhiều nguyên nhân được đề cập. Theo tôi thì do những nguyên nhân sau đây:
Một là, hiện nay nhu cầu xã hội giành cho học sinh theo học các môn khoa
học xã hội rất ít. Các trường đại học, cao đẳng mọc lên ngày càng nhiều nhưng chủ
yếu là giành cho các học sinh theo học các môn khoa học tự nhiên. Vì vậy, số học
sinh có nhu cầu theo học các môn khoa học xã hội tại các trường THPT là rất ít.
Thậm chí có nhiều trường không duy trì được lớp khối C.
Hai là, học sinh theo học các ngành xã hội tại các trường Đại học, Cao đẳng
sau khi ra trường mặc dù có bằng tốt nghiệp khá và giỏi nhưng vẫn không xin được
việc làm, nhất là ngành lịch sử. Thực tế là những ngành khoa học xã hội đa số
thuộc biên chế của nhà nước, cho nên nhu cầu sử dụng lao động rất ít. Nếu có việc
làm thì lương cũng rất thấp. Đúng là “ cơm áo gạo tiền ghì sát đất”.Vì vậy, đa số
phụ huynh và học sinh quay lưng với môn học này.
Ba là, môn Lịch sử trong các trường THPT, THCS vẫn được xem là môn phụ,
thường bị lãnh đạo coi nhẹ, đồng nghiệp và kể cả xã hội nhìn nhận bằng ánh mắt
thiếu thiện cảm (vì những giáo viên dạy Toán, Lí có giá hơn!). Còn học sinh và
phụ huynh thì có suy nghĩ đơn giản rằng học Lịch sử chẳng sẽ có ích gì, vì nó
không phục vụ cho việc thi cử và kiếm tiền sau này. Chỉ khi nào Bộ GD&ĐT công
bố các môn thi tốt nghiệp ngoài các môn bắt buộc thì học sinh mới có ý thức học
tập, nhưng cũng chỉ đối phó. Trong các kỳ thi tốt nghiệp mấy năm lại đây, môn
Lịch sử ít được lựa chọn là một trong sáu môn thi. Ngược lại, môn Địa lý trở thành
môn thi liên tục. Ví dụ như năm học này ( 2012-2013), dư luận cho rằng môn Lịch
sử sẽ là một trong những môn thi tốt nghiệp, nhưng thực tế lại không như vậy.
Trao đổi với PV Dân trí, thầy Trần Trung Hiếu - giáo viên Lịch Sử, Trường THPT
chuyên Phan Bội Châu (Nghệ An), người có kinh nghiệm 20 năm dạy Sử và cũng
ngần ấy thời gian trực tiếp bồi dưỡng học sinh thi tốt nghiệp, thi đại học môn Lịch
Sử - cho biết thầy thật sự rất buồn trước thực trạng dạy học, thi cử môn Lịch Sử
trong những năm gần đây. Thầy Hiếu cho rằng ngành giáo dục phải chịu trách
nhiệm chính về cái kiểu thi gì, học nấy, không học không thi dẫn đến tình
trạng đáng buồn là học trò xé đề cương môn không phải thi tốt nghiệp THPT.
"Tôi xin khẳng định lại một lần nữa: Môn Sử vẫn là môn học bị xem thường nhất
trong hệ thống giáo dục phổ thông hiện nay", thầy Hiếu chia sẻ.
Bốn là, còn nhiều vấn đề về chương trình, sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên
và phương pháp giảng dạy. Nội dung sống động nhất của lịch sử là phải gắn với
cuộc sống, cuộc sống qua các thời kỳ lịch sử và cuộc sống hôm nay, lại chưa được
quan tâm và phát huy. Tóm lại là cách trình bày lịch sử khô khan, đánh giá lịch sử
còn áp đặt chủ quan, nặng về lý luận, ít có các câu chuyện sinh động về một sự
Trang 5
kiện lịch sử, về một nhân vật lịch sử và như vậy, học sinh không thích học là hệ
quả tất yếu.
Và cuối cùng, phương pháp dạy học còn nhiều vấn đề. Đây là nguyên nhân
dễ nhận thấy nhất và cũng được nói đến nhiều nhất nhưng mặt khác đó cũng lại là
nguyên nhân khó khắc phục nhất. Khi nhắc đến nguyên nhân này, người ta chỉ làm
một việc đơn giản duy nhất là đổ lỗi cho giáo viên. Nhưng suy cho cùng thì giáo
viên cũng chỉ là người chịu hậu quả của một nền giáo dục lạc hậu đã kéo dài mà
thôi. “Thay đổi một quan niệm khó hơn phá vỡ một quả bom nguyên tử”. Tất cả
giáo viên đều biết rất rõ về điều này nhưng với hoàn cảnh hiện nay họ gần như
không có lựa chọn khác.
Trước nhiều nguyên nhân trên, Nhà nước, Bộ giáo dục và đào tạo đang có rất
nhiều giải pháp về cơ chế, chính sách để khắc phục. Còn những người trực tiếp dạy
lịch sử như chúng tôi cũng đang cố gắng gạt qua sự “mặc cảm” để cố gắng tìm ra
phương pháp dạy học đưa lại hiệu quả tốt nhất, làm cho học sinh phát huy được
tính chủ động, sự hứng thú, nhất là đối với lịch sử dân tộc ta. Cho nên, tôi quyết
định chọn đề tài “ Sử dụng sơ đồ trong dạy học Lịch sử ”.
II. SỬ DNG SƠ ĐỒ KHI DẠY MỘT SỐ BÀI LỊCH SỬ VIỆT NAM
TRONG SGK LỊCH SỬ LỚP 12
1. Sử dụng sơ đồ ( trang 8) để dạy mục 3 : Những chuyển biến về kinh tế
và giai cấp xã hội ở Việt Nam,(Bài 12, Mục I, trang 77,78)
Trước khi khai thác nội dung của mục này, giáo viên phát cho mỗi bàn một sơ đồ
để trống. Tiếp theo, gọi một học sinh đọc các nội dung trong SGK, sau đó giáo
viên hướng dẫn các em điền các thông tin vào sơ đồ: Các ô còn để trống và được
mã hóa bằng số (1), (2) thể hiện thái độ chính trị và khả năng cách mạng của các
giai cấp. Ô có đường kẻ đậm là ô có nội dung quan trọng nhất.
Cuối cùng, gọi đại diện các nhóm trả lời và nhận xét. Có thể, giáo viên vẽ sơ đồ
lên bảng, rồi gọi hai hoặc ba học sinh lên điền các thông tin. Giáo viên bổ sung và
nhận xét.
2. Sử dụng sơ đồ (trang 9) để dạy Mục II: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
(Bài 13, trang 86, 87,88).
Giáo viên cũng thực hiện theo tuần tự như ở phần 1.1. Nhấn mạnh: Dưới tác động
của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, phong trào dân tộc dân chủ ngày càng
phát triển mạnh mẽ. Thực tế này đòi hỏi, VNCMTN phải “lột xác”, tức là phải
thành lập một đảng vô sản để lãnh đạo quần chúng. Nhưng, chỉ có một số hội viên
của VNCMTN nhận thức được yêu cầu này. Từ đó làm cho VCMTN bị phân liệt.
Ảnh hưởng ngày càng lớn của VNCMTN làm cho đảng Tân Việt bị phân hóa.
Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ để thể hiện nội dung của mục 1 và 2.
Từ đó học sinh sẽ dễ nắm kiến thức về quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt
Trang 6
Nam, cúng như nội dung và ý nghĩa của Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
3. Sử dụng sơ đồ ( trang 10) để dạy Mục: Hội nghị BCHTW Đảng CS
Đông Dương tháng 11 năm 1939. ( Bài 16, mục II, trang 104)
Giáo viên hướng dẫn học sinh thể hiện những kiến thức cơ bản trên khung sơ đồ.
Giáo viên đặt câu hỏi: Điểm khác cơ bản của Hội nghị này với Hội nghị BCHTW
Đảng tháng 7 năm 1936?.
GV giải thích: Hội nghị tháng 7/1936, đề ra mục tiêu đấu tranh trước mắt là đòi tự
do, dân chủ, cơm áo và hòa bình ( tạm gác độc lập dân tộc). Con đến Hội nghị này,
mục tiêu đấu tranh là đòi độc lập dân tộc ( tạm gác nhiệm vụ dân chủ)
4. Sử dụng sơ đồ ( trang 11) để dạy Mục 3: Hội nghị BCHTW Đảng CS
Đông Dương tháng 5 năm 1941. ( Bài 16, mục II, trang 108, 109)
Qua Hội nghị này, giáo viên giúp học sinh nhận biết được tầm quan trọng của
Hội nghị: Đây là Hội nghị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì, những tư tưởng
của Người đã bắt đầu được thể hiện. Đó là: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc và vấn đề
dân tộc. Hội nghị khẳng đinh: “ Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải chịu kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được”.
Vấn đề dân tộc được thể hiện: Thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh
( Việt Minh) thay Mặt trận Thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
5. Sử dụng sơ đồ ( trang 12, 13, 14) để dạy Bài 17: “Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”
Đây là bài có nhiều nội dung, vì vậy việc sử dụng sơ đồ là rất cần thiết. Giáo viên
hướng dẫn học sinh tập trung vào cá phần trọng tâm để phân tích. Đây là khoảng
thời gian nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ gặp vô vàn khó khăn và thử
thách. Nền độc lập vừa mới giành được đứng trước nguy cơ mất còn. Đây cũng là
giai đoạn thể hiện bản lĩnh chính trị, tài ngoại giao của Đảng ta đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Tại sơ đồ trang 14, ô (1) kẻ đậm thể hiện nội dung quan trọng
nhất: Mặc dù ta không yêu cầu được Pháp phải công nhận nền độc lập của Việt
Nam, nhưng chúng ta đã buộc chúng phải công nhận Việt Nam là một quốc gia tự
do.
Trang 7
Rút ra mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ:
Trang 8
Sự phân hóa xã hội Việt Nam
sau chiến tranh thế giới thứ nhất
Các giai cấp cũ Các giai cấp mới
Địa chủ
phong kiến
Nông dân Công nhân
Tư sản
Tiểu tư sản
Đại địa
chủ
Địa chủ
vừa và nhỏ
(1)
(2)
.
(3)
(4)
Mại bản
Dân tộc
(5)
(6)
.
(7)
.
SỰ XUẤT HIỆN 3 TỔ CHỨC CỘNG SẢN NĂM 1929 VÀ ĐẢNG CS VIỆT NAM RA ĐỜI
Một bộ phận gia nhập
Phân liệt
3/2/1930
3/2/1930 24/2/1930
Ý nghĩa của Cương lĩnh:
Trang 9
Hội VNCMTN
(6/ 1925)
TÂN VIỆT CM ĐẢNG
(1925)
An Nam CS đảng
(8/1929)
Đông Dương CS liên
đoàn (9/1929)
Đảng Cộng sản Việt Nam
(3/2/1930)
Cương lĩnh chính trị tháng 2/1930
Đường lối chiến
lược CMVN
Nhiệm vụ chiến
lược CMVN
Lực lượng chiến
lược CMVN
Vai trò lãnh đạo
Vị trí CMVN
.
Đông Dương CS
đảng (6/1929)
• Ý nghĩa của Hội nghị:
Trang 10
HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS
ĐÔNG DƯƠNG THÁNG 11/1939
Địa điểm: Bà
Điểm-Hóc Môn-
Gia Định
Người chủ trì: TBT
Nguyễn Văn Cừ
Nội dung
Nhiệm vụ Khẩu hiệu đấu
tranh
Mục tiêu đấu
tranh
Phương pháp
đấu tranh
Hình thức mặt
trận
.
.
.
Ý nghĩa của Hội nghị:
Trang 11
Chủ trì: Nguyễn Ái
Quốc
HỘI NGHỊ BCHTW ĐẢNG CS
ĐÔNG DƯƠNG LẦN VIII (5/1941)
Địa điểm: Pác Bó – Cao
Bằng
Nội dung
Nhiệm vụ Khẩu hiệu đấu
tranh
Hình thức mặt
trận
Hình thái của cuộc
khởi nghĩa
.
NƯỚC VIỆT NAM DCCH
Nhà nước VNDCCH non trẻ bị đặt trong tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”.
Trang 12
Thuận lợi
Khó khăn
Quân sự
Chính trị
Kinh tế
Tài chính Văn hóa
.
Trang 13
NHỮNG BIỆN PHÁP CỦA ĐẢNG
VÀ CHÍNH PHỦ
Đối nội
Đối ngoại
Củng cố
CQ
Giệt giặc
đói
Giệt giặc
dốt
Tài chính
Đối với quân
THDQ và tay sai
Đối với quân
Pháp
.
Kinh tế
Chính
trị
Trước
6/3
Sau 6/3
• Tác dụng của việc ký Hiệp định sơ bộ:
Trang 14
HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ 6.3.1946
Hoàn cảnh lịch sử
dẫn đến việc ký Hiệp
định sơ bộ
Hiệp ước Hoa – Pháp
(28/2/1946)
Việt Nam đứng trước 2 sự lựa chọn
(GV phân tích tình huống)
Đánh
Hòa
Nội dung
(1)
.
(2)
(3)
III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Mục đích của đề tài là phát huy tinh thần tự chủ của học sinh khi học lịch sử.
Đề tài nhằm khắc phục tình trạng “ thầy giảng, trò nghe”, “thầy đọc, trò chép”. Kiến
thức đã có trong sách giáo khoa. Điều quan trọng đề tài khai thác một khía cạnh
mới, một con đường để đưa các em tiếp cận một cách có hiệu quả, khắc phục tình
trạng chán học, ngại học lịch sử như hiện nay.
Từ cách làm trên tôi thấy rằng mình đã thành công bước đầu, phần nào đã khắc
phục được sự uể oải, nhàm chán trong giờ học Lịch sử đối với học sinh và ngay cả
bản thân giáo viên.
1. Đối với bản thân:
Khi vận dụng sơ đồ trong một số giờ dạy, bản thân cảm thấy giờ dạy trôi đi rất
thoải mái, rất nhẹ nhàng và thực hiện giờ dạy bảo đảm sư tương tác.
2. Đối với học sinh
Về mặt giáo dưỡng
Phát huy được tính tự chủ trong cách tiệp nhận và khai thác bài học. Tạo sự lôi
cuốn trong học sinh, các em rất hào hứng, tập trung , tinh thần xây dựng bài cao.
Học sinh nắm được những kiến thức cơ bản của bài học, ghi nhớ sự kiện một
cách nhanh chóng và lo gic. Qua kiến thức được trình bày, giúp học sinh hình thành
và phát triển tư duy, so sánh, tổng hợp, đánh giá.
Về mặt giáo dục
Học sinh đã tránh được thói ỷ lại và phần nào đã khẳng định được cái tôi trong
quá trình học tập.
Kết quả thực tế sau khi áp dụng đề tài vào giảng dạy
Kết quả điểm Học kỳ I.
Lớp Sỹ
Số
Giỏi Tỷ lệ
%
Khá Tỷ lệ
%
TB Tỷ lệ
%
Yếu Tỷ lệ
%
Ghi chú
12C1 51 6 11,8 40 78,4 5 9,8 0 0 Chọn A1
12C2 53 4 7,5 29 54,7 17 32,1 3 5,7 Chon A2
12C5 38 12 31,6 26 68,4 0 0 0 0 Chọn C
12C10 46 0 0 30 65,2 13 28,3 3 6,5 Chọn A
Trang 15
Phần III
KẾT LUẬN
1-Ý nghĩa của đề tài
Theo kinh nghiệm của bản thân và đánh giá của các động nghiệp, nhất là
những giáo viên tham gia dạy khối C thì đây là một đề tài có ý nghĩa thiết thực. Nó
giúp giáo viên chủ động trong giờ dạy và giúp học sinh chủ động trọng giờ học.
Đề tài này có ý nghĩa góp phần tìm cách đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Để phát triển tư duy độc lập sáng
tạo cho học sinh.
Thông qua các sơ đồ kết hợp các câu hỏi tình huống có vấn đề, bản thân đã
phát hiện được nhiều học sinh có năng lực tư duy thực sự về môn Lịch sử.
Truyền thụ kiến thức một chiều sẽ làm cho bài học thụ động và khô khan. Đề
tài này đã góp phần khắc phục được hiện tượng trên. Nó thực sự đưa lại làm cho học
sinh trí tò mò và ý thức tự chủ khám phá kiến thức trong sách giáo khoa. Trong quá
trình vận dụng đề tài vào giảng dạy, bản thân đã thu được những kết quả khả quan
và được đông đảo học sinh tín nhiệm.
2. Khả năng ứng dụng của đề tài :
Việc áp dụng đề tài vào thực tiễn rất dễ dàng. Bản thân tôi đã áp dụng rất thành
công ở trường THPT Đặng Thúc Hứa. Khả năng ứng dụng , phổ biến, nhân rộng đề
tài giữa các giáo viên giảng dạy lịch sử rất nhanh chóng.
Đề tài có thể áp dụng vào tất cả các bài học lịch sử ở trường phổ thông, kể cả
các bài khai thác lược đồ. ngoài ra có thể thực hiện ở các tiết ôn tập, dạy và học
thêm. Đề tài không chỉ vận dụng trong chương trình lớp 12 mà còn cả lịch sử lớp
11, lớp 10.
3. Bài học kinh nghiệm
Sau khi áp dụng đề tài vào thực tiễn tôi nhận thấy yếu tố đưa lại thành công là
giáo viên phải thực sự tâm huyết với bộ môn. Sự nhiệt huyết của giáo viên sẽ làm
chuyển biến nhận thực của học sinh về bộ môn lịch sử. Nhất là trong thực trạng hiện
nay đối với môn lịch sử ở các trường THPT.
Giáo viên phải biết sử dụng và khai thác công nghệ thông tin phục vụ cho bài
giảng. Bởi vì đề tài cũng có thể vận dụng khi dạy các chiến dịch quân sự có lược đồ.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân sau nhiều năm dạy học lịch sử tại
trường THPT Đặng Thúc Hứa. Đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế
thiếu sót, tôi mong đợi được Hội đồng khoa học , các đồng nghiệp đánh giá và góp ý
để đề tài này có tác dụng thiết thực, góp phần lấy lại vị thế của môn Lịch sử trong
bối cảnh hiện nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Trang 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Chuẩn kiến thức kỹ năng môn Lịch sử-NXB giáo dục
2.Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học phổ thông. NXB Giáo dục
7/2007.
3.Lịch sử Việt Nam đại cương, tập III, NXB Giáo dục năm 1998.
4.Sách giáo khoa lịch sử lớp 12- NXB giáo dục
5.Sách giáo viên-Lịch sử lớp 12- NXB giáo dục
6.Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Lịch sử (lớp 10,11,12)- NXB giáo dục 2007.
Trang 17
Trang 18