Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.92 KB, 15 trang )

Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học là môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử, khi xã hội
phân chia thành giai cấp, chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời và phát triển đã có
triết học. Sự phát triển của triết học là cả một quá trình kế thừa và chọn lọc
các quan điểm tư tưởng của nhân loại. Hệ thống sau phát triển và kế thừa dựa
trên thành tựu của hệ thống trước đó. Tuy nhiên, sự phát triển của triết học
trước đó thường ít được xem xét một cách có hệ thống mà chủ yếu chỉ là sự
tổng kết chủ quan, có tính phê phán của trường phái triết học này đối với
trường phái triết học khác. Tới khi chủ nghĩa Mác ra đời, triết học mới thực
sự trở thành một khoa học. Triết học Macxit là hệ thống triết học cách mạng
và khoa học, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học nhằm đánh
giá, xem xét các hệ thống, trào lưu triết học song chính nó lại được phát
triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa triết học, văn hóa của nhân loại. Do
đó, để nắm bắt được và hiểu biết sâu sắc triết học Macxit thì chúng ta
không thể bỏ qua giai đoạn triết học trước đó - triết học thời kỳ trước Mác.
Những chuyển biến mạnh mẽ của đời sống kinh tế- xã hội đòi hỏi các
môn khoa học xã hội và nhân văn nói chung, triết học nói riêng phải tự nhận
thức lại mình để tiếp tục phát triển. Sự nhận thức bắt đầu từ việc nghiên cứu
không chỉ những tác phẩm của các nhà sáng lập ra triết học Macxit mà cả
những tác phẩm triết học của nhân loại đã được triết học Mac kế thừa, trong
đó có triết học cổ điển Đức. Tìm hiểu khái quát đặc điểm của triết học cổ điển
Đức là nền móng cho sự tìm hiểu triết học Mac sau này.
Bài viết gồm hai chương:
1. Chương I. Khái quát tiền đề và đặc điểm của triết học cổ điển Đức
2. Chương II. Các nhà triết học cổ điến Đức tiêu biểu.
Do điều kiện về thời gian, các kiến thức trong bài viết mới chỉ dựa trên
cơ sở thu thập tài liệu để phân tích và làm rõ chủ đề. Vì vậy, tôi mong muốn
nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô hướng dẫn và bạn bè để bài
viết trở nên hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


HVTH: Mai Đức Thọ 1 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
MỤC LỤC
CHƯƠNG I.
KHÁI QUÁT TIỀN ĐỀ VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT
HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
Vào cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế- xã
hội mới, khẳng định phương thức sản xuất TBCN( tư bản chủ nghĩa), đưa giai
cấp tư sản lên địa vị thống trị. Các cuộc cách mạng xã hội thế kỷ XVII- XVIII
mở đường cho sự phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ, tiêu biểu là cuộc cách
mạng tư sản Pháp (1789- 1794).
Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong
nhận thức thế giới, cùng với cách mạng tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo
thế giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của cách mạng
công nghiệp.
Hai cuộc cách mạng tiêu biểu đó ảnh hướng rộng lớn đến phong trào giải
phóng ở các nước châu Âu chống lại chủ nghĩa phong kiến, phát triển hệ tư
tưởng tư sản- hệ tư tưởng mới và tiến bộ trong lịch sử. Các nhà tư tưởng tư
sản đòi hỏi phải trả lại cho con người những quyền mà hệ tư tưởng phong
kiến đang phủ nhận: các quyền tự do, bình đẳng, quyền sở hữu riêng của mỗi
cá nhân và quyền mưu cầu hạnh phúc. Hệ tư tưởng tư sản tuyên bố: con người
là thực thể tối cao, con người phải vươn tới trí tuệ và tự do, phải thực hiện
tiến bộ xã hội và hạnh phúc cho con người.
Về mặt chính trị, chủ nghĩa phong kiến chưa bị tiêu vong hoàn toàn. Ở
những nước mà kinh tế TBCN chưa thể thực hiện việc cải tạo cách mạng tư
sản, lực lượng phong kiến vẫn nắm quyền và không chịu phân quyền cho giai
cấp non yếu. Sự phục hồi của chế độ quân chủ nửa phong kiến Buocbong ở
HVTH: Mai Đức Thọ 2 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức

Pháp, Hội nghị viên ở Áo thống nhất các lực lượng quân chủ- phong kiến toàn
châu Âu. Điều này chứng tỏ lực lượng phong kiến đang còn mạnh và chuẩn bị
phản công lại giai cấp tư sản.
Giai cấp tư sản cảm nhận được khả năng thất bại của mình không chỉ từ
sự phản công của thế lực phong kiến mà cả từ phía quần chúng bị áp bức,
những người mà sự khẳng định của CNTB càng làm cho đời sống của họ tồi
tệ hơn. Ngay từ những cuộc cách mạng tư sản trước đó trong “ đẳng cấp thứ
ba” này đã xuất hiện những mâu thuẫn và giờ đây chúng trở thành mâu thuẫn
đối kháng.
Tình hình đó dẫn đến trong hệ tư tưởng tư sản khuynh hướng thỏa hiệp
với các lực lượng phong kiến lại tăng lên, các thể chế phong kiến cũng thích
nghi lại với trật tự tư sản và trong phạm vi đáng kể được tư sản hóa. Những
mâu thuẫn và thỏa hiệp đó được biểu hiện rõ nhất ở nước Đức, nơi có sự phát
triển của CNTB bị cản trở bởi điều kiện kinh tế và chính trị.
Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặt
công nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, và ở Pháp nhờ kết
quả của cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, giai cấp tư sản đã tiêu diệt chủ
nghĩa phong kiến, tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa thì ở Đức còn
là một nước nửa phong kiến bị phân hóa của về kinh tế lẫn chính trị. Những
tàn tích của chế độ nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự tồn tại của nhiều
quốc gia nhỏ bé phụ thuộc lẫn nhau với các thể chế chính trị phản động…
không chỉ làm kìm hãm sự phát triển mà còn làm tăng thêm mức độ lạc hậu
của nước Đức so với các nước đã phát triển quan hệ sản xuất TBCN.
F. Enghen đã nhận xét rằng: đó là “thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và
xã hội”… “ mọi thứ đều nát bét, lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí
chẳng còn tới một tia hy vọng chuyến biến tốt lên vì dân tộc, thậm chí không
còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi”.
Đồng thời F. Enghen cũng nhận xét rằng thời kỳ nhục nhã đó lại mang
một nét đặc biệt rất đáng tự hào: đó là thời kỳ vĩ đại trong lịch sử văn hóa,
nghệ thuật và triết học Đức, mỗi tác phẩm xuất chúng của thời đại đó đều

thắm đượm tinh thần phê phán, phản kháng, chống lại chế độ xã hội đương
thời. Tinh thần đó tràn đầy trong các tác phẩm nghệ thuật, triết học của
HVTH: Mai Đức Thọ 3 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
G.G.Heede (1744- 1803), G.V.F. Heghen, Lútvích Phoiơbắc… các đại biểu
lỗi lạc của triết học cổ điển Đức.
Ở Đức cũng như ở Pháp, cách mạng đã chuẩn bị tư tưởng cho cách mạng
tư sản. Nhưng khác với các nhà tư tưởng Pháp, các nhà triết học Đức không
đồng thời là nhà hoạt động cách mạng. Không như P.H Hônbach(1723-1789),
R.Didiro và các nhà hoạt động khác ở thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức
là những nhà duy tâm. Điều đó được phản ánh trong sự bất lực tiến hành
thành một cuộc cách mạng chống lại trật tự phong kiến, và cuối cùng thể hiện
ở sự thỏa hiệp của họ. Các học thuyết triết học duy tâm của các nhà triết học
cổ điển Đức không thể làm tiền đề cho sự cải tạo tư sản nước Đức, theo mong
muốn mà tuyên ngôn của họ đã nêu: tự do, trí truệ, hạnh phúc và quyền con
người.
Mác gọi triết học Cantơ là học thuyết Đức của cách mạng tư sản Pháp.
Định nghĩa đó cũng hoàn toàn đúng với triết học Phíchtơ, Sêling, Hêghen.
Học thuyết của các nhà triết học Đức về sự phát triển đã gián tiếp hoặc
trực tiếp chống lại các lực lượng phong kiến phản động. V.I.Lênin viết: “ lòng
tin của Hêghen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và
nguyên lý cơ bản của triết học. Hêghen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra
trong một quá trình liên tiếp biến hóa và phát triển…, ngay cả cuộc đấu tranh
chống hiện trạng, cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều
ác tung hoành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng”.
Song các học thuyết đó không tiến hành cách mạng được, nó duy tâm và
yếu hèn. Tính chất duy tâm và tinh thần yếu hèn đó dẫn tới những hạn chế
trong triết học cổ điển Đức.
Hạn chế của nó nằm ở chỗ các nhà triết học Đức hiểu sự phát triển như
một quá trình tinh thần, một quá trình tự thức tỉnh và sự phát triển của lý tính.

Cách hiểu đó đã xóa nhòa bản chất vật chất của sự cải tạo xã hội hiện thực và
về lý thuyết nó biện hộ cho sự thỏa hiệp chính trị với các thế lực phong kiến
của giai cấp tư sản.
Vấn đề đặt ra là tại sao các nhà duy tâm tư sản yếu hèn trong điều kiện
kinh tế xã hội thấp kém của nước Đức lại làm nên những thành tựu vĩ đại
trong triết học. Lịch sử tư tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng
HVTH: Mai Đức Thọ 4 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
tiến bộ có thể nảy sinh trong lòng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn
nếu biết tiếp thu thành tựu mọi mặt của các nước tiến bộ khác.
Ở Pháp thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn Anh, song lại hình
thành chủ nghĩa duy vật mà đại diện là: Hônbách, R.Điđrô… chính vì chủ
nghĩa duy vật Pháp dựa trên những thành tựu của chủ nghĩa duy vật Anh thế
kỷ XVII. Ở Đức tình hình cũng tương tự, triết học cổ điển Đức dựa trên
những thành tự của triết học các nước phát triển châu Âu, nó tiếp thu được tư
tưởng giải phóng, tư tưởng cách mạng của các nhà duy vật cách mạng Pháp.
Những tiền đề cho sự phát triển thế giới quan biện chứng đối với lịch sử
nhận loại và sự khái quát lý thuyết phép biện chứng của các nhà duy tâm Đức
là bước ngoặt kinh tế- xã hội có tính chất thời đại của Anh, bước ngoặt tư
tưởng xã hội có tính lịch sử thế giới của cách mạng tư sản Pháp, sự kế thừa
truyền thống triết học biện chứng Đức và đặc biệt là những thành tựu của
khoa học tự nhiên.Những bậc tiền bối của triết học cổ điển Đức là nhà triết
học- nhà toán học R.Điđro, nhà vật lý học Anh I.Newton, C.Vonpho… Các
học thuyết của học chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc.Khoa học
tự nhiên lúc này với những phát minh xuất sức đã vạch rõ tính biện chứng của
quá trình tự nhiên, thúc đẩy việc xây dựng phép biện chứng.
Những thành tựu đó phản ánh vào trong tư tưởng, trong những học
thuyết của các nhà triết học cổ điển Đức và là tiền đề cho những tư tưởng biện
chứng thiên tài của họ. Điều này chứng tỏ khoa học tự nhiên đã chín muồi cho
sự tổng kết biện chứng, cần xây dựng một phương pháp tư duy và khảo sát

mới – phương pháp biện chứng để phản ánh đầy đủ những quy luật tự nhiên
khách quan. Thế kỷ XVII những nhà khoa học bắt đầu từ Bêcơn, Galileo…
đã xây dựng một cách tự phát phương pháp siêu hình cho nhận thức khoa học
thì ở cuối thế kỳ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà triết học Đức đã bắt đầu xây
dựng phương pháp biện chứng cho khoa học. Sự thực hiển nhiên đó trong triết
học cổ điển Đức chưa tiến hành triệt để, nó là triết học đầy mâu thuẫn trên cơ
sở chủ nghĩa duy tâm xa lạ với tinh thần duy vật, càng xa lạ với biện chứng
duy vật khoa học.
HVTH: Mai Đức Thọ 5 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
1.2.1. Thành tựu và cống hiến
Tuy có những hạn chế trong lĩnh vực chính trị- xã hội nhưng những
thành tựu của triết học cổ điển Đức có một vai trò quan trọng đóng góp cho
triết học thế giới
Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến
trình lịch sử nhân loại, đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người, khắc
phục triết học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt
động như là vấn đề nền tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học.
Kế tục tư tưởng triết học cổ đại và phục hưng, Cantơ lần đầu tiên hiểu
con người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của mình,
khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luân. Hêghen phát triển thêm tư
tưởng này và coi bản thân lịch sử là phương thức tồn tại của con người, mỗi
cá nhân hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình. Ông khẳng định: con người là
sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định vì vậy nó mang bản chất xã hội.
Trước những thành tựu khổng lồ của kinh tế- xã hội, khoa học- văn hóa,
các nhà triết học cổ điển Đức từ Cantơ tới Hêghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ
và khả năng hoạt động của con người. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh sức mạnh
của con người họ đã rơi vào cực đoan, đã thần thánh hóa con người, coi con
người là chúa tể tự nhiên, bản thân giới tự nhiên nhiều khi cũng được họ luận

giải như kết quả hoạt động của con người.
Một trong những thành tự to lớn của triết học cổ điển Đức đã khẳng định
rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong những chừng mực con người
nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của
toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân
loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con người- tự nhiên như một quá trình
phát triển biện chứng. Từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức
đã xây dựng nên các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được những tư duy
biện chứng, logic biện chứng, học thuyết về các quá trình phát triển mà cái
lớn nhất đạt được là phép biện chứng.
HVTH: Mai Đức Thọ 6 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ
điển Đức có ý đồ hệ thống hóa toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã
đạt được. Tiếp thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVIII trong việc phát
triển tư duy lý luận và hệ thống hóa toàn bộ tri thức loài người, Cantơ và
Hêghen có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền tảng cho
thế giới quan của con người, khôi phục lại các quan niệm coi triết học là khoa
học của các khoa học.
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư
tưởng Tây Âu vào thế giới cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, là đỉnh cao của
thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời ảnh hưởng to lớn đến triết
học hiện đại.
1.2.2. Mặt hạn chế
Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển
Đức thể hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng- khoa học về tư tưởng với
tính bảo thủ về lập trường chính trị- xã hội. Hầu hết các nhà triết học thời kỳ
này đều xây dựng được hệ thống triết học chưa đựng những tư tưởng khoa
học lớn mang tính thời đại, đặc biệt là triết học Cantơ và Hêghen. Tuy nhiên
họ lại không dám tiến hành, thực hiện những cuộc cải cách, bảo vệ chính thể

nhà nước Phổ phong kiến.
Chủ nghĩa duy tâm thần bí, phía trước và bên cạnh các nhà triết học cổ
điển Đức là một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các
nhà triết học khai sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng: từ quan
điểm duy vật người ta không giải thích được thế giới. Bản chất của thế giới
theo họ là tinh thần, điều đó chỉ có thể giải quyết được những vấn đề của thế
giới bằng tinh thần. Họ đã từ thế giới tinh thần xây dựng nên những hệ thống
triết học duy tâm, thần bí.
Triết học trừu tượng tách rời hiện thực, triết học cổ điển Đức đưa ra
được những tư tưởng tiến bộ, chống lại xã hội cũ nhưng đó chỉ là những tư
tưởng, nó không đi vào chính trị- xã hội và hoạt động cách mạng mà chỉ là
những hệ thống triết lý trừu tượng ở bên trên.
Nếu các nhà tư tưởng Pháp tiến hành cách mạng trong thực tiễn, công
khai chống lại nhà nước và Giáo hội thì các nhà triết học cổ điển Đức chỉ suy
HVTH: Mai Đức Thọ 7 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
nghĩ nó trong tư tưởng, không dám công khai chống lại thực tại đó. Họ là các
giáo sự trong các trường đại học của Vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực
cách mạng, thỏa hiệp với giai cấp tư sản, tư tưởng cách mạng của họ đã bị
phủ ngoài triết học một lớp vỏ thần bí duy tâm tự biện nặng nề và xa rời hiện
thực.
CHƯƠNG II.
CÁC NHÀ TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC TIÊU
BIỂU
Triết học cổ điển Đức bắt đầu Cantơ và kết thúc là chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc. Trong chương này chỉ giới thiệu một cách tổng quát về cuộc đời và
sự nghiệp của các nhà triết học cổ điển Đức tiêu biểu bắt đầu từ Cantơ, tiếp
theo là Hêghen và cuối cùng là Phoiơbắc.
2.1. Cantơ (1724-1804)
I. Cantơ là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức. Ông sinh ngày 22-4

-1724 và lớn lên trong một gia đình trung lưu gốc Scotland tại Kenitbec- một
thành phố cổ vùng đông bắc nước Phổ trước đây. Mùa thu năm 1740, ông vào
học khoa triết tại trường đại học Kenitbec. Ở đó ông được trang bị không chỉ
triết học mà cả khoa học tự nhiên. Ngay từ khi học trên ghế nhà trường ông đã
quan tâm và có năng khiếu về các môn toán học, vật lý, cơ học…
Năm 1770, ông trở thành giáo sư và là giám đốc trường đại học
Kenitbec. Năm 1775, ông nhận học hàm tiến sĩ triết học với luận văn: “ Lịch
sử tự nhiên và lý thuyết về thiên hà”. Cantơ không hề ra khỏi thành phố quê
hương quá sáu mươi dặm và suốt đời độc thân. Ông mất ngày 12- 04- 1804.
Ở trường đại học Kenitbéc, Cantơ giảng một loạt các môn học: Siêu hình
học (Triết học) và logic học, toán học và cơ học, vật lý học và địa chất học,
nhân loại học và lịch sử tự nhiên đại cương. Ông còn giảng cả vũ trụ học, địa
lý, nhân chủng học. Thời gian này, Cantơ đã tập trung toàn bộ sức lực và thời
gian để thực hiện nhiệm vụ mà cả cuộc đời ông đặt ra cho mình là xây dựng
một hệ thống triết học mới. Những công trình khoa học tự nhiên và triết học
HVTH: Mai Đức Thọ 8 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
của ông đã ra đời, nâng ông lên một vị trí là một trong những học giả uyên
bác nhất thời đó. Những học thuyết của ông thống trị tư tưởng khoa học và
triết học tư sản thế kỷ XIX. Quá trình phát triển của triết học Cantơ diễn ra
qua hai thời kỳ: trước phê phán (trước 1770) và sau phê phán (sau 1770).
2.1.1. Thời kỳ trước phê phán (trước 1770)
Cantơ là nhà triết học theo tinh thần duy vật và khoa học tự nhiên. Ông
có hai phát minh: giả thiết khoa học về sự hình thành vũ trụ (từ các hạt bụi
dưới tác động của lực hút và đẩy); giải thích tác động của thủy triều (do tác
động của sức hút mặt trăng) đã mang lại nhận thức về sự phát triển và mối
liên hệ giữa các sự vật hiện tượng.
2.1.2. Thời kỳ sau phê phán (sau 1770)
Có nhiều yếu tố duy tâm, tư tưởng, tín ngưỡng bất khả tri và nhị nguyên.
Cantơ tán đồng quan điểm về động lực học cho rằng: cái có trước không phải

là vật chất mà là vận động thuần túy không có vật chất. “Vật tự nó” : con
người không thể biết nó là gì, thể hiện tính chất bất khả tri
Chia nhận thức thành hai loại: tri thức kinh nghiệm cảm giác và tri thức
tiên nhiệm. Tri thức tiên nhiệm có sẵn trong ý thức, đem lại trật tự, mối liên
hệ nhân quả tất nhiên, tất yếu của sự vật hiện tượng.
Thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan, nhưng bản chất là từ ý
thức của con người.
2.2. Hêghen (1770- 1831)
2.2.1. Triết học duy tâm khách quan
Coi ý niệm tuyệt đối là điểm xuất phát, là nền tảng cho toàn bộ học
thuyết của mình. Ý niệm là đấng tối cao sang tạo ra con người. Mọi sự vật
hiện tượng xung quanh, kể cả con người chỉ là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.
Con người là giai đoạn phát triển cao nhất của ý niệm tuyệt đối. Vì vậy,
hoạt động nhận thức và cải tạo của con người chính là công cụ để nhận thức
bản thân. Ý niệm luôn nằm trong trạng thái vận động và biến đổi. Qua đó thế
giới vật chất và đời sống tinh thần của con người mới được biểu hiện ra.Triết
HVTH: Mai Đức Thọ 9 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
học duy tâm được thể hiện trong toàn bộ hệ thống triết học của ông, gồm ba
phần: logic học, triết học tự nhiên và triết học tinh thần.
* Logic học: gồm ba học thuyết (tồn tại, bản chất và khái niệm)
Học thuyết về tồn tại: chứng minh cách thức về sự vận động & phát
triển, cho rằng: tồn tại xuất phát không phải là tồn tại hiện hữu, mà là tồn tại
thuần túy. Nếu tồn tại ở một phương diện nhất định thì đồng nhất với hư vô.
Do đó tồn tại dẫn đến sinh thành. Quá trình chuyển từ tồn tại thuần tuý sang
sinh thành là sự thống nhất của chất-lượng-độ. Nếu lượng vượt quá, thì trở
thành bước nhảy. Thời lượng để thực hiện bước nhảy gọi là điểm mút.
Học thuyết về bản chất: nguồn gốc của sự phát triển, đó là quá trình giải
quyết mâu thuẫn của các mặt đối lập ở bên trong sự vật. Trong bản thân ý
niệm đã có sẵn sự khác biệt, được sinh ra từ cái đồng nhất. Ban đầu là sự khác

biệt nhỏ dẫn tới sự khác biệt cơ bản (đối lập)  hình thành mâu thuẫn 
chuyển hóa.
Học thuyết về khái niệm: Hêghen cho rằng nó không đứng yên, không
bất biến và có đời sống của nó. Khái niệm trải qua các giai đoạn khác nhau
của sự nhận thức. Về việc để nhận thức sự vật, phải trải qua hai giai đoạn
nhận thức: trực quan cảm tính (với các hình thức cảm giác) và nhận thức lý
tính (với các hình thức phán đoán, suy luận). Học thuyết này đã chỉ ra sự
thống nhất biện chứng.
* Triết học về tự nhiên:ba học thuyết (cơ học, vật lý học và suy luận)
Không chỉ giới vô cơ, mà giới hữu cơ cũng là sự tha hoá ý niệm. Vì vậy
nếu ý niệm luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển thì ngược lại, giới tự
nhiện lại không tự vận động, không biến đổi, cũng không phát triển. Nó chỉ là
sản phẩm thụ động (hay tha hoá) của ý niệm năng động. Dù thụ động, nó vẫn
vận động trong không gian, và chuyển hoá sang tinh thần.
* Triết học về tinh thần: gồm ba học thuyết (học thuyết về tinh thần
chủ quan, tinh thần khách quan và tinh thần tuyệt đối).
HVTH: Mai Đức Thọ 10 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
Học thuyết về tinh thần chủ quan: đối tượng nhận thức của nhân loại
học, đối tượng nhận thức của ý thức là hiện tượng học, để phân biệt ý thức với
cơ thể và sau cùng thể hiện trong tri thức, đối tượng nhận thức của tâm lý học.
Học thuyết về tinh thần chủ quan: sự phủ định biện chứng về tinh thần
chủ quan.
Học thuyết về tinh thần tuyệt đối: là sự thống nhất giữa tinh thần khách
quan và tinh thần chủ quan.
2.2.2 Phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Là giá trị triết học của Hêghen, hạt nhân là tư tưởng của sự phát triển.
• Luận điểm cơ bản xuyên suốt:
“Tất cả những gì hiện thực đều hợp lý và tất cả cái gì hợp lý đều hiện
thực”. Luận điểm này nhằm bảo vệ và duy trì nền chuyên chính của nhà nước

Phổ. Không phải tất cả những gì đang và tồn tại đều là hiện thực, thuộc tính
hiện thực chỉ thuộc về những gì đồng thời là tất yếu.
Hiện thực không phải là tồn tại chung mà là tồn tại trong tính tất yếu của
nó, là hiện thực trong sự phát triển. Nghĩa là trong quá trình phát triển thì
những gì trước kia là hiện thực thì đến nay đã trở thành không hiện thực, mất
tính tất yếu và mất quyền tồn tại. Hiện thực mới đầy sinh lực đang tồn thay
thế cho hiện thực đang tiêu vong.
•Đối lập với tư duy siêu hình
Hêghen là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư
duy dưới dạng quá trình, nghĩa là nó nằm trong sự vận động và biến đổi
không ngừng.
•Quan điểm về xã hội:
Quan điểm: mọi người sinh ra về bản tính vốn bất bình đẳng; mọi bất
công, tệ nạn trong xã hội đều là các hiện tượng tất yếu, hợp quy luật, xuất
hiện một cách tự nhiên từ bản tính con người. Do vậy mà quá trình không
ngừng nảy sinh và giải quyết các mâu thuẫn giữa các giai tầng, giữa cá nhân
và xã hội,… là động lực cơ bản thúc đẩy mọi sự phát triển của xã hội.
HVTH: Mai Đức Thọ 11 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
Nhà nước vừa là kết quả, vừa là sự dung hoà của những mâu thuẫn xã
hội. Nhà nước là tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực,… của xã hội.
Nhà nước ra đời nhằm dung hoà những mâu thuẫn trong xã hội để định hướng
phát triển cho xã hội.
•Quan điểm về tự do:
Khẳng định lịch sử toàn thế giới là lịch sử phát triển theo khuynh hướng
tiến bộ. Tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội là mức độ tự do. Tự do là sự nhận
thức đúng và thực hiện đầy đủ những quy luật tất yếu của thế giới - hiện thân
của ý niệm tuyệt đối.
Tự do của con người thể hiện sự hiểu biết và làm theo ý của thượng đế.
Xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, con người càng tự do, nhân cách càng phát

triển bấy nhiêu. Con người là chúa tể của số phận và sứ mệnh của chính minh.
2.2.3.Kết luận
Hêghen là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu của triết học cổ đại
Đức, đã cống hiến cho nhân loại về tư tưởng biện chứng được quán triệt trong
các lĩnh vực tự nhiên xã hội và tư duy. Nó chứa đựng một hạt nhân hợp lý là
học thuyết về sự phát triển.
Triết học của Hêghen không có gì là tuyệt đối, chỉ là tính chất quá độ của
mọi sự vật. Với triết học của Hêghen thì không có gì tồn tại ngoài quá trình
không ngừng không ngừng sinh thành và tiêu vong của sự phát triển vô cùng
vô tận từ thấp lên cao.
Hêghen là người đầu tiên xây dựng hệ thống phạm trù của chủ nghĩa duy
vật biện chứng: chất, lượng, độ, phủ định, mâu thuẫn…Tất cả các quy luật
trên đều là sự vận động của tư duy, khái niệm. Biện chứng của khái niệm bao
gồm:
+ Những khái niệm không những khác nhau mà còn làm trung giới cho
nhau, tức là có sự liên hệ với nhau.
+ Mỗi khái niệm đều trải qua một quá trình phát triển, sự phát triển thể
hiện cơ sở của ba nguyên tắc:
HVTH: Mai Đức Thọ 12 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
 Nguyên tắc 1: Chất - lượng quyết định lẫn nhau, những chuyển hoá
về chất sẽ dẫn đến những chuyển hoá về lượng & ngược lại.
 Nguyên tắc 2: sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, với tư
cách là nguồn gốc của sự phát triển.
 Nguyên tắc 3: phủ định của phủ định, sự phát triển diễn ra theo hình
thức xoáy ốc.
2.3. Lútvích Phoiơbắc (1804- 1872)
Người đã có công làm sống lại chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII, làm
phong phú, sáng tạo thế giới quan duy vật.
2.3.1. Thế giới quan

Lập trường duy vật để bảo vệ và chứng minh cho nguyên lý duy vật,
rằng: vật chất có trước, giới tự nhiên tự tồn tại. Người ta chỉ có thể giải thích
về tự nhiên bằng bản thân. Giới tự nhiên có rất nhiều chất, lượng khác nhau
mà cảm giác của con người không thể biết được.
Cho rằng con người là một bộ phận của thế giới tự nhiên, còn tư duy là
một thuộc tính của nó. Khẳng định không gian và thế giới tồn tại khách quan:
là không có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian và thế giới. Thừa nhận
sự tồn tại khách quan của các quy luật tự nhiên và các quy luật nhân quả.
Thừa nhận sự vận động và phát triển của giới tự nhiên cũng diễn ra một
cách khách quan và trong những điều kiện nhất định dẫn tới sự sống hữu cơ
của con người.
2.3.2.Nhận thức luận
Đối tượng nhận thức: Phoiơbắc phê phán tính duy tâm của Hêghen, vì
đối tượng của Hêghen chính là bản thân. Phoiơbắc cho rằng đối tượng của
nhận thức nói chung và triết học nói riêng là giới tự nhiên và con người.
Phoiơbắc phê phán tính bất khả tri luận: cho rằng con người có khả năng nhận
thức giới tự nhiên. Một người không nhận thức được toàn bộ giới tự nhiên,
nhưng toàn bộ loài người thông qua các thế hệ mới nhận thức được.
Chủ thể nhận thức: là con người. Vai trò của cảm giác: cho rằng cảm
giác là phản ánh các vật thể của thế giới vật chất. Cảm giác là nguồn gốc của
HVTH: Mai Đức Thọ 13 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
tư duy lý luận. Vì vậy theo ông nếu coi thường cảm giác thì không thể có
quan niệm đúng đắn về quá trình nhận thức.
Quan hệ giữa trực quan cảm tính và tư duy lý tính.
Hạn chế: Lý luận nhận thức vẫn mang tính trực quan và chưa thấy được
vai trò thực tiễn của nhận thức cảm tính. Khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen, Phoiơbắc đã vô tình phủ định luôn phép biện chứng của Hêghen.
2.3.3.Về con người
PhoiơBắc phê phán triết học Hêghen vì Hêghen coi thường con người

sống. Bản thân Phoiơbắc lấy con người làm điểm xuất phát cho học thuyết
duy vật của mình, xác định nhiệm vụ của triết học là đem lại cho con người
một quan niệm mới về chính bản thân mình, tạo điều kiện cho con người hạnh
phúc. Cho rằng con người như là một thực thể sinh vật có cảm giác, biết tư
duy, có ham muốn, có ước mơ và là một bộ phận của giới tự nhiên. Về bản
chất, con người có tình yêu thương.
Hạn chế: Không thấy được phương diện xã hội của con người, vì vậy
con người của Phoiơbắc là con người trừu tượng và duy tâm, bị tách ra khỏi
những điều kiện của xã hội và lịch sử.Quan niệm về xã hội trừu tượng và duy
tâm.
2.3.4 Về tôn giáo và nhận thức
Phê phán thần học và tôn giáo, cho rằng chính con người đã bày đặt ra
thần thanh bằng cách trừu tượng hóa bản chất con người của minh; coi thần
thánh cũng có bản chất như minh, đã tuyệt đối hoá và thần thánh hoá những
đặc tính của con người. Giới tự nhiên và con người chứ không phải lý tính
logic trừu tượng hay thượng đế là khách thể của nhận thức.
Cảm tính trực quan là nguồn gốc của tư duy lý luận, còn tư duy lý luận
xử lý tài liệu cảm tính để khám phá ra tư duy lý luận. Chân lý là sự phù hợp
giữa tư tưởng trong chủ thể với đối tượng được tư tưởng (khách thể).
Coi nhận thức là một quá trình tĩnh tại, thụ động của chủ thể, tiếp nhận
hình ảnh của khách thể mà không phải là quá trình mang tính thực tiễn năng
động, sáng tạo thế giới của con người.
HVTH: Mai Đức Thọ 14 Lớp 10BĐTVT- KH
Tiền đề và đặc điểm triết học cổ điển Đức
Hạn chế: Phoiơbắc đã rơi vào học thuyết duy tâm và không tưởng trong
các quan niệm của xã hội, không thấy được vai trò của thực tiễn của sản xuất
vật chất quyết định xã hội loài người.Trong quan niệm về tự nhiên thì ông là
nhà duy vật, còn trong quan niệm về xã hội thì ông là nhà duy tâm.
Mặc dù có những hạn chế, Phoiơbắc đã có công lao trong việc phục hồi
và phát triển chủ nghĩa duy vật và xứng đáng là bậc tiền bối của triết học

Mác.
KẾT LUẬN
Triết học cổ điển Đức tuy là giai đoạn lịch sử ngắn nhưng đã tạo ra
những thành tựu, từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học
thế kỷ XVII- XVIII. Thành quả lớn nhất là những tư tưởng biện chứng đạt tới
trình độ là một hệ thống lý luận- điều mà phép biện chứng cổ điển Hy Lạp
chưa đạt tới, và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII- XVIII ở Tây Âu cũng không
có khả năng tạo ra. Tuy nhiện ngoài những mặt đã đạt được, hạn chế của triết
học cổ điển Đức nằm ở tính chất duy tâm khách quan của Hêghen, và chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc thực chất vẫn chưa vượt trội so với trình độ chủ
nghĩa duy vật thế kỷ XVII- XVIII.
Tuy nhiên, những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đã
được triết học Mac khắc phục, kế thừa và nâng lên ở trình độ mới của chủ
nghĩa duy vật hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, NXB
Chính trị quốc gia, 2009
2. Giáo trình Triết học Mác Lênin, NXB Chính trị quốc gia, 2008
3.
HVTH: Mai Đức Thọ 15 Lớp 10BĐTVT- KH

×