Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích các tính chất cơ bản của dư luận xã hội, cho ví dụ minh họa ở từng tính chất? Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.31 KB, 15 trang )


MỤC LỤC
A.Lời mở đầu …….………………………………………………………………… 1
B.Nội dung………… ……………………………………………………………… 1
I-Khái niệm dư luận xã hội.…………….……………………………………………1
II-Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội ……….……………………………… 2
1. Tính khuynh hướng…….……….…………………
…………………………….2
2. Tính lợi ích …………………………………… …………………………………4
3. Tính lan truyền ……… ………………………………………………………….6
4. Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi ……………………………………7
5. Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội ….
……………………………………………………………………… ……………….8
III-Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật ……………………….9
1. Tác động của dư luận xã hội đối với hệ tư tưởng pháp luật……………………
………………………………………………………………… ……………………10
2. Tác động của dư luận xã hội đối với tâm lý pháp luật ……………………… 11
C.Kết luận 13
Danh mục tài liệu tham khảo ….………………………………………………… 14
1

A.LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, có rất nhiều vụ việc trên cả nước được sự quan tâm của toàn xã hội. Dư
luận xã hội không chỉ tác động đến đời sống của mỗi con người, của một bộ phận mà
còn tác động đến ý thức pháp luật, việc ban hành các văn bản Luật. Thông qua dư
luận xã hội chúng ta có thể tìm hiểu về đời sống, quan điểm, quan niệm của con người
trong xã hội về những chuẩn mực của cuộc sống; từ đó có thể hiểu được về tâm lí xã
hội, sự thay đổi của tâm lí xã hội thông qua những biến đổi của dư luận xã hội. Không
những thế, việc nghiên cứu dư luận xã hội cũng góp phần tích cực cho những nhà làm
luật xây dựng pháp luật và lấp đầy những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật. Chính vì
vậy, việc xem xét những yếu tố, những tính chất cơ bản của dư luận xã hội là một vấn


đề hết sức quan trọng. Để có thể hiểu sâu hơn về vấn đề đó, em xin chọn đề: “Phân
tích các tính chất cơ bản của dư luận xã hội, cho ví dụ minh họa ở từng tính
chất? Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật?’’
B.NỘI DUNG
I-Khái niệm dư luận xã hội
Trước hết có thể định nghĩa: “Dư luận xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính
chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trước những
vấn đề mang tính thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm
của nhiều người và được thể hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của
họ.”
1
1
Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng xã hội học, Nxb. CAND, tr210
2

Căn cứ vào định nghĩa trên ta có thể thấy được đối tượng của dư luận xã hội không
phải là mọi thực tế xã hội nói chung mà chỉ những vấn đề mang tính thời sự, có liên
quan tới lợi ích chung (các nhu cầu, lợi ích về vật chất hay tinh thần) của cộng đồng
xã hội, thu hút được sự quan tâm của nhiều người mới có thể trở thành đối tượng của
dư luận xã hội
Về chủ thể của dư luận xã hội chính là cộng đồng người hay nhóm người mang dư
luận xã hội.
Đặc biệt chúng ta cần chú ý phân biệt dư luận xã hội với tin đồn để tránh sự nhầm
lẫn. Tin đồn cũng là hiện tượng tâm lí xã hội nhưng khác với dư luận xã hội, tin đồn
không phải là sản phẩm của tư duy phán xét của cá nhân mang nó. Tin đồn chỉ là tin
tức về sự việc, sự kiện hay hiện tượng có thể có thật, có thể không có thật hoặc chỉ có
một phần sự thật được lan truyền từ người này sang người khác. Tin đồn là dạng
thông tin không chính thức, chưa được kiểm chứng về sự trung thực và chủ thể
thường không được xác định rõ ràng. Tin đồn lan càng xa thì nội dung của nó càng
khác so với nội dung ban đầu.

Ngược lại, dư luận xã hội là sản phẩm của tư duy phán xét của cá nhân mang nó.
Dư luận xã hội thể hiện quan điểm thái độ của cá nhân mang nó trước các sự kiện,
hiện tượng vấn đề mà cá nhân đó quan tâm và dư luận xã hội lan càng rộng thì càng
có xu hướng thống nhất về nội dung phán xét hoặc tích tụ lại thành vài hướng cơ bản.
II-Các tính chất cơ bản của dư luận xã hội
1. Tính khuynh hướng
Thái độ chung của dư luận xã hội đối với mỗi sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội
có thể khái quát theo các khuynh hướng nhất định gồm tán thành, phản đối hay lưỡng
lự (chưa rõ thái độ). Cũng có thể phân chia dư luận xã hội theo các khuynh hướng như
tích cực hoặc tiêu cực; tiến bộ hoặc lạc hậu… Ở mỗi khuynh hướng, thái độ tán thành
hoặc phản đối lại có thể phân chia theo các mức độ cụ thể như rất tán thành, tán thành,
lưỡng lự, phản đối, rất phản đối.
3

Tính khuynh hướng cũng biểu thị sự thống nhất hay xung đột của dư luận xã hội.
Xét theo các mức độ tán thành hoặc phản đối được nêu ở trên, nếu đồ thị phân bố dư
luận xã hội có dạng hình chữ U thì biểu thị sự xung đột; còn nếu đồ thị phân bố dư
luận xã hội có dạng hình chữ J thì biểu thị sự thống nhất. Đồ thị phân bố dư luận xã
hội có dạng hình chữ U khi trong xã hội có hai loại quan điểm mâu thuẫn, đối lập
nhau về cùng một sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội nào đó đều có tỉ lệ số người
ủng hộ cao.
Ví dụ như dư luận trái chiều xung quanh việc triển khai thí điểm cấm xe máy lưu
thông trên một số tuyến phố để giảm ùn tắc giao thông tại hai thành phố Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi ý kiến này được đưa ra trong xã hội đã hình thành
hai luồn quan điểm đối lập: Một mặt dư luận rất ủng hộ việc triển khai thực hiện đề
xuất cấm xe máy trên một số tuyến phố bởi hiện nay có một số lượng xe máy rất lớn
đang lưu thông tại Hà Nội (khoảng 3,7 triệu chiếc năm 2011) và Thành phố Hồ Chí
Minh (khoảng 4,5 triệu chiếc), là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng ùn
tắc giao thông. Ngoài ra số lượng khí thải do xe máy thải ra môi trường mỗi năm là
rất lớn gây ảnh hưởng đến môi trường và xe máy cũng là một trong những nguyên

nhân làm gia tăng tai nạn giao thông. Do đó mà việc hạn chế tiến tới cấm xe máy là
một chủ trương đúng và cần phải được thực hiện sớm. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có
rất nhiều ý kiến phản đối chủ trương trên với lý do hiện nay xe máy vẫn là phương
tiện giao thông chủ yếu của người dân Việt Nam. Nếu cấm xe máy vào trung tâm các
thành phố lớn thì giao thông sẽ rất rối loạn bởi hiện tại chúng ta mới chỉ có phương
tiện giao thông công cộng duy nhất là xe buýt. Mà với số lượng cũng như chất lượng
xe buýt như hiện nay thì không thể đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân. Việc cấm xe
máy sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân. Do đó đề xuất cấm xe máy là
không khả thi và khó được người dân chấp thuận.
Còn khi đồ thị phân bố dư luận xã hội có dạng hình chữ J thì chỉ có một loại quan
điểm (tán thành hoặc phản đối) có tỉ lệ số người ủng hộ cao mà thôi, điều đó thể hiện
sự thống nhất cao trong dư luận xã hội. Chẳng hạn trong thời gian vừa qua có nhiều
4

nghệ sĩ sử dụng trang phục hở hang, phản cảm khi biểu diễn trên sân khấu. Đó là
những trang phục quá ngắn hoặc quá mỏng phô bày cơ thể và những phần nhạy cảm
gây ra nhiều sự cố mà các phương tiện truyền thông gọi là “lộ hàng”. Trước hiện
tượng này không có nhiều luồng dư luận trái chiều mà đại đa số dư luận đều phản đối
và lên án kịch liệt, cho rằng phải xử phạt mạnh tay các trường hợp này bởi nó đi
ngược lại thuần phong mĩ tục của người Việt Nam gây phản cảm cho người xem.
2. Tính lợi ích
Như đã phân tích ở trên, để trở thành đối tượng của dư luận xã hội thì các sự kiện,
hiện tượng xã hội đang diễn ra phải có mối quan hệ mật thiết với lợi ích của các nhóm
xã hội khác nhau trong xã hội. Tính lợi ích của dư luận xã hội được nhìn nhận trên hai
phương diện đó là lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần.
Lợi ích vật chất được nhận thức rõ nét khi các hiện tượng trong diễn ra trong xã hội
có liên quan chặt chẽ đến hoạt động kinh tế và sự ổn định cuộc sống của đông đảo
người dân. Ví dụ như vấn đề tăng giá điện: Theo quyết định số 24/2011/QĐ-TTg của
thủ tướng Chính phủ thì Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được điều chỉnh giá bán
điện theo cơ chế thị trường. Thực hiện quyết định trên, trong năm 2011 giá bán điện

bình quân đã được điều chỉnh hai lần (từ ngày 1/3/2011 giá bán điện tăng thêm
15,28% tương đương 165 đồng/kwh so với năm 2010 và từ ngày 20/12/2011 tăng
thêm 5% tương đương 62 đồng/kwh). Đặc biệt việc giá điện tăng đột ngột vào ngày
20/12/2011 khiến dư luận không khỏi bất bình bởi việc tăng giá điện bất ngờ vào thời
điểm cuối năm là thời điểm “nhạy cảm” – thời điểm mà chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
thường ở mức cao, sẽ có tác động mạnh, kéo theo sự tăng giá của các loại hàng hóa
khác. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân mà cụ thể là tác động
đến các lợi ích về kinh tế. Đồng thời lí do mà EVN đưa ra để giải thích cho việc tăng
giá điện là để bù lỗ cho chi phí sản xuất cũng không được dư luận ủng hộ bởi sự thiếu
công khai, minh bạch trong việc kê khai các chi phí. Từ năm 2007, hầu như năm nào
cũng tăng giá điện, riêng năm 2012 điện tăng giá tới 2 lần (tháng 7 và tháng 12). Đơn
cử như đợt tăng giá điện ngày 22/12/2012 vừa qua, EVN cho biết, các hộ sử dụng
5

điện sinh hoạt bình thường tăng chỉ 6.600 – 38.200 đồng/tháng. Mức tăng giá này,
tính một cách cơ học được cho là không tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh
doanh và sinh hoạt của nhân dân.Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều người dân với
nhóm nghiên cứu của CAF, mặc dù tiền họ phải trả trực tiếp cho điện, xăng sau mỗi
lần tăng giá không nhiều, nhưng ảnh hưởng của nó đến đời sống kinh tế của họ là
không hề nhỏ, do tác động của việc tăng giá cộng hưởng khác. Và dường như đã trở
thành quy luật, cứ sau mỗi lần điện, xăng tăng giá là báo hiệu một đợt lạm phát tiếp
theo. Vấn đề tăng giá xăng hiện nay được mọi người rất chú ý , giá xăng tăng kéo
theo nhiều mặt hàng khác tăng theo ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người
dân.
Lợi ích tinh thần được đề cập khi các vấn đề, các sự kiện đang diễn ra đụng chạm
đến hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội, các phong tục tập quán, khuôn mẫu hành
vi ứng xử văn hóa của cộng đồng xã hội hoặc của cả dân tộc. Ví dụ như gần đây xuất
hiện khá nhiều vụ việc những đứa con nhẫn tâm hành hạ, ngược đãi cha mẹ già như
đuổi cha mẹ đi để khỏi phải nuôi dưỡng, chửi mắng, đánh đập cha mẹ, ép bố mẹ lập
di trúc để cướp nhà… Những hành vi này đã đi ngược lại giá trị truyền thống tốt đẹp

của dân tộc đó là đạo hiếu khiến cho dư luận xã hội hết sức bất bình và lên án những
hành vi đó.
Tuy nhiên cần phải hiểu rằng lợi ích mới chỉ là điều kiện cần để thúc đẩy việc tạo
ra dư luận xã hội. Điều kiện đủ ở đây chính là sự nhận thức của các nhóm xã hội về
lợi ích của mình và mối quan hệ giữa chúng với các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã
hội đang diễn ra. Cần lưu ý rằng:
- Thứ nhất, bản thân nhận thức về lợi ích là một tiến trình biến đổi và phát triển giữa
tính cá nhân và tính xã hội; giữa tính vật chất và tính tinh thần; giữa tính trước mắt và
tính lâu dài.
- Thứ hai, quá trình trao đổi, thảo luận ý kiễn để dẫn đến dư luận xã hội là quá
trính giải quyết mâu thuẫn lợi ích. Trong công việc này, nhóm xã hội nào có tổ chức
6

tốt thành lực lượng thì nhóm xã hội đó sẽ thành công hơn trong việc bảo vệ quan
điểm, lợi ích của mình và ngược lại.
3. Tính lan truyền
Dư luận xã hội được coi là biểu hiện của hành vi tập thể. Mà cơ sở của bất kì
hành vi tập thể nào cũng là hiệu ứng phản xạ quay vòng, trong đó khởi điểm từ cá
nhân hay nhóm xã hội nhỏ sẽ gây nên chuỗi các kích thích của cá nhân khác, nhóm xã
hội khác. Để duy trì được chuỗi kích thích này luôn cần có các nhân tố tác động lên
cơ chế hoạt động và tâm lí của các cá nhân và nhóm xã hội. Đối với dư luận xã hội,
các nhân tố tác động đó có thể được coi là các thông tin bằng các hình ảnh, âm thanh
sống động, trực tiếp, có tính thời sự. Dưới tác động của các luồng thông tin này, các
nhóm công chúng khác nhau sẽ cùng được lôi cuốn vào quá trình bày tỏ sự quan tâm
của mình thông qua các hoạt động trao đổi, bàn bạc, tìm kiếm thông tin, cùng chia sẻ
trạng thái tâm lí của mình với những người xung quanh. Chúng ta có thể theo dõi và
ghi nhận được ảnh hưởng của các luồng thông tin đến các hành động quan tâm của
công chúng. Khi đó, sự hình thành mạnh mẽ và lan truyền nhanh chóng của dư luận
xã hội được thể hiện rất rõ nét.
Ví dụ sau đây có thể minh chứng rõ nét cho tính lan truyền của dư luận xã hội:

Ngày 13/10/2011, tại một khu chợ thuộc thành phố Phật Sơn, tỉnh Quảng Đông,
Trung Quốc, bé Yue Yue (2 tuổi) bị hai chiếc xe tải lần lượt cán qua và đã có 18
người đi qua hiện trường nhưng không một ai dừng lại giúp đỡ cô bé. Sự việc đã được
một camera an ninh ghi hình lại và được phát trên sóng Đài truyền hình Phương Nam,
Quảng Đông vào ngày 17/10. Ngay sau khi được phát sóng, đoạn băng đã thu hút
được sự quan tâm của đông đảo người dân Trung Quốc nói riêng cũng như các quốc
gia khác. Các bản tin thu lại của đài truyền hình được phát lại trên trang truyền hình
Internet của mạng Youku thu hút được hơn 2 triệu lượt xem chỉ trong mấy giờ đồng
hồ đồng thời được chia sẻ và bình luận trên các trang mạng xã hội của Trung Quốc
như trên trang Sina Weibo với 4,4 triệu bình luận. Không chỉ giới hạn trên lãnh thổ
7

Trung Quốc, thông tin này đã được nhiều trạng tin thế giới đưa tin như CNN,
People’s Daily… và trên các mạng xã hội như facebook, twitter…
Như vậy có thể thấy rằng dưới tác động của các phương tiện truyền thông, từ một
vụ việc xảy ra ở thành phố Phật Sơn đã nhanh chóng lan truyền trong xã hội, thu hút
được sự quan tâm của đông đảo người dân Trung Quốc, dẫn đến sự hình thành và lan
truyền mạnh mẽ của các luồng dư luận bàn về đạo đức xã hội của người Trung Quốc
trong xã hội hiện đại. Vụ việc của bé Yue Yue đã khiến dư luận Trung Quốc hết sức
phẫn nộ và lên án gay gắt sự thờ ơ, vô cảm của những người đi đường đã bỏ mặc em
bé nói riêng cũng như sự lãnh đạm, sự xuống dốc của các giá trị đạo đức trong xã hội
nói chung.
4. Tính bền vững tương đối và tính dễ biến đổi.
Dư luận xã hội vừa có tính bền vững tương đối vừa có tính dễ biến đổi. Có những
dư luận xã hội chỉ qua một đêm là thay đổi nhưng cũng có những dư luận xã hội qua
hàng thập niên vẫn không thay đổi.
Tính bền vững tương đối của dư luận xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt
đối với những sự kiện, hiện tượng hay các quá trình quen thuộc, dư luận xã hội
thường rất bền vững. Chẳng hạn, sự đánh giá rất cao của dư luận xã hội về cuộc đời
và sự nghiệp của Bác Hồ, về tầm quan trọng của sự nghiệp đổi mới, chính sách khoán

trong nông nghiệp…tới nay vẫn không thể bị thay đổi. Cái mới lúc đầu chỉ được số ít
thừa nhận và do đó dễ bị đa số phản đối. Nhưng ý kiến của đa số sẽ nhanh chóng, dễ
dàng thay đổi khi cái mới vươn lên khẳng định mình trong cuộc sống .
Tính biến đổi của dư luận xã hội thường được xem xét trên hai phương diện sau:
- Thứ nhất, biến đổi theo không gian và môi trường văn hóa: Sự phán xét, đánh giá
của dư luận xã hội về bất kỳ sự kiện, hiện tượng hay quá trình xã hội nào cũng phụ
thuộc vào hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang tồn tại trong nền văn hóa của
cộng đồng người. Với cùng sự việc, sự kiện xảy ra, dư luận xã hội của các cộng đồng
người khác nhau lại thể hiện sự phán xét, đánh giá khác nhau. Chẳng hạn tại một số
8

quốc gia như Thái Lan, Singapore… mại dâm được coi là một nghề nghiệp không bị
pháp luật cấm do đó những người hành nghề mại dâm không hề bị dư luận lên án.
Còn tại Việt Nam, mại dâm được coi là hành vi trái pháp luật, vi phạm chuẩn mực đạo
đức, đi ngược lại lợi ích của người phụ nữ do đó bị dư luận xã hội lên án.
- Thứ hai, biến đổi theo thời gian: Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều giá trị văn
hóa, chuẩn mực xã hội, phong tục tập quán có thể bị biến đổi ngay trong cùng nền văn
hóa – xã hội, dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá của dư luận xã hội.
Ví dụ trước đây trong xã hội phong kiến, đàn ông được phép lấy nhiều vợ mà không
bị lên án bởi nó phù hợp với chuẩn mực xã hội thời bấy giờ. Còn hiện tại việc người
đàn ông ngoại tình, chung sống với người phụ nữ khác ngoài vợ mình là việc làm bị
dư luận lên án thậm chí có thể bị xử phạt do vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một
chồng đã được pháp luật ghi nhận. Từ đó có thể thấy được sự thay đổi các chuẩn mực
đạo đức đã kéo theo sự thay đổi của dư luận xã hội theo thời gian.
Phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể, dư luận xã hội còn biến đổi theo đối tượng của các
phán xét, đánh giá khi công chúng phát hiện thêm các mối liên quan giữa đối tượng
ban đầu với các sự kiện, hiện tượng, quá trình diễn ra kèm theo nó. Mặt khác, xuất
phát từ các phán xét, đánh giá bằng lời, dư luận xã hội có thể chuyển hóa thành các
hành động mang tính tự phát hoặc có tổ chức để thể hiện thái độ đồng tình hay phản
đối của mình.

Dư luận xã hội về những vấn đề của đời sống xã hội có thể ở trạng thái tiềm ẩn,
không bộc lộ bằng lời (dư luận của đa số im lặng). Trong những xã hội thiếu dân chủ,
dư luận xã hội đích thực thường tồn tại dưới dạng tiềm ẩn. Trong xã hội cũng thường
có dư luận xã hội tiềm ẩn về những sự việc, sự kiện sắp tới, chưa xảy ra hiện thời
chưa cấp bách.
5. Tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội.
Sự phản ánh thực tế xã hội của dư luận xã hội có thể đúng, có thể sai. Dù có đúng
đến mấy thì dư luận xã hội vẫn có những hạn chế, không nên tuyệt đối hoá khả năng
nhận thức của dư luận xã hội. Dù có sai đến mấy, trong dư luận xã hội cũng có những
9

hạt nhân hợp lý. Chân lý của dư luận xã hội không phụ thuộc vào tính chất phổ biến
của nó. Không phải lúc nào dư luận của đa số cũng đúng hơn dư luận của thiếu số.
Cái mới, lúc đầu thường chỉ có một số người nhận thấy do đó dễ bị đa số phản đối.
Đối với những vấn đề trừu tượng, phức tạp, dư luận của giới trí thức, của những
người có trình độ học vấn cao thường chín chắn hơn so với những người có trình độ
học vấn thấp.
Chẳng hạn trong thời gian vừa qua vấn đề tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và
Trung Quốc là vấn đề nóng bỏng được dư luận hết sức quan tâm. Những hành động
gây hấn của Trung Quốc như bắn đuổi, bắt giữ ngư dân Việt Nam, phá hoại thiết bị,
cản trở việc khảo sát địa chấn của tàu Bình Minh 02, cắt dây cáp của tàu Viking II,…
đã khiến dư luận Việt Nam hết sức bất bình. Và đã có nhiều ý kiến không ủng hộ
trước phản ứng có phần chưa cứng rắn của Chính phủ Việt Nam, nhiều người dân đã
tụ tập trước cửa đại sứ quán và lãnh sự quán Trung Quốc tại Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh để biểu tình với khẩu hiệu “Phản đối Trung Quốc gây hấn”. Đây có thể coi
là một hành động tự phát xuất phát từ nhưng nhận thức chưa đầy đủ và thực sự đúng
đắn của một bộ phận người dân. Đối với những người có trình độ nhận thức cao hơn,
họ có thể thấy rõ được bên cạnh các cuộc biểu tình chính là sự xúi giục, kích động của
các thế lực chống đối nhà nước Việt Nam trong, ngoài nước và những cuộc biểu tình,
tuần hành này có thể gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội cũng như tiềm ẩn

các yếu tố gây mất ổn định về chính trị, tác động tiêu cực đến việc thực hiện đường
lối, chính sách ngoại giao của nhà nước để giải quyết tranh chấp. Như vậy có thể thấy
trong ví dụ này dư luận của một bộ phận xã hội đã bị lợi dụng và phản ánh không
hoàn toàn chính xác thực tế khách quan đang diễn ra.
III – Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội từ
góc nhìn pháp luật, là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất
và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và
công dân, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội.
10

Ý thức pháp luật có cấu trúc tương đối phức tạp, có thể được nhìn nhận trên nhiều
phương diện khác nhau. Căn cứ vào nội dung và tính chất của các bộ phận hợp thành,
ý thức pháp luật bao gồm: hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Căn cứ vào cấp
độ và giới hạn nhận thức, ý thức pháp luật được chia thành hai bộ phận cơ bản: ý thức
pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận. Căn cứ vào chủ thể của ý thức
pháp luật, ý thức pháp luật được chia thành: ý thức pháp luật của cá nhân, ý thức pháp
luật của nhóm xã hội và ý thức pháp luật xã hội nói chung.
Dựa vào cấu trúc của ý thức pháp luật, chúng ta có thể có thể đứng trên nhiều
phương diện khác nhau để thấy được tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp
luật. Sau đây em xin phân tích tác động của dư luận xã hội đối với hệ tư tưởng pháp
luật và tâm lý pháp luật
1. Tác động của dư luận xã hội đến hệ tư tưởng pháp luật
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có tính chất
lý luận và khoa học về pháp luật, phản ánh về pháp luật và các hiện tượng pháp luật
một các sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa học.
Dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ đến hệ tư tưởng pháp luật thể hiện ở:
- Dư luận xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự hình thành và phát triển
của hệ tư tưởng pháp luật: Với tư cách là một hiện tượng xã hội, dư luận xã hội
không chỉ phản ánh tồn tại xã hội nói chung mà còn phản ánh các sự kiện, hiện tượng

pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội. Trên cơ sở sự phán xét, đánh giá về các sự kiện,
hiện tương pháp luật diễn ra trong đời sống xã hội, dư luận xã hội làm nảy sinh trong
nhận thức của mọi người những tri thức phản ánh đúng đắn bản chất của các hiện
tượng pháp lý. Từ đó hình thành lên các quan điểm, quan niệm, tư tưởng phản ánh
những vấn đề có liên quan đến pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu
sắc, có tính hệ thống trong xã hội, đó chính là hệ tư tưởng pháp luật.
- Dư luận xã hội có tác dụng phổ biến, tuyên truyền trong các tầng lớp xã hội
những giá trị pháp luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật: Vai trò này được thực
hiện thông qua tính lan truyền của dư luận xã hội. Dư luận xã hội là sản phẩm của tư
11

duy phán xét, là sự thể hiện quan điểm, thái độ của cá nhân trước các hiện tượng pháp
lý. Khi dư luận xã hội lan truyền càng rộng thì càng có xu hướng thống nhất về nội
dung các phán xét, đánh giá và càng làm cho mọi người trong xã hội nhận thức sâu
sắc hơn những vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật.
- Dư luận xã hội có thác dụng củng cố, bảo vệ tính dân chủ, tính khoa học và tính
xã hội của hệ tư tưởng pháp luật: Bởi một trong những tính chất cơ bản của dư luận
xã hội là tính lợi ích. Do đó mỗi khi quyền lợi của quốc gia, dân tộc bị xâm hại sẽ lập
tức xuất hiện dư luận xã hội với thái độ lên án, phản đối gay gắt, gây sức ép nhằm
ngăn chặn hành vi xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong trường hợp này, nội
dung phản ánh các sự kiện, hiện tượng pháp lý của dư luận xã hội phù hợp với hệ tư
tưởng pháp luật tiến bộ, đang phổ biến trong xã hội, đáp ứng được lợi ích, nguyện
vọng của đông đảo các lực lượng tiến bộ trong xã hội.
2. Tác động của dư luận xã hội đến tâm lý pháp luật
Tâm lý pháp luật là tổng thể các trạng thái tâm lý của con người như tình cảm, cảm
xúc, tâm trạng của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với pháp luật, cũng như những
hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội. Tác động của dư luận xã hội đến
tâm lí pháp luật được thể hiện trên các phương diện sau:
- Dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ đến tình cảm pháp luật: Tình cảm pháp luật
là yếu tố cơ bản của tâm lý pháp luật, thường được hình thành một cách tự phát dưới

ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp hành ngày của con người với môi trường pháp lý
xung quanh. Trước những sự kiện, hiện tượng diễn ra trong thực tế, tình cảm pháp
luật có thể biểu hiện dưới dạng tích cực hoặc tiêu cực. Nhưng dù biểu hiện dưới dạng
nào thì cũng đều là đối tượng phán xét, đánh giá của dư luận xã hội. Về mặt tình cảm,
không ai muốn mình trở thành đối tượng phán xét của dư luận xã hội, do đó mỗi cá
nhân đều mong muốn có thể kiểm soát, điều chỉnh tình cảm, hành vi của mình phù
hợp với ý chí chung của cộng đồng xã hội. Với ý nghĩa đó, dư luận xã hội tác động
mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật, góp phần định hướng cho sự hình thành tình cảm
pháp luật tích cực, đúng đắn của mỗi công dân.
12

- Dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước pháp luật: Tâm
trạng của con người trước luật pháp là sự thể hiện trạng thái tâm lý của các cá nhân
trước các sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội thường ngày. Đây
là yếu tố rất linh động, dễ thay đổi của tâm lý pháp luật. Dưới tác động của các yếu tố
khác nhau, tâm trạng của con người trước thực tiễn cuộc sống thường được thể hiện ra
ở các trạng thái đối lập: hưng phấn - ức chế, lạc quan – bi quan, hi vọng – thất vọng,
quan tâm – thờ ơ… Những tâm trạng này sẽ được bộc lộ trong nội dung các phán xét,
đánh giá của dư luận xã hội qua đó tác động tới tâm trạng của con người trước pháp
luật.
- Dư luận xã hội tác động đến sự tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi ứng xử của
mỗi cá nhân trong phạm vi điều chỉnh của các quy phạp pháp luật hiện hành:
Không chỉ được biểu hiện ở tình cảm, tâm trạng của con người trước pháp luật, tâm lý
pháp luật còn được biểu hiện ở việc cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình
trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. Những phán xét, đánh giá của dư luận đối
với hành vi của cá nhân, ở một mức độ nào đó, đều tham gia vào việc điều chỉnh hành
vi pháp luật của cá nhân. Sức mạnh đặc trưng của dư luận xã hội khiến cho mỗi cá
nhân luôn phải suy nghĩ, xem xét trước khi thực hiện một hành vi pháp luật nào đó:
hành vi đó đúng hay sai? phù hợp hay không phù hợp với các quy định của pháp luật
hiện hành? Nếu thực hiện một hành vi nào đó thì có bị dư luận xã hội lên án hoặc phải

chịu sự xử lý theo các nguyên tắc luật định không? Điều đó cho thấy, dư luận xã hội
luôn có tác động tới cách thức mà mỗi cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của
mình.
13

C.KẾT LUẬN
Từ những phân tích ở trên ta có thể nắm được các tính chất cơ bản của dư luận xã
hội đó là tính khuynh hướng, tính lợi ích, tính lan truyền, tính bền vững tương đối,
tính dễ biến đổi và tính tương đối trong khả năng phản ánh thực tế xã hội. Từ đó có
thể thấy được các đặc trưng của dư luận xã hội so với các hiện tượng xã hội khác
cũng như vai trò của nó đối với đời sống xã hội. Đặc biệt thông qua việc đánh giá tác
động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật thông qua hệ tư tưởng pháp luật và
tâm lý pháp luật không chỉ giúp các nhà lập pháp trong quá trình ban hành pháp luật
mà còn giúp việc thực thi pháp luật được hiệu quả hơn trong thực tế.
14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng xã hội học, Nxb. CAND, Hà Nội,
2010
2. TS. Ngọ Văn Nhân, Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011.
3. TS. Ngọ Văn Nhân, Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật, Tạp chí
Triết học
15

×