Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
LỜI MỞ ĐẦU
Sự ra đời của kim loại thép đã góp phần lớn vào quá trình phát triển của loài
người. Kể từ khi công nghệ luyện thép đạt đến tầm cao mới là lúc kết cấu của thép trở
nên vững chắc hơn, thép đã xuất hiện ngày càng nhiều trong các công trình xây dựng
cầu đường, nhà cửa và dần thay thế các nguyên liệu xây dựng khác như đá và gỗ bởi
đặc tính vững chắc và dễ tạo hình của thép. Hơn nữa, thép cũng là nguyên vật liệu
chính cho các ngành công nghiệp khác như đóng tàu, phương tiện vận chuyển, xây
dựng nhà máy và sản xuất máy móc thiết bị phục vụ hoạt động sản xuất tạo ra sản
phẩm phục vụ đời sống con người.
Nhận biết được tầm quan trọng của ngành thép, hầu hết các quốc gia đã dành
nhiều chính sách ưu đãi để phát triển ngành thép. Với mục tiêu đưa đất nước trở thành
nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việt Nam đã coi ngành sản xuất thép là ngành
công nghiệp trụ cột của nền kinh tế, phát triển ngành thép để đáp ứng tối đa nhu cầu về
các sản phẩm thép của các ngành công nghiệp khác, của ngành xây dựng và tăng
cường xuất khẩu.
Vai trò của thép ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Do đó Nhà nước đã thực hiện các chính sách, biện pháp cần thiết tác động vào cung
cầu để bình ổn giá thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh thép, của người tiêu dùng, góp phần khuyến khích đầu tư,
phát triển kinh - tế xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận kinh tế vi mô, tiểu luận “Đánh giá tác động của
Chính sách bình ổn giá đối với thị trường thép xây dựng tại Việt Nam” sẽ làm rõ
các tác động của chính sách bình ổn giá tới cung, cầu, giá cả và hiệu quả thị trường
qua đó đề xuất các giải pháp thực hiện bình ổn giá thép xây dựng.
Cấu trúc của tiểu luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung tiểu luận gồm 3 chương, 14 tiết.
Mặc dù đã nhiều cố gắng nhưng chắc chắn tiểu luận không tránh khỏi thiếu sót,
tôi rất mong nhận được góp ý bổ sung và hoàn thiện từ các học viên và thầy cô. Trong
quá trình nghiên cứu Kinh tế vi mô, tôi đã nhận được nhiều kiến thức quý báu giảng
dạy từ giảng viên TS Hạ Thị Thiều Giao, tôi xin chân thành cảm ơn Cô và Trường ĐH
Ngân hàng TP Hồ Chí Minh.
Học viên: Lương Văn Sỹ 1
Giá
thép
Lượng thép
Cung
Cầu
Giá trần
Giá cân bằng
Lượng cung Lượng cầu
75
125
30
20
0
Thiếu hụt
Hình 2: Thị trường với giá trần
Giá
thép
Lượng thép
Cung
Cầu
Trạng thái cân bằng
Giá cân bằng
Lượng cân bằng
100
30
0
Hình 1: Trạng thái cân bằng cung cầu
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT GIÁ CẢ
1.1. Quan hệ cung – cầu và giá cả hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, cung và cầu là những lực lượng hoạt động trên thị
trường. Cung – cầu không chỉ có mối quan hệ với nhau mà còn tác động nhau quyết
định giá cả thị trường.
Khi cung tương ứng với cầu, thì giá cả thị trường ngang bằng với giá trị hàng
hoá. Khi cung lớn hơn cầu, thì giá cả thị trường xuống thấp hơn giá trị hàng hoá. Còn
khi cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả thị trường lên cao hơn giá trị hàng hóa.
Như vậy, cung và cầu thay đổi, dẫn đến làm thay đổi giá cả thị trường của hàng
hoá. Đồng thời, giá cả thị trường cũng có sự tác động ngược trở lại tới cung và cầu.
Nhìn chung, trong cơ chế thị trường khi không có sự nhất trí giữa cung và cầu, thì giá
cả có tác động điều tiết đưa cung cầu trở về xu hướng cân bằng nhau.
Trạng thái cân bằng của hàng hóa
là tình huống mà cung và cầu cân bằng
với nhau, đó là giao điểm của đường
cung và đường cầu.
Tại trạng thái cân bằng, lượng
hàng mua người mua sẵn sàng và có khả
năng mua đúng bằng lượng hàng hóa mà
người bán sẵn sàng và có khả năng bán.
Hoạt động của nhiều người bán và
nhiều người mua tự động đẩy giá thị
trường tới mức cân bằng. Khi thị trường
đạt tới trạng thái cân bằng của mình, tất cả người bán và người mua đều thỏa mãn.
Sự cân bằng cung và cầu chỉ là tạm thời và sự không cân bằng cung và cầu là
thường xuyên. Vì cung và cầu chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, mà các nhân tố này
luôn biến đổi, nên cung và cầu thường xuyên không cân bằng. Chính điều này đã hình
thành quá trình tác động lẫn nhau giữa cung, cầu, giá cả hàng hoá.
1.2. Tác động của giá trần tới kết cục thị trường.
Giá trần là mức giá tối đa được cơ
quan quản lý nhà nước quy định nhằm
bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Giả sử, mức giá thị trường là 30
triệu đồng/tấn thép. Để bảo vệ lợi ích
người tiêu dùng, Chính phủ đặt ra giá
trần là 20 triệu đồng/tấn thép. Tại mức
giá này lượng cầu về thép là 125 triệu
tấn vượt quá lượng cung là 75 triệu tấn.
Do xảy ra tình trạng thiếu hụt nên một
Học viên: Lương Văn Sỹ 2
Giá
thép
Lượng thép
Cung
Cầu
Giá sàn
Giá cân bằng
Lượng cung Lượng cầu
80
120
30
40
0
Thặng dư
Hình 3: Thị trường với giá sàn
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
số người mong muốn mua thép (có thể sẳn sàng mua ở mức giá cao hơn) nhưng không
mua được.
Khi tình hình thiếu hụt thép xảy ra do tác động của giá trần, thì một số hiện
tượng xảy ra như: xếp hàng chờ đợi; phân phối theo sự thiên vị cá nhân; thị trường
“chợ đen” xuất hiện. Như vậy, mặc dù giá trần được đưa ra nhằm mục đích giúp đỡ
người mua, nhưng không phải tất cả người mua đều được hưởng lợi từ chính sách này.
1.3. Tác động của giá sàn tới kết cục thị trường.
Giá sàn là mức giá tối thiểu được cơ quan quản lý nhà nước quy định nhằm bảo
vệ lợi ích của người sản xuất.
Giả sử, mức giá thị trường là 30
triệu đồng/tấn thép. Để bảo vệ lợi ích
của người sản xuất, Chính phủ đặt ra
giá sàn là 40 triệu đồng/tấn thép. Tại
mức giá này lượng cung về thép là 120
triệu tấn vượt quá lượng cầu là 80 triệu
tấn. Do xảy ra tình trạng dư thừa nên
một số người muốn bán thép với giá
hiện hành không bán được.
1.4. Chi phí sản xuất và giá cả.
Chi phí sản xuất thường là xuất
phát điểm để các nhà sản xuất dự kiến
mức giá bán sản phẩm và nó là mức tối thiểu của giá bán có thể chấp nhận được (bán
hoà vốn).
Giá bán dự kiến = Giá thành (chi phí sản xuất) + Lãi dự kiến
Tuy nhiên, khi xuất hiện độc quyền thì các tổ chức độc quyền có sức mạnh thị
trường thường đặt ra mức giá độc quyền cao, tức là giá bán hàng hóa cao hơn rất nhiều
so với chi phí sản xuất. Nhà nước cần có những chính sánh, biện pháp để hạn chế độc
quyền, kiểm soát chi phí sản xuất và giá cả hàng hóa.
1.5. Tác động của thuế đến kết cục thị trường.
Giả sử, Nhà nước quy
định mức thuế đánh vào sản
phẩm thép là 5 triệu
đồng/tấn. Thuế làm đường
cầu dịch chuyển sang trái
(hay xuống dưới) một lượng
đúng bằng mức thuế, từ D
1
xuống D
2.
Lượng cân bằng
giảm từ 100 triệu tấn xuống
còn 90 triệu tấn. Giá người
bán nhận được giảm từ 30
triệu đồng xuống còn 28 triệu
Học viên: Lương Văn Sỹ 3
Giá
thép
Lượng thép
Cung
D
2
Cân bằng trước thuế
Giá người
bán nhận
Lượng cung Lượng cầu
90
100
28
33
0
Hình 4: Thuế đánh vào sản phẩm
30
Giá
không
thuế
Giá người
mua trả
Thuế làm đường cầu
dịch chuyển xuống
dưới một lượng đúng
bằng mức thuế
Thuế
D
1
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
đồng. Giá người mua phải trả (bao gồm cả thuế) tăng từ 30 triệu đồng lên 33 triệu
đồng.
Như vậy, khi Chính phủ đánh thuế vào sản phẩm thì cả người mua và người bán
cùng chia sẽ gánh nặng thuế. Khi cung co giãn và cầu ít co giãn thì ảnh hưởng của
thuế là đánh vào người mua nhiều hơn. Khi cung ít co giãn và cầu co giãn thì ảnh
hưởng của thuế là đánh vào người bán nhiều hơn. Như vậy, gánh nặng của thuế có xu
hướng nghiêng về phía không co giãn của thị trường.
Chương 2
THỰC TRẠNG NGÀNH THÉP
VÀ CHÍNH SÁCH BÌNH ỔN GIÁ THÉP Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng ngành thép.
Quy mô sản xuất và tiêu thụ: Việt Nam là thị trường thép khá lớn trong khu vực
Asean với quy mô tiêu thụ 13 triệu tấn/năm trong năm 2010. Ngành thép có tốc độ
tăng trưởng nhanh, bình quân 10 năm qua trên 15%/năm và kỳ vọng duy trì tốc độ
10%/năm trong dài hạn. Doanh thu toàn ngành đạt khoảng 170.000 tỷ đồng, xấp xỉ
10% GDP của nền kinh tế. Nguồn cung sản xuất ước khoảng 7 triệu tấn trong đó 6
triệu tấn thép xây dựng, do đó một lượng cung đáng kể được nhập từ bên ngoài.
Phân khúc sản phẩm: Ngành thép phân chia theo hai dòng sản phẩm với chuỗi
sản xuất riêng biệt là dòng sản phẩm thép dài (thép cây, cuộn) và thép dẹt (tấm, lá). Tỷ
trọng 50:50 trong tổng nhu cầu tiêu thụ hàng năm. Trong đó, mảng thép dài phục vụ
chủ yếu lĩnh vực xây dựng và chi phối phần lớn bởi các doanh nghiệp trong nước,
nhập khẩu thành phẩm giảm dần và có xu hướng bằng không trong năm tới. Thép dẹt
có nhu cầu khoảng 6,5 triệu tấn/năm phục vụ hoạt động công nghiệp gồm các ngành
đóng tàu, ôtô, điện máy, Ở dòng sản phẩm này, đáng chú ý là hai sản phẩm tôn và
ống ứng dụng khá lớn trong ngành xây dựng và chiếm khoảng 20% sản lượng.
Sự chi phối của nhập khẩu: Yếu tố nhập khẩu gần như thường xuyên suốt trong
chuỗi sản xuất ngành và còn duy trì lâu dài ở khâu nguyên liệu. Sản xuất thép dài yêu
cầu lượng lớn phế liệu nhập khẩu do nguồn trong nước hạn chế với nhu cầu nhập 3,5
triệu tấn/năm. Lượng phôi nhập thêm cho các nhà máy cán khoảng 1,8 triệu tấn năm
2010. Ở thép dẹt, Việt Nam chưa sản xuất được phôi cho sản phẩm này và đang nhập
khẩu chủ yếu bán thành phẩm là thép cán nóng và nguội với sản lượng 5 triệu tấn/năm,
trong đó lượng cán nóng xấp xỉ 4 triệu tấn/năm. Việt Nam gần như không nhập khẩu
thành phẩm ở dòng sản phẩm này. Như vậy, tính trung bình tỷ trọng nhập khẩu chi
phối khoảng 75% trong tổng sản lượng đầu ra.
Những công ty đầu ngành: Với sản lượng khoảng 6 triệu tấn/năm, thép xây dựng
là phân khúc lớn tập trung những công ty thép hàng đầu của Việt Nam. Đây cũng là
mảng sôi động nhất trên thị trường sản xuất, đầu tư thép trong nước thời gian qua.
Theo thống kê của Hiệp hội thép Việt Nam, 11 doanh nghiệp lớn nhất chi phối trên
80% sản xuất thép xây dựng, trong đó các nhà máy mới đầu tư đi vào hoạt động của
các công ty cổ phần tạo ra sự chuyển dịch thị phần với vị trí dẫn đầu của Pomina
Học viên: Lương Văn Sỹ 4
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
(16,6%), và thứ 3 của Hòa Phát (12,0%). Hai đơn vị thuộc Vnsteel là Tisco và nhà
máy thép Miền Nam chiếm 12,6% và 7,6%. Vinakyoei là liên doanh duy nhất trong
nhóm top 5 với thị phần 8,7%. Nhóm 5 doanh nghiệp này đang chiếm 58% lượng cung
thép xây dựng. Tổng công ty thép Việt Nam (Vnsteel) là tổng công ty nhà nước thực
hiện vai trò điều tiết ngành thép với thị phần chi phối cao các năm qua. Hệ thống
Vnsteel có khoảng 11 công ty con, 10 đơn vị trực thuộc và 29 công ty liên kết với
khoảng 10 liên doanh sản xuất thép. Tuy nhiên, sự bùng nổ của hoạt động tư nhân làm
giảm đáng kể thị phần Vnsteel và vai trò chi phối cũng giảm dần. Nếu tính cả các công
ty con, công ty liên kết và liên doanh thì thị phần của VNsteel xấp xỉ 50% cả nước.
2.2. Cầu về thép xây dựng.
2.2.1. Tổng cầu về thép trong ngắn hạn và dài hạn.
Trung bình tiêu thụ thép (tính bình quân đầu người) các nước chậm phát triển từ
0 – 50 kg/người/năm, các nước đang phát triển từ 50 – 250 kg/người/năm, các nước đã
phát triển trên 250 kg/người/năm. Tại mức 250 kg/người/năm, nhu cầu thép của Việt
Nam là 21,5 triệu tấn/năm.
Cơ cấu sản phẩm cũng sẽ có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ lệ thép dẹt
(dùng trong công nghiệp) và giảm tỷ trọng thép dài (dùng trong xây dựng). Trung bình
tỷ lệ thép dài chiếm 80 – 85% ở các nước chậm phát triển, từ 60 – 65% ở các nước
đang phát triển và 30 – 35% ở các nước đã phát triển. Như vậy mức độ phát triển của
nền kinh tế sẽ giảm dần tỷ lệ tiêu thụ thép xây dựng của Việt Nam (hiện tại là 55%).
Theo giá trị tuyệt đối, sản lượng thép xây dựng bảo hòa vào khoảng 15 triệu tấn/năm.
2.2.2. Xu hướng tăng trưởng lượng cầu về thép xây dựng.
- Chính sách hạ tầng và tốc độ phát triển ngành xây dựng: Đây là hai nguồn cầu
về thép xây dựng, tăng trưởng cao của các lĩnh vực này sẽ tạo nên tốc độ phát triển
tương đương của ngành thép. Trong năm 2010, tăng trưởng ngành xây dựng Việt Nam
là 10%. Theo dự báo của BMI, giá trị đầu tư hạ tầng cũng như giá trị xây dựng có thể
đạt tốc độ tăng trên 20% năm 2011. Giả sử tỷ lệ tương đương về giá trị thép trong giá
trị xây dựng và đầu tư hạ tầng khoảng 20%, nhu cầu tiêu thụ thép có khả năng phát
triển mạnh với mức tăng trên 20% trong 3 năm tới và vẫn duy trì trên 10%/năm trong
dài hạn.
- Tiềm năng tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế sẽ thúc đẩy nhu cầu tiêu
thụ thép chung bao gồm cả thép xây dựng và thép công nghiệp. Theo đó, ngành thép
sẽ có tiềm năng tăng trưởng rất lớn trong dài hạn tương ứng với tiềm năng kinh tế của
Việt Nam. Theo dự phóng của Bộ Công thương, nhu cầu thép dẹt có thể tăng
10%/năm và thép dài khoảng 7%/năm trong dài hạn. Về ngắn hạn, tăng trưởng thép
dài có thể đạt cao hơn, trung bình 7 – 10%/năm do tác động các chính sách đầu tư hạ
tầng lớn cũng như tốc độ xây dựng.
2.3. Cung về thép xây dựng.
2.3.1. Tổng cung về thép trong ngắn hạn và dài hạn.
Ước tính đến cuối năm 2010, tổng công suất thép thành phẩm của Việt Nam đạt
khoảng 10 triệu tấn/năm, bao gồm 8 triệu tấn thép xây dựng, 1,2 triệu tấn tôn và 0,95
triệu tấn ống thép. Dự báo cuối năm 2011, công suất này là 11 triệu tấn/năm. Nguồn
Học viên: Lương Văn Sỹ 5
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
cung này khá tương đương so với nguồn cầu, tuy
nhiên cơ cấu đầu tư và sản xuất không cân đối gây
ra tình trạng thừa công suất một số sản phẩm đã có
trong khi thiếu công suất một số sản phẩm khác.
Thép xây dựng là lĩnh vực có sự gia tăng
cung ồ ạt trong 3 năm gần đây, kết quả của quá
trình đầu tư mạnh trước đó sau khi nhu cầu thép
tăng cao các năm 2006 – 2007. Công suất tăng
thêm của sản phẩm này vào khoảng 3 triệu tấn
trong 3 năm qua và dự báo duy trì 2 – 3 năm tới,
khả năng đạt 10 triệu tấn vào năm 2012 với khá
nhiều dự án đang triển khai thực hiện.
2.3.2. Cung về thép của các dự án FDI.
Tổng quy mô đầu tư của 8 dự án FDI lớn hiện nay là 40 tỷ USD, với tổng công
suất thiết kế là 62 triệu tấn/năm. Với quy mô đầu tư như vậy, các dự án này hoàn thành
đi vào hoạt động sẽ gây ra áp lực cung lớn do nhu cầu thép tối đa của Việt Nam dự
tính chỉ khoảng 40 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, áp lực nhìn ở thời điểm hiện hành không
đáng lo ngại do hầu hết chỉ dừng ở mức đăng ký, triển khai chậm, một số đã bị rút
phép đầu tư, tính khả thi không cao. Ngoài ra, phần lớn các dự án này tập trung vào
sản xuất các nguyên liệu và các sản phẩm thép đang thiếu cung tại Việt Nam như thép
cán nóng, cán nguội, và phôi dẹt. Do đó, các dự án này không ảnh hưởng đáng kể đến
cách doanh nghiệp thép nội địa do khác phân khúc, đặc biệt không cạnh tranh với phân
khúc lớn về thép xây dựng.
2.4. Quan hệ cung cầu về thép xây dựng.
So sánh chênh lệch giữa tổng công suất cung như trên với nguồn cầu hiện tại
(xấp xỉ 6 triệu tấn) tạo ra khoảng thừa cung đáng kể ở mảng thép xây dựng. Tuy nhiên,
xem xét công suất khả dụng, áp lực này có thể thấp hơn. Cụ thể, loại trừ công suất các
nhà máy cũ, lạc hậu khoảng 750.000 – 1.000.000 tấn, công suất có thể hoạt động
khoảng 7,2 triệu tấn, gồm nhà máy có công nghệ hiện đại (5,7 triệu tấn), nhà máy có
công nghệ trung bình (1,5 triệu tấn). Ngành thép sẽ tồn tại áp lực cung ngắn hạn. Tuy
nhiên, áp lực này sẽ gây tác động ở việc giảm tỷ lệ công suất hoạt động các công ty
hơn là cạnh tranh giá, do đòi hỏi vốn lưu động lớn nên các doanh nghiệp thường có xu
hướng sản xuất theo nhu cầu thị trường hơn là cạnh tranh giá cả. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp nhóm công nghệ hiện đại sẽ có lợi thế cạnh tranh tốt hơn. Về dài hạn,
nguồn cung trên vẫn thấp hơn nhu cầu dài hạn là 15 triệu tấn.
2.5. Chính sách thuế.
Ngành thép là lĩnh vực mang tính toán cầu do sự chi phối chặt chẽ từ thị trường
thế giới đến thị trường trong nước, đặc biệt về giá cả. Trong đó, thương mại trong khu
vực ở thị trường thép khá lớn. Là công cụ được sử dụng thường xuyên trong việc điều
tiết cung cầu trong nước, chính sách thuế và các cam kết quốc tế là yếu tố quan trọng
tác động ngành và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn.
Ba cam kết lớn nhất ngành thép đang tham gia là CEPT/AFTA với khu vực ASEAN,
ACFTA với ASEAN + Trung Quốc, WTO với các nước trên thế giới. Trong đó lộ
trình giảm thuế trong các cam kết như sau:
Học viên: Lương Văn Sỹ 6
Biểu đồ 1: Cơ cấu sản xuất thép
năm 2010
Biểu đồ 1: Diễn biến giá thép trong nước
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
Cam kết CEPT/AFTA ACFTA WTO
Khu vực ASEAN ASEAN + Trung Quốc Thế giới
Lộ trình giảm thuế Thuế 0% vào 2015 Thuế 15% vào 2015 Thuế 0% vào 2014-2017
Bảng 1: Các cam kết quốc tế liên quan ngành thép
Theo cam kết lộ trình giảm thuế, mức thuế suất nhập khẩu đối với thép từ các
nước ASEAN sẽ giảm còn 0% chậm nhất là năm 2015, với mức thuế suất như thế này,
bảo hộ thép trong nước sẽ không còn. Tuy nhiên, có một số yếu tố làm cho áp lực cạnh
tranh khu vực này không đáng ngại. ASEAN hiện vẫn là khu vực nhập khẩu ròng về
thép với tình trạng sản xuất chưa đủ cung ứng. Hiện tại, nhiều loại thép đã áp dụng
mức thuế 0 – 3% như thép cuộn, phôi thép và các sản phẩm không hợp kim cán phẳng,
chưa phủ mạ hoặc tráng. Do đó, việc giảm thấp hơn về 0% sẽ không gây ra cú sốc lớn
cho ngành.
Đối với cam kết ACFTA, thuế suất cam kết từ ngày 1/1/2006 là 35%, thuế nhập
khẩu sẽ được giảm xuống 15% vào năm 2015. Đối với thép xây dựng, lộ trình giảm
thuế nhanh hơn và đạt 15% vào năm 2014. Với mức thuế này, trong trung hạn, thép
Việt vẫn có mức bảo hộ tốt đối với thép từ Trung Quốc khi lộ trình giảm thuế triển
khai chậm. Do đó, dự báo nguồn thép này sẽ không gây ảnh hưởng nhiều lên thị
trường nội địa trong các năm tới.
Đối với cam kết WTO, trong năm 2009 thuế suất áp dụng đối với WTO là 15%
và năm 2010 đã thực hiện giảm 1 – 2% cho một số sản phẩm. Theo quy định, mỗi năm
thuế nhập khẩu sẽ có những mức giảm khác nhau, đến năm 2014 và xa nhất là năm
2017, một số sản phẩm thép ngoại sẽ có mức thuế bằng 0%. Giống như cam kết
CEPT/AFTA, sau năm 2014 ngành thép trong nước sẽ chịu cạnh tranh mạnh từ thép
nhập khẩu từ WTO. Tuy nhiên, hiện tại thì Châu Âu đang là khu vực xuất khẩu chủ
yếu vào Việt Nam và chúng ta kỳ vọng các doanh nghiệp trong nước vẫn có lợi thế
cạnh tranh về giá thành do chi phí vận chuyển. Hiện tại, chi phí này khoảng 20 USD –
30 USD/tấn, tương đương 5% giá thành thép.
2.6. Giá thép và các nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến biến động giá thép.
Giá thép biến động khá
mạnh trong 3 năm gần đây sau
giai đoạn khá ổn định trước đó,
tạo ra rủi ro cao cho hoạt động
doanh nghiệp trong ngành. Tuy
nhiên, nếu xét tình hình giá của
những mặt hàng khác như dầu
thô có thể thấy giá dầu cũng có
sự biến động khá tương đương.
Điều đó cho thấy tình trạng
kinh tế vĩ mô thiếu ổn định
trong thời gian qua tạo ra sự
biến động của giá cả hàng hóa
nói chung và giá thép không
phải là ngoại lệ.
Học viên: Lương Văn Sỹ 7
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
Quặng sắt là một trong những nguyên liệu đầu tiên trong quy trình sản xuất thép
và hiện quy trình này cung cấp 70% sản lượng thép trên thế giới (30% được sản xuất
từ phế liệu). Các nước sản xuất quặng sắt chính bao gồm Trung Quốc, Úc, Ấn Độ và
Brazil. Trong đó chỉ có Úc, Brazil và Ấn Độ là nước xuất khẩu chính do Trung Quốc
chủ yếu khai thác quặng để phục vụ cho thị trường nội địa. Do nắm giữ nguồn cung
nên các nước xuất khẩu quặng có khả năng chi phối nhất định lên giá quặng sắt trên
thế giới, cụ thể những thay đổi vĩ mô tại các nước này như tỷ giá, lạm phát, lãi suất,
đều có thể gây biến động lên giá quặng thế giới và giá thép đầu ra. Trong năm tới, dự
báo tác động từ các thị trường này sẽ tiếp tục duy trì do kinh tế vĩ mô còn nhiều vấn
đề.
Sản xuất thép là ngành thâm dụng vốn rất lớn, bao gồm vốn vay để đầu tư tài sản
cố định và vốn vay ngắn hạn tài trợ vốn lưu động. Vì thế, lãi suất có tác động nhiều lên
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và gián tiếp ảnh hưởng đến giá thép. Cụ thể
trong trường hợp lãi suất tăng và cầu giảm, doanh nghiệp nắm giữ hàng tồn kho nhiều
sẽ chịu áp lực tài chính lớn từ chi phí lãi vay cao hơn và cũng như dòng tiền hoàn trả
nợ vay. Do đó, các công ty sẽ tìm cách đẩy hàng nhanh để thu hồi vốn làm cung tăng
đột ngột và gây áp lực giảm lên giá bán. Đây cũng là yếu tố làm cho giá thép dễ biến
động hơn. Lạm phát là một yếu tố tác động đến giá thép. Khi giá nguyên vật liệu tăng
do lạm phát, giá thép sẽ chịu tác động dây chuyền và tăng theo. Biến động tỷ giá tại
các thị trường xuất khẩu, USD cũng gây ra điều tiết tương đương theo đồng nội tệ
trong nước. Với xu hướng lạm phát và lãi suất tăng trên thế giới dự báo trong năm
2011, các yếu tố sẽ tiếp tục gây ra các biến động lên giá thép trong nước.
Theo đó, giá thép sẽ chưa ổn định trong năm 2011 và với áp lực lạm phát chúng
ta nghiêng về dự báo giá tăng trong năm 2011. Tuy nhiên, kỳ vọng giá thép có thể ổn
định hơn về dài hạn nền kinh tế đi vào giai đoạn ổn định hơn. Do đó khả năng giá thép
sẽ ít biến động hơn trong dài hạn.
Ngành bất động sản có vai trò quan trọng đối với nguồn cầu thép xây dựng nên
những biến động cung cầu trong ngành này sẽ gây tác động trực tiếp đến thị trường
thép. Sự gia tăng nóng của thị trường này năm 2007 có thể xem là nguyên nhân chính
của sự tăng trưởng mạnh nhu cầu thép trong năm này. Hiện tại, thị trường bất động sản
gần như đã qua thời kỳ đỉnh điểm trong một chu kỳ phát triển. Theo đó, chúng ta
không kỳ vọng tác động tốt từ thị trường này đến nhu cầu ngành thép trong năm 2011
do các yếu tố vĩ mô và chính sách không có nhiều khuyến khích và hỗ trợ. Cụ thể, lãi
suất cho vay bất động sản cao và khó giảm trong khi xu hướng tín dụng hạn chế, vốn
đầu tư giải ngân vào lĩnh vực này cũng chậm lại khiến cho ngành này không có nhiều
đột biến trong năm 2011. Trong dài hạn, bất động sản vẫn được đánh giá là thị trường
còn rất nhiều tiềm năng tăng trưởng nên ảnh hưởng thị trường này đến ngành thép vẫn
còn rất tốt.
Xu hướng lãi suất cao trong năm 2011 sẽ tác động không tốt đến thị trường thép
năm nay. Theo đó, khuynh hướng thị trường tiền tệ, tài chính sẽ kém hỗ trợ đối với sự
phát triển của thị trường thép.
Học viên: Lương Văn Sỹ 8
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BÌNH ỔN GIÁ THÉP
3.1. Phương hướng quản lý và điều hành về giá.
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam vận động theo cơ chế thị trường và có sự quản
lý, định hướng của Nhà nước, do đó nó chịu sự tác động của những quy luật vốn có
của kinh tế thị trường như: qui luật giá trị, qui luật cạnh tranh, qui luật cung – cầu ,
giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối
các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Phướng hướng quản lý và điều hành về giá, chúng ta cần thực hiện tự do hóa thị
trường và giá cả. Đây là quan điểm mang tính tiền đề. Bởi vì, có thực hiện phát triển
sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường thì nền sản xuất hàng hoá mới phát triển thực
sự theo đúng nghĩa của nó, đảm bảo sự hoạt động khách quan của các qui luật vốn có
của nó. Không tự do hoá thị trường thì không làm bộc lộ đầy đủ những mâu thuẫn vốn
có, những hạn chế nội tại của kinh tế thị trường mà chính sách và cơ chế quản lý giá
của Nhà nước lại phải hướng vào giải quyết những vấn đề đó.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: “Tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về kinh tế thị trường, tạo lập đồng bộ và vận hành thống suất các loại
thị trường, để các giao dịch thị trường diễn ra phù hợp với các nguyên tắc của thị
trường. Phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ theo hướng đẩy mạnh tự do hoá thương
mại và đầu tư phù hợp với các cam kết song phương, đa phương của nước ta và theo
thông lệ quốc tế, tạo sự phát triển mới, nhanh toàn diện thị trường dịch vụ; thúc đẩy
cạnh tranh, kiểm soát độc quyền, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng; tôn trọng quyền định
giá và cạnh tranh về giá cả của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, thực hiện
quản lý Nhà nước về giá đối với một số hàng hoá, dịch vụ độc quyền phù hợp với cơ
chế thị trường và nguyên tắc của hội nhập quốc tế”.
Để thực hiện phát triển sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, đòi hỏi phải thể
chế hoá mọi điều kiện, đảm bảo cho sự hoạt động khách quan của nền kinh tế thị
trường. Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
theo luật pháp. Đồng thời, cũng phải thấy được vai trò của Nhà nước trong việc quản
lý thị trường và giá cả. Nhà nước không can thiệp trực tiếp, can thiệp sâu vào công
việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng nhà nước có định hướng (có ngành
nghề phải yêu cầu bắt buộc) và chỉ dẫn các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh
cũng như quyết định mức giá để đảm bảo lợi ích của người sản xuất và người tiêu
dùng.
Các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, đều phải bình đẳng với nhau
về các mặt như: vay vốn ngân hàng, định giá sản phẩm, chính sách thuế không phân
biệt doanh nghiệp đó thuộc loại hình sở hữu nào. Có như vậy khi tham gia vào thị
trường mới đảm bảo công bằng theo đúng luật và buộc các doanh nghiệp phải cạnh
tranh nhau để giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất.
3.2. Giải pháp thực hiện bình ổn giá thép xây dựng.
3.2.1. Hoàn thiện cơ chế quản lý giá.
Học viên: Lương Văn Sỹ 9
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
Tiếp tục thực hiện cơ chế quản lý giá thép theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đó là cơ chế: Nhà nước thực hiện điều hành giá bằng hệ thống những
nguyên tắc và quy luật kinh tế khách quan của giá cả trong nền kinh tế thị trường (quy
luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh…) vừa dựa trên cơ sở được dẫn dắt bởi những
nguyên tắc và bản chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội là công bằng, hiệu quả và ổn định,
nhằm phát huy những tác động tích cực, khắc phục những tác động tự phát của cơ chế
giá thị trường như: độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh, tự phát điều tiết các
nguồn nhân lực và cơ cấu sản xuất dẫn đến phá vỡ các cân đối vĩ mô, tự phát phân hoá
những người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo.
3.2.2. Ra soát lại và điều chỉnh hợp lý quy hoạch tổng thể ngành thép.
Theo đánh giá chung, so với mục tiêu quy hoạch phát triển của ngành (được phê
duyệt tại Quyết định số 145/2007/QĐ-TTg), thì sản xuất và phân phối mặt hàng thép
thời gian qua vẫn tồn tại nhiều hạn chế, trong đó có nghịch lý vừa thừa, vừa thiếu nếu
xét riêng từng chủng loại sản phẩm, cơ cấu đầu tư. Hầu hết các dự án trong nước sản
xuất quy mô nhỏ, trình độ công nghệ, thiết bị lạc hậu, năng suất thấp, chủng loại, cơ
cấu sản phẩm còn đơn điệu.
Do đó cần rà soát lại và phát triển ngành thép Việt Nam theo hướng đáp ứng đủ
và kịp thời về số lượng và chủng loại các sản phẩm thép cho nền kinh tế, đảm bảo bình
ổn thị trường, không để xảy ra tình trạng thiếu thép, cân đối đầu tư vào các sản phẩm,
từng bước xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ. Quy hoạch phát triển ngành thép phải thay
đổi về chất. Trước hết, thay thế công nghệ hiện nay bằng các công nghệ hiện đại, có
tính bền vững, đảm bảo môi trường, cân đối năng lượng. Tiếp theo, thay đổi quy mô
sản xuất hài hòa, đa dạng về chủng loại đáp ứng mọi nhu cầu.
Quy hoạch phát triển ngành thép phải đẩy mạnh đầu tư luyện phôi từ phế liệu
hoặc quặng sắt để đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất thép trong nước và dần dần thay
thế hoàn toàn nhập khẩu phôi thép.
3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống bán lẻ hiệu quả.
Theo nhận định, một trong những nguyên nhân dẫn đến giá thép tăng cao, bất
hợp lý là hệ thống phân phối thép. Bởi vì nguồn cung về thép xây dựng vượt khá xa
nhu cầu, nhưng nguồn cung thép ở một số địa phương vào một số thời điểm vẫn thiếu
hụt. Hiện các doanh nghiệp lớn sản xuất thép ở trong nước, nhất là VNSteel mới chủ
yếu đầu tư phát triển hệ thống phân phối bán sỉ và một vài hệ thống phân phối thép
đến chân công trình, trong khi chưa xây dựng được hệ thống bán lẻ phù hợp. Do vẫn
phụ thuộc nhiều vào hệ thống bán lẻ sẵn có của tư nhân nên các doanh nghiệp sản xuất
thép không thể điều tiết và kiểm soát giá thép bán ra trong hệ thống.
Bên cạnh đó, hệ thống phân phối có cấu trúc bất hợp lý, vẫn tồn tại nhiều cấp
trung gian là một nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong quản lý thị trường, khả năng dự
báo thị trường, chưa xây dựng được một số nhà phân phối lớn, chuyên nghiệp đủ sức
bình ổn được thị trường.
3.2.4. Hoàn thiện công cụ quản lý và nâng cao năng lực kiểm soát, điều tiết giá của cơ
quan Nhà nước.
Học viên: Lương Văn Sỹ 10
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
Nhà nước xây dựng môi trường pháp lý về giá cả nhằm tạo lập thị trường và cạnh
tranh, nghiên cứu sửa đổi những nội dung không còn phù hợp của Pháp lệnh Giá, tiến
tới xây dựng Luật Giá.
Các cơ quan quản lý thị trường tăng cường kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý
những vi phạm về giá cả: vi phạm quy định về bình ổn giá; vi phạm quy định về hiệp
thương giá; vi phạm qui định về khung giá, mức giá của cơ quan có thẩm quyền; vi
phạm quy định về lập phương án giá; vi phạm quy định về niêm yết giá; vi phạm quy
định về các hành vi bị cấm quy định tại điều 28 Pháp lệnh Giá; vi phạm quy định về sử
dụng tiền trợ giá, trợ cước vận chuyển hàng hoá, các khoản tiền hỗ trợ để thực hiện
chính sách giá.
Các chi cục quản lý thị trường tăng cường kiểm tra, giám sát thị trường, xử lý kịp
thời các hiện tượng đầu cơ nâng giá thép, gian lận thương mại.
Nhà nước tổ chức hệ thống thu nhập, phân tích các thông tin kinh tế, tài chính,
tiền tệ, giá cả; dự báo xu hướng diễn biến của giá cả thị trường trong nước và thế giới
đối với từng sản phẩm thép; dự báo chỉ số giá tiêu dùng xã hội để xây dựng cơ sở dữ
liệu thông tin thị trường giá cả phục vụ công tác quản lý điều hành giá cả. Nghiên cứu,
đề xuất các chính sách và đường lối chiến lược quan trọng về giá như: xây dựng định
hướng điều hành giá hàng năm, 5 năm và 10 năm.
3.2.5. Sử dụng hợp lý các biện pháp trực tiếp quản lý giá.
Trong nhưng trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể quy định trực tiếp mức giá
trần, giá sàn hoặc biên độ biến động giá cho phép trong một thời gian nhất định.
Trợ giá, trợ cước đối với sản phẩm phục vụ đồng báo vùng sâu, vùng xa, hải đảo,
vùng đặc biệt khó khăn.
Kiểm soát chi phí và giá cả khi có tình trạng khẩn cấp: thiên tai, bão lụt, chiến
tranh.
3.2.6. Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất thép khó khăn.
Nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp bằng cách hoãn nộp thuế, hoặc miễn thuế
cho các doanh nghiệp thật sự khó khăn; xây dựng Quỹ bình ổn thép, thép phế và phôi
thép; nghiên cứu nâng mức thuế nhập khẩu một cách hợp lý với phôi thép, thép xây
dựng, ống thép hàn, thép mạ phù hợp với WTO, AFTA, Asean+1 (Trung Quốc,
Nhật, Hàn Quốc).
Học viên: Lương Văn Sỹ 11
Tiểu luận môn Kinh tế vi mô Lớp : CH K9 VungTau
KẾT LUẬN
Thép xây dựng có vai trò ảnh hưởng quan trọng đến quá trình phát triển kinh tế -
xã hội. Do đó Nhà nước cần thực hiện các chính sách, biện pháp cần thiết tác động vào
cung cầu để bình ổn giá thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức,
cá nhân sản xuất, kinh doanh thép, của người tiêu dùng, góp phần khuyến khích đầu
tư, phát triển kinh - tế xã hội.
Diễn biến giá thép trong nước thường liên thông từ ảnh hưởng giá cả thế giới.
Giá thép chịu ảnh hưởng đáng kể bởi biến động của tỷ giá, lãi suất, lạm phát, chính
sách tài chính, tiền tệ. Ngoài ra, ngành bất động sản và chính sách xây dựng cơ sở hạ
tầng có vai trò quan trọng đối với nguồn cầu thép xây dựng nên những biến động cung
cầu trong ngành này sẽ gây tác động trực tiếp đến thị trường thép.
Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế ngày càng mở rộng, thị trường trong nước và
và thị trường thế giới ngày càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Nhà nước cần thực hiện
tốt tự do thương mại và bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh
tranh hàng hóa của nước ta, giữ vững được độc lập chủ quyền, bảo vệ được lợi ích
quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Thực hiện bình ổn giá thép xây dựng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam,
Nhà nước cần đảm bảo sự hoạt động khách quan của các qui luật vốn có của kinh tế thị
trường như: quy luật cung – câu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh , đồng thời Nhà
nước phải hoàn thiện các chính sách, công cụ quản lý để quản lý và điều tiết đảm bảo
ổn định giá cả, tạo tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế - xã hội.
Học viên: Lương Văn Sỹ 12