Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm qua nền kinh tế Việt Nam đang đi lên từng ngày,
đời sống người dân dược nâng cao thu nhập tăng làm cho nhu cầu mua ôtô
tăng lên.Tuy nhiên thị trường ôtô nước ta chưa phát triển chưa đáp ứng
được nhu cầu của người dân.Thu nhập của người dân việt nam so với thế
giới là rất thấp nhưng ôtô ở nước ta hiện nay có giá cao nhất nhì thế giới.
Ngành công nghiệp ôtô của nước ta cũng chưa phát triển, chưa có công
nghiệp sản xuất ôtô thực sự, cơ cấu mất cân đối. Thị trường ôtô nội địa vẫn
chưa có sự ổn định cần thiết chưa có cơ chế quản lý và điều tiết hợp lý
trước sự thay đổi một cách chóng mặt của kinh tế xã hội trong nước cũng
như trên thế giới. Làm sao để điều hoà được lợi ích người tiêu dùng, lợi ích
của nhà sản xuất,lợi ích của nhà nước, sự phát triển cân đối ổn định và bền
vững của ngành công nghiệp và thị trường ôtô nước nhà, đó thực sự là
thách thức lớn cho ngành công nghiệp ôtô và các nhà quản lý thị trường, và
để làm được điều đó đòi hỏi phải có sự kết hợp có hiệu quả của nhà nước
và tất cả các bộ ngành, các doanh nghiệp, các cá nhân và tổ chức liên
quan…
Chính vì vậy em chọn đề tài : “ Sự tác động của chính sách nhập
khẩu ô tô cũ tới nền công nghiệp ô tô Việt Nam” để làm đề án cho môn
học của mình. Chắc hẳn đề án của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót,
em mong cô giúp đỡ và góp ý kiến để em có thể hoàn thành một cách tốt
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. NHẬP KHẨU LÀ GÌ VÀ VAI TRÒ CỦA NHẬP KHẨU
1. Nhập khẩu là gì?
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế.Nhập
khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống
trong nước.
2. Vai trò của nhập khẩu.
2.1. Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá đất nước.
Kinh tế Việt Nam từ trước đến nay cơ bản xuất phát từ một nền sản
xuất nông nghiệp quy mô nhỏ.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
xác định đến năm 2010 tỷ trọng nông nghiệp chiếm 16-17% ;Công nghiệp
chiếm 40-41% và dịch vụ chiếm 42-43%.Để thực hiện được chỉ tiêu này
nhập khẩu có vai trò rất quan trọng trong việc nhập khẩu công nghệ mới
trang bị cho các ngành kinh tế như điện và điện tử,công nghiệp đóng
tàu,chế biến dầu khí…Từ đó sẽ hưóng các ngành kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá.
2.2. Nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mất cân đối của nền kinh tế
đảm bảo phát triển kinh tế cân đối và ổn định.
Một nền kinh tế muốn phát triển tốt cần đảm bảo sự cân đối theo
những tỷ lệ nhất định như: Cân đối giữa khu vực 1 và khu vực 2; giữa tích
luỹ và tiêu dùng; giữa hàng hoá và lượng tiền trong lưu thông; giữa xuất
khẩu với nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế.
Nhập khẩu có tác động rất tích cực thông qua việc cung cấp các điều
kiện đầu vào làm cho sản xuất phát triển, mặt khác tạo điều kiện để các
quốc gia chủ động hội nhập kinh tế quốc tế , tận hưởng được những lợi thế
từ thị trường thế giới và khắc phục những mặt mất cân đối thúc đẩy kinh tế
quốc dân phát triển.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2.3. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân
dân.
Nhập khẩu có vai trò làm thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về
hàng tiêu dùng, mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không
đủ như thuốc chữa bệnh, đồ điện gia dụng,lương thực, thực phẩm…
Đảm bảo đầu vào cho sản xuất, khôi phục lại những ngành nghề cũ,
mở ra những ngành nghề mới tạo nhiều việc làm ổn định cho người lao
độn, từ đó tăng khả năng thanh toán.
2.4. Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy sản xuất.
Sự tác động này thể hiệ ở chỗ nhập khẩu tạo đầu vào cho sản xuất
hàng xuất khẩu, điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát
triển, vì khả năng sản xuất của các quốc gia này còn có hạn. Do vậy, nhiều
quan niệm còn cho rằng, đây chính là hiện tượng “lấy nhập khẩu nuôi nhập
khẩu” và sự phát triển gia công xuất khẩu ở Trung Quốc, Việt Nam là
những minh chứng cụ thể.
Tạo môi trường thuận lợi cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu
hàng hoá của một quốc gia ra nước ngoài, thông qua quan hệ nhập khẩu
cũng như các hình thức thanh toán đòi hỏi kết hợp nhập khẩu với xuất
khẩu.
II. CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU
1. Nguyên tắc cơ bản trong chính sách nhập khẩu.
1.1. Sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm hợp lý đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, việc mua bán với các
nước từ nay đều tính theo thời giá quốc tế và thanh toán với nhau bằng
ngoại tệ tự do chuyển đổi, không còn nhiều cơ hội cho các khoản vay đẻ
nhập siêu, không còn ràng buộc theo Nghị định thư như trước đây. Do vậy,
tất cả các hợp đồng nhập khẩu phải dựa trên lợi ích và hiệu quả để quyết
định. Đồng thời, nhu cầu nhập khẩu để công nghiệp hoá và phát triển kinh
tế rất lớn. Vốn để nhập khẩu lại eo hẹp nhưng không phải vốn ngoại tệ
dành cho nhập khẩu ít mới đặt ra vấn đề phải tiết kiệm. Tiết kiệm và hiệu
quả là vấn đề rất cơ bản của một quốc gia, cũng như của mỗi doanh nghiệp.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thực hiện nguyên tắc này, có nghĩa là phải đòi hỏi các cơ quan quản lý
cũng như mỗi doanh nghiệp phải:
+ Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật của đất nước.
+ Sử dụng vốn tiết kiệm, dành ngoại tệ nhập vật tư cho sản xuất và
đời sống, khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu.
+ Nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá đúng chủng
loại, đủ số lượng, kịp thời gian, giá cả phù hợp, nhanh chóng phát huy tác
dụng, đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
1.2. Nhâp khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại, phù hợp với điều kiện
của Việt Nam.
Việc nhập khẩu thiết bị máy móc và nhận vận chuyển giao công
nghệ, kể cả thiết bị theo con đường đầu tư phải nắm vững phương châm đi
thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại. Nhập phải hết sức chọn lọc, hết sức
tránh nhập những loại công nghệ lạc hậu các nước đang tìm cách thải ra.
Nhất thiết không vì “mục tiêu rẻ” mà nhập các thiết bị cũ về,chưa dùng
được bao lâu, chưa đủ sinh lợi nhuận, đã phải thay thế. Đây không chỉ là
bài học ta rút ra được qua một số năm gần đây, mà còn là kinh nghiệm của
hầu hết các nước đang phát triển.
Mặt khác, cần phải kết hợp với điều kiện quản lý và sử dụng ở Việt
Nam, tránh tình trạng nhập khẩu thiết bị kỹ thuật về chậm đưa vào quá
trình sản xuất lâu phát huy tác dụng, mang nặng tính chất trưng bày, phô
trương, sử dụng không hết công suất.
1.3. Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất
khẩu.
Thị trường thế giới trong những thập kỷ gần đây luôn có tình trạng
tổng cung lớn hơn tổng cầu ( trừ một số nguyên nhiên liệu khan hiếm và
hàng hoá độc quyền ). Trong trường hợp đó việc nhập khẩu dễ hơn là tự
sản xuất trong nước. Với điều kiện sản xuất hiện tại của Việt Nam, giá
hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, phẩm chất tốt hơn. Nhưng nếu ỷ lại vào
nhập khẩu sẽ không mở mang được sản xuất, thậm chí bóp chết sản xuất
trong nước. Vì vậy, cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước ta trong
từng thời kì đẻ mở mang sản xuất vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa về
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
số lượng và chất lượng, vừa tạo ra được nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị
trường nước ngoài. Tuy nhiên, không nên bảo hộ sản xuất nội địa với bất
cứ giá nào.
Vì những lý do trên, hàng năm các quốc gia đều công bố danh mục
thuế nhập khẩu, danh mục quản lý bằng hạn ngạch, giấy phép…nhằm đảm
bảo cân đối giữa nhu cầu nhập khẩu và phát triển sản xuất trong nước.
2. Các công cụ quản lý điều hành nhập khẩu.
2.1. Thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là một loại thuế quan đánh vào hàng mậu dịch, phi
mậu dịch, khi hàng hoá đi qua khu vực hải quan của một nước.
Phương pháp đánh thuế:
+ Thuế tính theo giá: là loại thuế đánh một tỷ lệ phần trăm ( % ) nhất
định trên giá hàng nhập khẩu phù hợp.
+ Thuế tuyệt đối: là loại thuế quy định mức thuế theo giá trị tuyệt đối
tính trên đơn vị hàng hoá nhập khẩu ( số lượng, trọng lượng, dung tích…)
+ Thuế theo mùa: là loạ thuế áp dụng mức thuế khác nhau tuỳ thuộc
vào mùa nhập khẩu.
+ Hạn ngạch thuế: là loại thuế áp dụng mức thuế suất bằng 0% hoặc
thấp khi hàng hoá nhập khẩu trong giới hạn số lượng hạn ngạch nhập khẩu
quy định, nhưng khi nhập khẩu vượt quá hạn ngạch thì phải chịu mức thuế
cao hơn đối với phần vượt đó.
+ Thuế lựa chọn: là loại thuế quy định cả hai cách tính theo giá và
theo lượng, có thể chọn một trong hai cách tính theo số tiền thuế cao hay
thấp.
+ Thuế hỗn hợp: là loại thuế vừa áp dụng tính theo số lượng vừa áp
dụng tính theo giá trên số hàng nhập khẩu.
+ Thuế tính theo giá tiêu chuẩn: là loại thuế đánh vào hàng nhập
khẩu khi có sự chênh lệch giữa giá nhập khẩuvà giá tiêu chuẩn do nhà nước
quy định.
2.2. Hàng rào phi thuế quan
Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp biên giới nằm ngoài
pham vi thuế quan có thể được các quốc gia sử dụng, thông thường dựa
trên cơ sở lựa chọn, nhằm hạn chế nhập khẩu.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Các biện pháp hạn chế định lượng:
+ Cấm nhập khẩu: hàng hoá cấm nhập là những hàng hoá tuyêt đối
không được phép đưa vào thị trường nội địa đẻ lưu thông tiêu dùng.Với
mục đích đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, thậm chí còn
nhằm bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước và quyền lợi của người tiêu
dùng.
+ Hạn ngạch nhập khẩu: là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc
giá trị một mặt hàng hoặc một nhóm hàng được xuất đi ( hoặc ) nhập về
( từ ) một thị trường nào đó, trong một thời gian nhất định ( thường là một
năm ).
+ Giấy phép nhập khẩu: là một biện pháp quản lý nhập khẩu dưói
dạng hạn chế số lượng. Nhưng giấy phép nhập khẩu khác với hạn ngạch, vì
không quy định số lượng cụ thể mà chỉ yêu cầu khi xuất khẩu hoặc nhập
khẩu phải xuất trình cơ quan Hải quan kiểm tra , nên được áp dụng rộng rãi
hơn.
3. Chính sách nhập khẩu ô tô cũ của Việt Nam hiện nay.
3.1. Thông tư hướng dẫn nhập khẩu ô tô chở người dưới 16 chỗ đã qua
sử dụng.
Nhằm hạn chế những gian lận thương mại và cụ thể hoá các điều
kiện, thủ tục nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng, ngày 31/03/2006, Bộ Thương
mại - Bộ Giao thông vận tải - Bộ Tài chính - Bộ Công an đã ban hành
Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTM-BGTVT-BTC-BCA “Hướng
dẫn việc nhập khẩu ô tô chở người dưới 16 chỗ ngồi đã qua sử dụng theo
Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ”.
Theo đó, ô tô đã qua sử dụng là ô tô đã được sử dụng, được đăng ký
với thời gian tối thiểu là 6 tháng và đã chạy được một quãng đường tối
thiểu là 10.000 km tính đến thời điểm ô tô về đến cảng Việt Nam. Với
những quy định chặt chẽ này, phần nào sẽ hạn chế được gian lận có thể xảy
ra dưới hình thức đổi xe mới thành xe cũ bằng cách thay một số phụ tùng
đã qua sử dụng.
Ngoài ra, Ô tô đã qua sử dụng được nhập khẩu phải đảm bảo điều
kiện không quá 05 năm tính từ năm sản xuất đến thời điểm ô tô về đến
cảng Việt Nam. Năm sản xuất của ô tô được xác định theo thứ tự ưu tiên:
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
theo số nhận dạng của ô tô; theo số khung của ô tô; theo các tài liệu kỹ
thuật; theo năm sản xuất được ghi nhận trong bản chính của Giấy chứng
nhận đăng ký xe hoặc giấy huỷ đăng ký xe đang lưu hành tại nước ngoài.
Các trường hợp đặc biệt khác thì cơ quan kiểm tra chất lượng thành lập Hội
đồng giám định. Nếu cơ quan kiểm tra chất lượng có nghi vấn về số khung,
số máy của chiếc xe nhập khẩu thì cơ quan kiểm tra sẽ trưng cầu giám định
tại cơ quan công an.
Theo dự báo, khi thực hiện chính sách trên số lượng ô tô đã qua sử
dụng nhập khẩu vào Việt Nam sẽ rất lớn, với đa dạng chủng loại và chất
lượng. Để ngăn chặn nguy cơ nước ta có thể trở thành “bãi rác công
nghiệp”, Chính phủ đã đưa ra những chính sách siết chặt quản lý mặt hàng
này. Cụ thể, trong thông tư liên tịch quy định: cấm nhập khẩu ô tô các loại
có tay lái nghịch, cấm nhập khẩu ô tô các loại đã thay đổi kết cấu, chuyển
đổi công năng so với thiết kế ban đầu, bị đục sửa số khung, số máy trong
mọi trường hợp và dưới mọi hình thức. Bên cạnh đó, ô tô đã qua sử dụng
chỉ được nhập khẩu vào Việt Nam qua bốn cửa khẩu cảng biển quốc tế: Cái
Lân Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh.
Trong quá trình làm thủ tục nhập khẩu và đăng ký lưu hành cho ô tô
đã qua sử dụng sẽ có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng: cơ
quan Hải quan, cơ quan đăng kiểm, cơ quan cảnh sát giao thông...Hàng hoá
chỉ được phép giải phóng và thông quan khi có thông báo kết quả kiểm tra
chất lượng của cơ quan Đăng kiểm xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu theo
quy định. Cơ quan cảnh sát giao thông thực hiện kiểm tra hồ sơ của ô tô
nhập khẩu trước khi làm thủ tục đăng ký, nếu phát hiện xe không đủ điều
kiện nhập khẩu thì không làm thủ tục đăng ký và thông báo bằng văn bản
cho cơ quan Hải quan biết để xử lý theo quy định.
3.2. Tại sao phải nhập khẩu xe cũ ?
Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương Chí Trung cho biết: Nghị định 12
của Chính phủ cho nhập khẩu ôtô cũ về cơ bản là bước luật hóa các cam
kết quốc tế trong đàm phán WTO của VN. Các đối tác đàm phán của chúng
ta yêu cầu VN có thể sử dụng công cụ thuế và nhiều biện pháp khác để hạn
chế nhập khẩu xe cũ thay cho biện pháp cấm nhập.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đấy là lý do chính để Chính phủ ra quyết định cho nhập khẩu xe cũ
chứ không phải chỉ là do giá xe trong nước cao. Tất nhiên, khi tính toán
thuế suất nhập khẩu chúng ta cũng xem xét, tính toán để nguồn xe này có
thể phần nào tác động tới thị trường xe trong nước, tăng cường sự cạnh
tranh với các liên doanh lắp ráp ôtô trong nước.
Mục tiêu của việc cho nhập khẩu xe cũ là đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế. Khi ta thực hiện được điều đó thì các đối tác đang đàm
phán tin tưởng vào những cam kết của VN, đánh giá tốt việc thực hiện cam
kết. Nhờ đó nền kinh tế tạo ra hệ số đánh giá tín nhiệm, thuận lợi cho các
doanh nghiệp trong việc tiếp cận kinh tế thế giới, môi trường đầu tư trong
nước được đánh giá cao hơn.
Xe cũ chắc chắn sẽ có những tác động tới các doanh nghiệp buộc họ
phải điều chỉnh chiến lược kinh doanh theo hướng cạnh tranh. Nhưng điều
đó sẽ tốt về mặt lâu dài, tăng cao hiệu quả kinh tế, kích thích tiêu dùng.
Ngoài cái lợi chung cho môi trường đầu tư của VN, còn có những tác động
trực tiếp tới các mặt kinh tế xã hội
Ôtô trong nước đã được Nhà nước bảo hộ với thời gian khá dài, việc
cho phép nhập khẩu ôtô đã qua sử dụng sớm hơn quy định, chắc chắn sẽ
tạo ra một sự chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp ôtô
cũng như những ngành dịch vụ phục vụ nhu cầu này.
Bên cạnh đó, khi ôtô cũ vào thị trường Việt Nam sẽ tạo ra sức cạnh
tranh cao, gây áp lực đối với các doanh nghiệp sản xuất ôtô trong nước,
buộc các nhà sản xuất ôtô trong nước phải có bước cải tiến nâng cao chất
lượng xe, nâng cao tỉ lệ nội địa hóa mà lại hạ giá thành sản phẩm... Việc
nhập khẩu này sẽ tránh được các doanh nghiệp sản xuất ôtô lợi dụng các
quy định của pháp luật để tự ý lách luật, tự ý nâng giá thành.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi, công bằng đối với các doanh
nghiệp sản xuất ôtô trong nước, Chính phủ cũng sẽ tính toán mức thuế hợp
lý để có thể vừa bảo hộ được sản xuất trong nước, vừa bảo đảm mức giá
đối với ôtô nhập khẩu để người tiêu dùng không bị chèn ép về giá
Ba năm trở lại đây, để kích thích phát triển ngành công nghiệp sản
xuất xe ôtô trong nước, Nhà nước đã có nhiều chính sách giảm dần sự bảo
hộ. Chẳng hạn như, việc mua xe công không còn hình thức chỉ định, bắt
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
buộc mua xe sản xuất trong nước nữa mà thay vào đó là khoán định mức
cho các đơn vị có tiêu chuẩn sử dụng xe công tự quyết định. Về mức thuế
TTĐB cũng được giảm xuống còn 50%, thuế NK ôtô nguyên chiếc cũng
được giảm từ 100% xuống 90% và nay là việc cho NK xe ôtô đã qua sử
dụng. Với các động thái này, các nhà sản xuất trong nước không thể không
tính toán để giảm giá thành sao cho phù hợp để thu hút khách hàng. Mặt
khác, không chỉ là yếu tố giá cả, nhiều người tiêu dùng tỏ ra chuộng ôtô cũ
vì những loại ôtô này có tiêu chuẩn châu Âu hay Mỹ, cao hơn
nhiều so với ôtô lắp ráp trong nước. Vì vậy, nâng cao chất lượng xe cũng là
bài toán mà các nhà sản xuất phải tính đến để có kế hoạch cạnh trạnh.
Xe cũ thời gian đầu có thể chưa được nhập nhiều vì người tiêu dùng
còn thăm dò, sử dụng qua một thời gian. Có một điều chắc chắn đây sẽ là
đối trọng đáng kể với xe trong nước bởi chất lượng xe con sản xuất tại các
nước công nghiệp như Mỹ, Nhật, Đức tốt hơn hẳn tiêu chuẩn xe lắp ráp tại
VN (Bộ Thương mại đã họp với các nhà sản xuất ô tô VN và họ cũng thừa
nhận như vậy). Xe trong nước do đó buộc phải nâng cao chất lượng và
giảm giá thành để thu hút khách hàng.
Dù sao thì việc cho nhập khẩu xe cũ cũng đã tạo ra sự cạnh tranh giữa
xe sản xuất trong nước và xe nhập khẩu, làm lợi cho người tiêu dùng ở mức
độ nào đó.
3.3. Sự can thiệp của nhà nước đối với vấn đề nhập khẩu ô tô cũ.
a. Những bất cập trong việc nhập khẩu ô tô cũ tại Việt Nam trong thời
gian vừa qua.
Thứ nhất : Sự chậm trễ của các cơ quan chức năng.
Cho phép nhập khẩu ô tô cũ là một yêu cầu bắt buộc mà chúng ta phải
chấp nhận khi tham gia hội nhập và thực hiền cam kết gia nhập WTO. Điều
đáng nói là,mặc dù biết việc này sẽ xảy ra,nhưng khi chính phủ quyết định,
các cơ quan chức năng mới “vắt chân lên cổ” tìm chính sách quản lý.
Theo Lãnh đạo Bộ Tài chính khẳng định, đến thời điểm Nghị định 12
có hiệu lực (1/5/2006) không còn xa. Bộ vẫn chưa nhận được bất kỳ
phương án nào mới liên quan đến chính sách thuế đối với ôtô đã qua sử
dụng. Do vậy, tạm thời, mặt hàng ôtô cũ vẫn áp dụng mức thuế theo tỷ lệ là
150%.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngoài ra, để hạn chế tình trạng gian lận về giá, phương án tính thuế
tuyệt đối vẫn tiếp tục được các bộ ngành liên quan nghiên cứu. Tuy nhiên,
theo Bộ Tài chính, đây mới chỉ là ý tưởng và đang lấy ý kiến các bộ ngành
chứ chưa phải là phương án thống nhất. Phương án thuế tuyệt đối có vẻ đơn
giản, hạn chế được gian lận giá mà hải quan cũng dễ kiểm soát, phù hợp
với cam kết quốc tế mà nhiều nước như Thái Lan, Singapore... đã áp dụng
rất thành công. Có điều, để xác định chủng loại xe, ngày sản xuất, chất
lượng, mẫu mã... để đánh thuế không phải là chuyện đơn giản, nó cần rất
nhiều thời gian, nhân lực.
Th ứ hai : Quan đi ểm của các còn bộ khác nhau.
Mỗi một cơ quan sẽ có những mối quan tâm khác nhau, ai cũng cho
là mình quan trọng nhất. Bộ khoa học và công nghệ nói: “hàng rào” môi
trường tuy quan trọng, nhưng trước hết phải tập trung vào “hàng rào” chất
lượng và an toàn kỹ thuật…”.
Quan điểm Bộ Công nghiệp không ủng hộ việc cho phép nhập khẩu
ôtô cũ. Lý do là việc cho nhập khẩu ô tô cũ sẽ kéo theo hàng loạt hậu quả
như tai nạn giao thông gia tăng, tắc đường, ô nhiễm môi trường... Rất khó
kiểm soát được triệt để chất lượng xe cũ nhập khẩu.
Bộ Thương mại lại có quan điểm khác hẳn. Lý giải về việc tại sao
phải cho phép nhập khẩu ôtô cũ, đó là để đáp ứng yêu cầu của các đối tác
trong việc đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của
VN.
Bộ Tài chính thi nói: Vấn đề là làm thế nào để quản lý được một
cách chặt chẽ, nếu không sẽ xảy ra nhiều hệ lụy như đưa xe bãi rác về; sự
gian lận trong cạnh tranh về giá; nguy cơ tiêu cực của bộ máy (kiểm tra
chất lượng, thuế, hải quan, cấp phép đăng ký...) vì cách thức cho nhập, tính
thuế nhập khẩu với xe ô tô cũ khá phức tạp...
Thứ ba: Quá nhiều thủ tục.
Nếu như trước đây hàng rào quan thuế gây nản lòng nhà nhập khẩu
và người tiêu dùng, thì nay sự phức tạp về thủ tục nhập khẩu, đăng ký lưu
hành xe đang trở thành một rào cản ngăn những chiếc xe cũ vào Việt Nam.
"Pháp luật hiện cho phép mọi tổ chức, cá nhân đều có thể nhập khẩu
xe ôtô đã qua sử dụng, đảm bảo tiêu chuẩn quy định về Việt Nam, thế
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhưng việc có tới gần 30 thủ tục hành chính, từ khâu vận chuyển, hải quan,
đăng kiểm, kho bãi, thuế, kho bạc nhà nước và cảnh sát giao thông... đang
khiến sự mở cửa cho xe cũ trở nên rất khó khăn khi đi vào cuộc sống" Thực
tế cho thấy, để hoàn tất được một trong số gần 30 thủ tục hành chính nói
trên, người nhập khẩu xe cũ phải mất đứt một ngày. Điều này lý giải, tại
sao một lô hàng xe ôtô đã qua sử dụng nhập về phải mất tới cả nửa tháng
trời cho việc hoàn tất các thủ tục hành chính. Nếu DN nào nhập về một
chiếc xe mới lạ thì có thể phải mất cả tuần cho việc tham vấn, xác định giá
tính thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng.
Việc có quá nhiều thủ tục hành chính cho một chiếc xe cũ nhập về
trước hết là do sự chồng chéo và không tin tưởng lẫn nhau trong các cơ
quan quản lý nhà nước. Chẳng hạn, riêng việc kiểm tra xe đã diễn ra không
dưới 5 lần, từ đăng kiểm tại cảng, hải quan cửa khẩu, thuế, cảnh sát giao
thông cho đến đăng kiểm lưu hành... Cơ quan nào cũng rất cẩn thận, tỉ mỉ
từ số khung, số máy, năm tháng sản xuất, số kilômét đã sử dụng, cho đến
đo nồng độ khí thải, tiếng ồn...Tuy đã cẩn thận, thế nhưng giữa các cơ quan
quản lý hành chính vẫn có sự không tin tưởng lẫn nhau, thậm chí còn đi xác
minh lại thủ tục, giấy tờ của nhau. Chẳng hạn, trong nhiều trường hợp, xe
nhập khẩu về khi làm thủ tục đăng ký lưu hành ở cơ quan CSGT số 1234
đường Láng (Hà Nội) đã phải chờ tới cả tuần lễ cho việc xác minh lại tờ
khai hải quan, biên lai nộp các loại thuế vào kho bạc nhà nước...Trong
những trường hợp như vậy, người nhập khẩu, đăng ký xe không chỉ mất
công sức đi lại, thời gian chờ đợi, mà còn luôn bị coi như những kẻ có
khuất tất, gian lận, cho dù mọi thủ tục, giấy tờ bị mang đi xác minh đều là
bản gốc, có dấu đỏ của các cơ quan quản lý nhà nước hẳn hoi.
Đằng sau "rừng" thủ tục hành chính nói trên là nạn nhũng nhiễu,
hạch sách... Hậu quả là các nhà nhập khẩu xe lại phải chi phí một khoản
tiền không nhỏ cho việc "lót tay", "bôi trơn" để mọi việc được diễn ra
nhanh chóng, thuận tiện. Tất nhiên, những chi phí ngoài sổ sách này sẽ
được nhà nhập khẩu cộng vào giá bán xe cho người tiêu dùng. Thuế cao,
chi phí cao đã giải thích tại sao giá xe ở Việt Nam đắt nhất thế giới và
người tiêu dùng luôn phải chịu thiệt.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ tư: Xuất hiện nhiều gian lận.
Gian lận có thể sẽ xảy ra dưới các hình thức: Gian lận về năm sản
xuất thông qua việc sửa số khung, số máy để nâng "đời" xe, đảm bảo đủ
điều kiện nhập khẩu những xe đã quá thời hạn; nhập khẩu xe tay lái nghịch
đã chuyển đổi sang tay lái thuận; nhập khẩu xe cũ tháo rời để lấy phụ tùng
thay thế; đổi xe mới thành xe cũ bằng cách thay một số phụ tùng đã qua sử
dụng; khai báo thấp giá trị giao dịch để trốn thuế.
Có nguồn tin cho hay, sau khi Chính phủ ban hành nghị định 12, tại
một số nước có nguồn ôtô cũ hợp thị hiếu người VN như Mỹ, úc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, các nước châu Âu... đã dấy lên một phong trào thu gom
những đầu mối kinh doanh loại xe này để gửi về VN. Nhiều biểu hiện gian
lận đã xuất hiện như chủ đầu nậu tìm mọi cách nâng đời xe sản xuất trước
năm 2001 thành sản xuất sau 2001, “mông má” nhiều chi tiết như thay lốp,
sửa số máy, số khung, sơn, hàn... Đây cũng chính là điều mà các cơ quan
chức năng đang quan ngại nhất.
Những người trong cuộc cho rằng, vấn đề rắc rối hiện nay không
phải chỉ có chuyện xác định mức giá để tính thuế, mà trước tiên là phải
phân loại các xe cũ. Việc xác định xe cũ, giữa 1 năm với 2 - 3 hay 5 năm
không phải là chuyện dễ, trong khi đó giá lại khác nhau. Và, thế nào là xe
mới? Xe mới cũng có rất nhiều loại cần phân biệt, chẳng hạn xe mới xuất
xưởng hay xe mới đưa ra sử dụng? Vì có nhiều xe sản xuất từ lâu, nhưng
vài năm sau mới đưa ra sử dụng. Việc trang bị những kiến thức về kỹ thuật
cho cán bộ hải quan không phải là chuyện dễ làm.
Khi xe mới bị khai thành xe cũ thì thiệt hại khôn lường. Đây chính là
những điểm có khả năng gian lận thương mại và tiêu cực nhất.
Về phía hải quan: Theo báo cáo của Hải quan các cửa khẩu, khi làm
thủ tục cho mặt hàng xe ôtô nhập khẩu đã qua sử dụng, hải quan cửa khẩu
gặp không ít khó khăn trong việc xác định giá tính thuế. Có trường hợp
không tìm ra giá xe mới trên mạng Internet hoặc không khảo sát được giá
trên thị trường nội địa do xe không có tại thị trường. Thậm chí cùng một
loại xe, số km chạy xấp xỉ nhau, nhưng giá dao động quá lớn, không ít xe
cơ quan Đăng kiểm không xác định được thiết bị chọn thêm.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hải quan nơi kiểm tra hồ sơ và tiến hành tham vấn các dữ liệu giá
đưa ra giá tính thuế có khi không thực tế, quá cao. Điều này cũng gây bất
bình trong các doanh nghiệp. Giá thưc tế với giá trên mạng Internet có thể
chênh nhau tới 40%, vì giá trên mạng rất nhiều giá ảo. Các doanh nghiệp
phản ứng chuyện này rất nhiều.
Theo phản ánh của các DN, với chính sách thuế nhập xe cũ, DN nhập
xe tương đối mới thì mới có lãi cao, song rất khó để mua được xe loại này,
bởi chỉ có xe mới nhưng gây sự cố, tai nạn… thì mới bị bán.
Cùng với việc quy định DN chỉ được nhập khẩu xe qua 4 cửa khẩu
đường biển, khiến DN nhập khẩu xe cũ khó có lãi. Như vậy người tiêu
dùng có rất ít cơ hội mua xe cũ giá rẻ.
b. Chức năng và vai trò quản lý của nhà nước trong việc nhập khẩu ô tô
cũ.
Thứ nhất: Trong quá trình đàm phán vào WTO, Việt Nam đã phải
chịu một sức ép ghê gớm từ các nước thành viên của tổ chức này. Việt
Nam đã bảo hộ cho xe ôtô trong nước suốt một thời gian dài nên không cho
nhập xe cũ, nhưng đã đến lúc phải thực hiện các cam kết quốc tế. Việc cho
phép nhập khẩu ôtô đã qua sử dụng là thể hiện việc Việt Nam thực hiện
cam kết với cộng đồng quốc tế đối với vấn đề gia nhập WTO.
Vậy việc quản lý dòng xe ôtô cũ nhập khẩu sẽ được triển khai ra sao?
Đó là Nhà nước sẽ quản lý xe nhập bằng các tiêu chuẩn và bằng thuế. Về
các tiêu chuẩn kĩ thuật sẽ căn cứ vào thời gian đối với các xe nhập khẩu
vào Việt Nam không được quá 5 năm kể từ khi sản xuất cho đến ngày nhập
khẩu vào nước và kiểm tra các tiêu chuẩn kỹ thuật cụ thể của xe để bảo
đảm an toàn khi đưa vào sử dụng.
Nhà nước cũng đã tính đến tiêu chuẩn môi trường để chống việc khói
thải gây ô nhiễm...Và về vấn đề này, các Bộ, ngành liên quan cũng đang
xây dựng những tiêu chuẩn phù hợp.
Trước đây, Nhà nước cấm nhập khẩu ô tô cũ, bây giờ chính sách thay
đổi cho phép nhập khẩu ôtô cũ chứ không phải cho ôtô cũ tràn vào Việt
Nam với giá rẻ mà không có tính toán, cân nhắc. Nhà nước dự kiến một
mức thuế để mức giá bán của ôtô cũ nhập khẩu sẽ có lợi cho người tiêu
dùng nhưng cũng phải tạo cơ hội cho các nhà sản xuất trong nước.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ô tô là một mặt hàng đặc biệt. Đây là mặt hàng Nhà nước hạn chế
tiêu dùng, mức thuế được đưa ra là nhằm mục đích khuyến khích nhập
khẩu các xe chạy ít tốn kém năng lượng (xe có dung tích càng lớn thì thuế
càng cao) và ít gây tác hại đến môi trường (tránh nhập các xe quá cũ
nát).Cho nên chủ trương của nhà nước là ô tô sản xuất trong nước, ôtô mới
nhập khẩu đang phải chịu điều tiết bằng thuế cao thì ôtô cũ nhập khẩu cũng
phải chịu những chính sách tương tự.
Thứ hai: Để bảo hộ có nhiều chính sách như: thuế, bảo hộ thị
trường, phi thuế quan. Mức thuế mới dành cho xe đã qua sử dụng thấp hơn
chính sách hiện hành, vì đúng theo chính sách hiện hành thì xe mới nhập
khẩu là 90% và ôtô cũ là 150% nhưng khi xây dựng thuế tuyệt đối các Bộ
tính toán cân đối giữa bảo hộ với nhu cầu người tiêu dùng và các tác động
xã hội khác. Và khi ban hành chính sách giảm thuế nhập khẩu ôtô nguyên
chiếc cũ và mới, các nhà hoạch định chính sách và quản lý đã tạo nên sự
khởi đầu cho cuộc gặp gỡ lợi ích giữa cơ quan lập chính sách thuế, nhà sản
xuất và người tiêu dùng. Lợi ích người tiêu dùng sẽ trở thành yếu tố tiên
quyết, là cơ sở cho sự điều tiết sản xuất và lập chính sách, quản lý ôtô. Và
khi đã có đủ yếu tố làm nên cuộc cạnh tranh trên thị trường, các nhà sản
xuất ôtô trong nước, không chỉ riêng các hãng ôtô liên doanh, mặc nhiên sẽ
nhận thấy và chấp nhận áp lực để điều chỉnh giá bán xe theo quy luật cung
cầu của thị trường.
Ôtô là mặt hàng đặc biệt nên Nhà nước phải kiểm soát,ngoài công cụ
thuế còn có các công cụ khác để kiểm soát chi phí sản xuất để làm sao bán
đúng giá thị trường. Các nước đang phát triển có hạ tầng không tốt đều có
chính sách quản lý. Từ trước đến nay chính sách quản lý ôtô đều duy trì
thông qua các công cụ để hạn chế và đương nhiên áp dụng đối với xe đã
qua sử dụng nhằm kiểm soát số lượng ôtô con đưa vào lưu thông. Nếu đưa
vào lưu thông quá nhiều, vượt quá đáp ứng của hạ tầng thì cũng không bảo
vệ tốt cho người tiêu dùng. Điều này đòi hỏi một mục tiêu rất tổng thể.
Thứ ba: Các chính sách mà Chính phủ đưa ra để quản lý việc nhập
khẩu ô tô cũ sẽ theo phương châm là: khuyến khích sản xuất trong nước và
bảo vệ người tiêu dùng.Một mặt, Chính sách của Nhà nước phải đảm bảo
được sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô trong nước, không để ngành
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
công nghiệp này bị bóp chết bởi ô tô cũ lũng đoạn thị trường nội địa, do đó
Nhà nước đã đánh thuế rất cao với ô tô cũ nhập khẩu (với mức thuế đó thì
cả người tiêu dùng và nhà sản xuất đều hài lòng), nhưng mức thuế này phải
có hiệu quả. Có nghĩa là nếu thuế cao quá thì Nghị định 12 sẽ không có
hiệu quả bởi vì khi thuế cao thì giá ô tô cũ nhập khẩu sẽ cao hơn giá ô tô
sản xuất trong nước, do đó người tiêu dùng sẽ mua xe trong nước và sẽ
không có xe cũ nhập về do không có người mua).
Mặt khác, Chính sách của Nhà nước phải bảo vệ người tiêu dùng,
Nhà nước cho nhập khẩu ô tô cũ là để giá ô tô sản xuất trong nước dần dần
trở lại với giá trị thực của nó. Mức thuế mà Nhà nước đưa ra sẽ phải làm
cho giá xe trong nước giảm, nhưng cũng phải tính toán làm sao để nhà sản
xuất trong nước chấp nhận được, không bị phá sản và có tính đến hệ thống
cơ sở hạ tầng đường giao thông của nước ta.
Do đó, Chính sách của nhà nước sẽ phải kết hợp hài hoà lợi ích của
Nhà sản xuất trong nước và người tiêu dùng, nói cách khác là Chính sách
của Nhà nước nhằm mục đích khuyến khích sản xuất trong nước và bảo vệ
người tiêu dùng.
Cũng cần biết rằng vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước mà cụ thể
là Hải quan đang đứng trước những thách thức lớn. Làm thế nào để không
gây thiệt hại về thuế cho ngân sách, lại đảm bảo các thủ tục thông quan
nhanh gọn để tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh và mở đường cho
người tiêu dùng được sử dụng những mặt hàng chất lượng với đúng giá trị
của chúng.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ NGÀNH CÔNG
NGHIỆP Ô TÔ VIỆT NAM.
I. TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG Ô TÔ VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tình hình sản xuất lắp ráp trong nước.
Thứ nhất: Thông thường một chiếc xe ôtô có từ 20.000 đến 30.000
chi tiết và cần tới hàng nghìn nhà cung cấp linh kiện, nhưng hiện tại ở Việt
Nam, số lượng các DN sản xuất linh kiện còn quá ít. Theo số liệu từ Bộ
Công nghiệp, sau hơn 10 năm phát triển, đến nay ngành công nghiệp ôtô
Việt Nam mới có trên 60 DN sản xuất linh kiện.
Trong khi đó, hiện nay chúng ta có tới 11 liên doanh và gần 20 DN
trong nước lắp ráp sản xuất ôtô. Như vậy số lượng các DN lắp ráp ôtô bằng
gần một nửa so với số lượng các nhà sản xuất linh kiện. Tính toán của các
nhà quản lý cho biết, để tránh khỏi lắp ráp giản đơn, thì một DN ôtô phải
cần tối thiểu 20 nhà cung cấp với nhiều loại linh kiện khác nhau. Nhưng
cho đến nay chưa DN sản xuất lắp ráp ôtô nào có được 20 nhà cung cấp
linh kiện trong nước. Ngay cả những liên doanh ôtô tên tuổi như Toyota,
Ford... có hệ thống các nhà cung cấp linh kiện lớn cũng không lôi kéo
được họ đầu tư vào Việt Nam nhiều. Trên thực tế, thời gian qua, nhiều DN
lắp ráp ôtô chỉ có 2-3 nhà cung cấp linh kiện trong nước. Tỷ lệ sử dụng linh
kiện trong nước chưa được bao nhiêu, chủ yếu là các chi tiết có giá trị thấp
như: săm, lốp, ắc qui, ghế ngồi, dây điện... Còn lại tất cả đều nhập khẩu từ
các nhà sản xuất nước ngoài.
Thứ hai: Đã có thời Việt Nam đặt rất nhiều kỳ vọng vào các liên
doanh trong việc sản xuất động cơ, linh kiện, phụ tùng và góp phần xây
dựng nên một ngành công nghiệp ôtô mạnh. Tuy nhiên, hơn 10 năm trôi
qua, những kỳ vọng đó đã có thể chứng minh là khó thành hiện thực vì đến
nay, phần lớn các liên doanh vẫn chỉ chú trọng vào việc lắp ráp đơn thuần
và khai thác thị trường với giá mà bất cứ người tiêu dùng nào cũng đều
khẳng định là quá cao so với thế giới (ngoại trừ Toyota có chú trọng đến
sản xuất một số nhỏ linh kiện).
Không thể trách các liên doanh vì có nhiều lý do, trong đó nhu cầu
thị trường và phương thức đầu tư mang tính quyết định. Phần lớn các liên
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
doanh đều khẳng định thị trường Việt Nam quá nhỏ bé trong khi số lượng
các nhà sản xuất, lắp ráp lại quá nhiều. Việc đầu tư sản xuất phụ tùng, linh
kiện lại quá tốn kém cả về nguồn vốn, năng lực, thời gian. Và nếu lượng
cung ứng quá nhỏ thì khó nhà đầu tư nào dám thực hiện, khi mà đòi hỏi của
mỗi hãng xe lại khác nhau về công nghệ, thương hiệu, kỹ thuật, chất lượng.
Thời điểm các nhà sản xuất ôtô vào Việt Nam, giữa thập kỷ 90, đã
khá muộn so với các nước khác, nên việc đầu tư sản xuất phụ tùng, linh
kiện hầu như đều đã được thực hiện xong, tiếp tục đầu tư nữa ở thị trường
mới là điều không thể. Một ví dụ, theo ông Lâm Chí Quang - Phó tổng
giám đốc Toyota Việt Nam - mỗi năm Thái Lan sản xuất hơn 500.000 động
cơ và thị trường Việt Nam hiện đang sử dụng loại động cơ đó. Nếu vậy,
việc sản xuất động cơ ở Việt Nam chắc chắn là không thể. Nhiều loại phụ
tùng, linh kiện khác của các liên doanh đều trong tình trạng tương tự. Do
đó, khó tránh khỏi việc chỉ chú trọng vào lắp ráp, sơn, gò hàn.
Thứ ba: Theo thống kê, hiện có 7 đơn vị được phép sản xuất, lắp ráp
ôtô nhưng trên thực tế phải có gần 15 nhà sản xuất (các công ty thành viên
của các đơn vị được phép) và hầu hết đều có phương thức đầu tư gần giống
nhau, nghĩa là lắp ráp giản đơn. Điểm khác biệt chỉ là ở công nghệ, chủng
loại xe... Gần như không tồn tại một nhà máy nào chuyên sản xuất phụ
tùng, linh kiện. Nếu các nhà sản xuất con đều phải tập trung đầu tư sản xuất
linh kiện, phụ tùng cho mình nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và hướng tới
xuất khẩu thì quá tốn kém và không thể thực hiện (mỗi nhà sản xuất phải
có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn doanh nghiệp, sản xuất phụ tùng, linh
kiện).
Nhìn vào thực trạng phát triển ngành công nghiệp ôtô, không ít ý
kiến đã tỏ ra nghi ngờ và lo ngại. Một trong những yếu tố quan trọng trong
định hướng và chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam là
đẩy mạnh và khuyến khích phát triển sản xuất động cơ, phụ tùng, linh kiện
nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, lắp ráp các loại ôtô trong nước. Đến nay,
gần 10 năm trôi qua, những gì mà ngành công nghiệp ôtô đạt được mới chỉ
là lắp ráp đơn thuần và làm các công đoạn đơn giản như sơn, gò hàn, đóng
thùng … (chỉ trừ hãng Toyota có đầu tư nhà máy dập thân vỏ xe). Bên cạnh
đó là khai thác thị trường với giá mà bất kỳ người tiêu dùng nào cũng phải
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kêu ca. Tại giấy phép đầu tư, các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ôtô đều
cam kết sẽ đạt tỷ lệ nội địa hóa từ 30 đến 40% sau 10 năm kể từ khi đi vào
sản xuất, nhưng cho đến nay tỷ lệ nội địa hóa mới đạt từ 2 đến 10%.
Ngoài các nguyên nhân chủ quan, cũng cần phải đánh giá công bằng
về nguyên nhân khách quan. Trước hết thị trường của các nhà sản xuất ôtô
Việt Nam là nội địa nhưng phần lớn các liên doanh đều khẳng định, thị
trường này quá nhỏ bé, nhu cầu sử dụng xe thấp (7 xe/1.000 người), trong
khi các nhà sản xuất, lắp ráp lại quá nhiều. Do vậy, việc đầu tư sản xuất
phụ tùng, linh kiện trong bối cảnh đó rất khó mang lại hiệu quả. Với số
lượng xe tiêu thụ thấp thì đối với nhiều loại phụ tùng, việc sản xuất trong
nước sẽ có chi phí cao hơn so với nhập khẩu. Đây là vấn đề mà nhiều liên
doanh khi muốn đầu tư vào ngành công nghiệp sản xuất phụ tùng đang gặp
phải. Và trong tương lai gần thì những khó khăn về thị trường cũng không
dễ khắc phục được một cách nhanh chóng, nhất là trong bối cảnh hạ tầng
giao thông của Việt Nam còn lạc hậu, thu nhập của người dân còn thấp hơn
nhiều nước trong khu vực.
2. Tình hình nhập khẩu các loại ô tô.
* Với xe cũ:
Sau gần 6 tháng Việt Nam cho phép nhập xe cũ, đã 500 chiếc về
cảng, trong đó 60% là các dòng xe hạng sang, 30% thuộc về loại xe nhỏ có
dung tích xi lanh dưới 1,0 lít. Hiện nay, chỉ những đầu mối nhập khẩu có
kinh nghiệm hoạt động mới dám lấy thêm hàng, song cũng cầm chừng, vì
hàng về không bán được. Nhiều đơn vị không chịu nổi đành chuyển hướng
kinh doanh.
Theo số liệu của cơ quan hải quan, năm 2005, có trên 13.500 chiếc
xe cũ đã qua sử dụng được nhập khẩu, tuy nhiên, không có chiếc ôtô nào
thuộc loại dưới 16 chỗ ngồi, bởi loại xe này đang bị cấm nhập khẩu. Điều
này cũng cho thấy, nhu cầu về xe ôtô rẻ, kể cả là xe cũ đã qua sử dụng vẫn
rất được quan tâm.
Đề cập đến quy định chỉ cho thông quan tại 4 cảng biển, liên bộ Tài
chính Thương mại cho hay, qua khảo sát họ thấy tất cả các nhà nhập khẩu
ôtô mới đều qua 4 cảng đó. Theo quy luật, xe cũ cũng chỉ được nhập ở các
nước công nghiệp sản xuất xe hơi và đi qua đường biển.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
* Với xe nguyên chiếc mới:
Sau khi Bộ Tài chính giảm thuế nhập khẩu ôtô từ 80% xuống còn
70%, tháng 8 vừa qua, lượng ôtô nguyên chiếc nhập khẩu đã tăng mạnh,
lên đến khoảng 3.000 chiếc - gấp đôi mức bình quân/tháng của 7 tháng
trước đó. Lượng xe về thị trường không ngừng tăng lên và nhanh chóng
chiếm được gần 40% thị phần.
Hiệu ứng kích thích nhập khẩu từ việc giảm thuế cũng góp phần tạo
ra mức tăng nhập khẩu ôtô nguyên chiếc trong tám tháng đầu năm, số
lượng tăng 62,2% (khoảng 14.000 chiếc), kim ngạch nhập khẩu tăng đến
92,5% (271 triệu USD).
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, sau 8 tháng với hai đợt hạ
thuế nhập khẩu cho ôtô nguyên chiếc, lượng xe dưới 8 chỗ đã vượt qua con
số 5.800 xe. Riêng trong tháng 8, dù trùng vào tháng 7 âm lịch người tiêu
dùng kiêng mua sắm, tổng lượng xe dưới 8 chỗ nhập khẩu vẫn đạt con số
khoảng 650 chiếc. Đây là bước tăng trưởng vượt bậc bởi con số 5.800 chiếc
(gồm xe 5 chỗ và xe đa dụng MPV/SUV) của 8 tháng năm nay đã cao hơn
tới 60% số xe nhập về của cả 2006. Bắt đầu từ tháng 4, lượng xe dưới 8
chỗ cập cảng lúc nào cũng đạt trên 700 chiếc, trong khi suốt 12 tháng của
năm 2006, không một lần doanh số nhập vượt quá mức 450 chiếc.
Biểu đồ tính thị phần xe trong nước và nhập khẩu năm 2006.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368