Trường Đại học Ngoại thương
Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
Chuyên ngành Kinh tế đối ngoại
============
TIỂU LUẬN
TIỂU LUẬN
Đề tài: Phân tích các quy định
về hợp đồng bảo hiểm hàng hải theo MIA 1906
Nhóm thực hiện: Nhóm 9
1. Phạm Trung Kiên-Trưởng nhóm
2. Phạm Tuấn Anh
3. Phạm Minh Quang
4. Mai Quý Hanh
5. Nguyễn Văn Huấn
Lớp: TMA 402.7_LT
Giáo viên hướng dẫn: Ts. Trần Sỹ Lâm
Hà Nội - 11/2011
1
MỤC LỤC
Trang
- Mục lục 1
- Mở đầu 2
- Chương 1: Giới thiệu chung về Luật bảo hiểm hàng hải Anh-MIA
1906
3
1.1. Lịch sử ra đời của Luật bảo hiểm hàng hải Anh-MIA 1906 3
1.2. Ý nghĩa của sự ra đời của Luật bảo hiểm hàng hải Anh-MIA
1906
4
- Chương 2: Phân tích các quy định về hợp đồng bảo hiểm hàng hải
theo MIA 1906
5
2.1. Khái niệm và nội dung các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm hàng
hải
5
2.2. Quá trình thiết lập hợp đồng bảo hiểm 8
2.3. Các loại hợp đồng bảo hiểm 11
2.4. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm 12
2.5. Sự vô hiệu của hợp đồng bảo hiểm 13
- Chương 3: Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các quy định về hợp
đồng bảo hiểm hàng hải theo MIA 1906
15
- Kết luận 17
- Tài liệu tham khảo 18
MỞ ĐẦU
Hiện nay thị trường hàng hải Việt Nam đang rất phát triển, từng bước hội
nhập sâu rộng vào thị trường hàng hải quốc tế, nhưng việc áp dụng pháp luật trong
lĩnh vực bảo hiểm hàng hải luôn tiềm ẩn những tranh chấp và những rủi ro khó
lường. Trong khi đó, Luật bảo hiểm hàng hải Anh (MIA) năm 1906 luôn được coi
2
là chuẩn mực cho việc giải quyết các tranh chấp trong bảo hiểm hàng hải và trọng
việc xây dựng các Luật bảo hiểm hàng hải của các nước trên thế giới.
Do đó, việc nghiên cứu MIA, đặc biệt là các quy định liên quan đến hợp đồng
bảo hiểm theo MIA 1906, là rất cần thiết trong quá trình hội nhập và gia nhập WTO
của Việt Nam, tạo thuận lợi trong quá trình thông thương vì kênh vận chuyển hàng
hải quốc tế vẫn là kênh chủ yếu trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt
Nam, trong khi Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 cũng còn nhiều bất cập.
Xuất phát từ thực tiễn trên và trên cơ sở kiến thức được học về bảo hiểm
hàng hải, nhóm chúng tôi mạnh dạn quyết định lựa chọn đề tài: “Phân tích các
quy định về hợp đồng bảo hiểm hàng hải theo MIA 1906” làm bài tiểu luận môn
Bảo hiểm trong kinh doanh.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu
luận được chia làm 3 chương với kết cấu như sau:
- Chương 1: Giới thiệu chung về Luật bảo hiểm hàng hải Anh-MIA 1906.
- Chương 2: Phân tích các quy định về hợp đồng bảo hiểm hàng hải theo
MIA 1906.
- Chương 3: Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các quy định về hợp đồng
bảo hiểm hàng hải theo MIA 1906.
Nhóm chúng tôi xin trân trọng cảm ơn thầy giáo Tiến sỹ Trần Sỹ Lâm đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ chúng tôi hoàn thành bài tiểu luận này.
Chương 1
Giới thiệu chung về Luật bảo hiểm hàng hải Anh - MIA 1906
1.1. Lịch sử ra đời của Luật bảo hiểm hàng hải Anh - MIA 1906
3
Ngành thương mại hàng hải được coi là một trong những phương thức vận
tải đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tạo sự thông thương hàng hóa giữa các châu
lục. Nhưng tương ứng với mức lợi nhuận mang lại là mức độ và số lượng rủi ro
phải ứng phó, dẫn đến sự ra đời của bảo hiểm hàng hải.
Những hình thức sơ khai của ngành bảo hiểm bắt đầu từ khá sớm, khoảng thế
kỷ thứ 5 trước Công nguyên, với hình thức “cho vay mạo hiểm” để kinh doanh. Đến
thế kỷ XIV, các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên đã xuất hiện Ý. Đến thế kỷ
XV, các văn bản pháp luật về bảo hiểm đầu tiên đã xuất hiện ở Tây Ban Nha. Tuy
nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII, cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu
vào nhiêu lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Mở đường cho sự phát triển này là
Luật bảo hiểm năm 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth. Sau đó là Chiếu dụ
1681 của Pháp do Vua Louis XIV ban hành, đó là những đạo luật mở đường cho
lĩnh vực bảo hiểm hảng hải.
Văn bản pháp luật đầu tiên trong hệ thống pháp luật về bảo hiểm hàng hải của
Anh thể hiện sự cần thiết phải điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực bảo
hiểm hàng hải là Luật bảo hiểm hàng hải năm 1745. Luật này đã phá vỡ những thói
quen lạc hậu trước đó và pháp điển hóa một số tập quán, án lệ thành luật. Tiếp theo
là đạo luật về bảo hiểm hàng hải năm 1788, thừa nhận tất cả hợp đồng bảo hiểm
phải để trống, điều này bị coi là vô hiệu trong quy định của Luật sửa đổi năm 1795,
yêu cầu tất cả các hợp đồng bảo hiểm hàng hải phải bằng văn bản và được đóng dấu.
Năm 1894, Dự thảo Luật bảo hiểm hàng hải được đưa ra thảo luận tại Nghị viện
Anh, là nền tảng sau này cho sự ra đời của Luật bảo hiểm hàng hải Anh 1906.
Ngày 21.12.1906, Luật bảo hiểm hàng hải Anh (Marine Insurance Act-MIA
1906) được thông qua và ban hành chủ yếu dựa trên phán quyết của tòa án trong
vòng 200 năm trước đó, có hiệu lực từ 01/01/1907 và cho đến ngày nay vẫn được
áp dụng một cách rộng rãi. MIA 1906 bao gồm 93 điều, chia làm 14 phần, với các
nội dung cơ bản sau: Lợi ích bảo hiểm; Giá trị bảo hiểm; Việc khai báo và lời khai;
Hợp đồng bảo hiểm, Bảo hiểm trùng, Các bảo đảm, Hành trình, Việc chuyển
4
nhượng hợp đồng bảo hiểm; Tổn thất và sự từ bỏ; Hạn mức bồi thường; Quyền của
người bảo hiểm đối với việc thanh toán; Bảo hiểm tương hỗ, Phần bổ sung.
1.2. Ý nghĩa của sự ra đời Luật bảo hiểm hàng hải Anh-MIA 1906
Luật bảo hiểm hàng hải Anh - MIA 1906 ra đời đã trở thành biện pháp hữu
hiệu để điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải,
nó giúp cho việc tập hợp các án lệ thành hệ thống các quy định, tạo cho các quy
phạm của bảo hiểm hàng hải được áp dụng mang tính hệ thống, dễ dàng giải quyết
các tranh chấp, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên.
MIA đã thể hiện đầy đủ và có hệ thống các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm
hàng hải hiện đại như: nguyên tắc trung thực tuyệt đối, nguyên tắc có lợi ích thực
sự, nguyên tẳc bồi thường, nguyên tắc thế quyền. Các điều khoản trong MIA cũng
đã đưa ra các định nghĩa, khái niệm cơ bản, những nguyên tắc cụ thể áp dụng trong
bảo hiểm hàng hải và làm cơ sở cho việc ban hành các văn bản pháp luật sau đó,
giúp cho hệ thống pháp luật về hàng hải nói chung và hệ thống pháp luật bảo hiểm
hàng hải nói riêng được hoàn chỉnh.
Các án lệ đã được đúc kết thể hiện trong các Điều khoản của MIA, kết tinh
những kinh nghiệm và sự sáng tạo trong giải quyết các tranh chấp từ hơn một thế
kỷ trước. Điều này đã tạo cho MIA có thể tồn tại và trở thành Luật mẫu cho nhiều
nước học tập, cũng như thông lệ quốc tế về bảo hiểm hàng hải cho việc thiết lập
hợp đồng bảo hiểm, giải quyết tranh chấp của các bên trong thương mại quốc tế về
lĩnh vực này.
MIA cũng mở ra cho các bên lựa chọn việc áp dụng MIA hoặc các quy định
trong hợp đồng. Nhưng cũng đồng thời có những quy định mang tính bắt buộc nếu
các bên không có thỏa thuận khác.
Chương 2
Phân tích các quy định về hợp đồng bảo hiểm hàng hải theo MIA 1906
5
2.1. Khái niệm và nội dung các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm hàng hải
Các cam kết (warranties) được coi là van an toàn cho người bảo hiểm. Cùng
với các cam kết này và tất cả khai báo trung thực thì người bảo hiểm có thể khẳng
định rủi ro này là rủi ro họ có ý định bảo hiểm. Điều 33 - MIA (Bản chất của cam
kết) đã nêu định nghĩa cam kết như sau: “Một cam kết và những điều khoản sau
đây liên quan đến cam kết, có nghĩa là một hứa hẹn của người bảo hiểm với người
được bảo hiểm, thông thường là về bảo vệ và cải tiến rủi ro”. Do đó, các hợp đồng
bảo hiểm hàng hải luôn được “bảo vệ và cải tiến rủi ro” bằng các cam kết cho phù
hợp với tình hình thực tế cũng như sự phát triển của ngành hàng hải.
Một cam kết là một điều kiện phải tuân theo một cách chính xác, dù điều
kiện này có cần thiết cho rủi ro này hay không. Nếu không tuân theo điều kiện
được quy định trong hợp đồng, người bảo hiểm được miễn trừ trách nhiệm từ ngày
vi phạm cam kết đó. Tuy nhiên, điều này không có bất cứ tác động nào đến trách
nhiệm mà người bảo hiểm phải gánh chịu trước ngày này.
Có thể so sánh giữa khai báo và cam kết: khai báo là đúng nếu cụ thể là
đúng, nghĩa là nếu khác biệt giữa khai báo và sự thật là không quan trọng, nhưng
cam kết thì phải thi hành đúng từng từ.
Các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm hàng hải:
* Căn cứ vào tính chất được quy định trong hợp đồng hoặc mặc nhiên được công
nhận trong luật chia ra hai loại cam kết là: cam kết minh thị và cam kết mặc nhiên.
- Cam kết minh thị (Express Warranties): Điều 35 MIA quy định: Một cam kết
minh thị có thể bằng bất kỳ hình thức từ ngữ nào mà có thể xuất phát từ mục đích của
cam kết được suy luận ra. Một cam kết minh thị là một cam kết được để trong hợp
đồng bảo hiểm hay sát nhập vào hợp đồng bảo hiểm. Một cam kết minh thị không bao
gồm một cam kết mặc nhiên, trừ khi nó mâu thuẫn với cam kết mặc nhiên đó.
- Cam kết mặc nhiên (Implied warranty): Các cam kết mặc nhiên không được
nêu trong hợp đồng bảo hiểm, song theo phát luật thì được hiểu là mặc nhiên ràng
buộc. Có hai cam kết mặc nhiên: tàu có đủ khả năng đi biển và hành trình hợp pháp.
6
+ Cam kết khả năng đi biển: Khoản 4, Điều 39-MIA định nghĩa về “khả
năng đi biển của tàu là khi tàu thích nghi hợp lý về mọi mặt để có thể chịu đựng
những hiểm họa thông thường của hành trình được bảo hiểm”.
Trong hợp đồng bảo hiểm chuyến: tàu phải có khả năng đi biển vào lúc bắt đầu
hành trình và trong mỗi đoạn hành trình. Nếu là ở trong cảng thì tàu phải thích nghi
hợp lý đối với các hiểm họa trong cảng. Khoản 1, Điều 39-MIA quy định: “Trong
hợp đồng bảo hiểm chuyến luôn có một cam kết mặc nhiên là khi bắt đầu hành trình
tàu phải có khả năng đi biển theo đúng yêu cầu của hành trình đã được bảo hiểm”.
Đối với hợp đồng bảo hiểm thời gian: không mặc nhiên phải có khả năng đi
biển trong bất cứ giai đoạn nào của hành trình, song nếu người được bảo hiểm cố ý
hoặc đồng lõa đưa tàu ra biển trong tình trạng không có khả năng đi biển thì mọi
tổn thất vì không có khả năng đi biển đều bị loại trừ, người bảo hiểm sẽ không chịu
trách nhiệm về bất kỳ tổn thất nào (Khoản 5, Điều 39-MIA).
Đối với hợp đồng bảo hiểm bao: theo quy định tại Khoản 3, Điều 39-MIA:
hành trình được thực hiện trong nhiều khoảng thời gian khác nhau, trong từng
khoảng thời gian tàu “được yêu cầu phải có sự chuẩn bị và trang bị thêm để đáp
ứng, sẽ có một cam kết mặc nhiên là khi bắt đầu mỗi hành trình tàu phải có khả
năng đi biển về sự chuẩn bị và trang thiết bị đáp ứng hành trình”.
+ Cam kết về sự hợp pháp: Cam kết mặc nhiên về sự hợp pháp là hành trình
không được vi phạm pháp luật của nước ấy. Ngoài ra hành trình phải được diễn ra
hợp pháp trong phạm vi kiểm soát được của người được bảo hiểm. Ví dụ, khi hành
trình hợp pháp thì một hành vi bất hợp pháp của thuyền trưởng không làm vô hiệu
hợp đồng bảo hiểm, trừ khi người được bảo hiểm đồng lõa; hoặc: một hành trình vi
phạm luật hải quan của nước này là phi pháp, song một hành trình kinh doanh vi
phạm luật hải quan nước khác vẫn có thể bảo hiểm hợp pháp tại đây.
Điều 41-MIA quy định cam kết về sự hợp pháp: Khi có cam kết mặc nhiên
rằng hành trình được bảo hiểm là hợp pháp, cho đến khi người được bảo hiểm có thể
kiểm soát được vấn đề, thì hành trình đó sẽ được tiến hành theo cách thức hợp pháp.
- Không có cam kết mặc nhiên về tình trạng đi biển được của hàng hóa.
7
Điều 40-MIA quy định rằng không có cam kết mặc nhiên về tình trạng đi
biển được của hàng hóa:
+ Trong một hợp đồng bảo hiểm về hàng hóa hoặc động sản khác, sẽ không
có cam kết mặc nhiên về tình trạng đi biển được của hàng hóa hay động sản đó.
+ Trong một hợp đồng bảo hiểm bao đối với hàng hóa hay động sản khác, sẽ
có một cam kết mặc nhiên rằng vào thời điểm bắt đầu hành trình, tàu chở hàng
không chỉ có khả năng đi biển mà nó còn có khả năng phù hợp để chở hàng hóa và
động sản đó đến nơi dự tính theo như hợp đồng.
Ngoài ra, MIA cũng nêu lên một số loại cam kết thường hay được sử dụng
như: Cam kết trung lập (Điều 36), Cam kết mặc nhiên về quốc tịch (Điều 37), Cam
kết về tình trạng an toàn (Điều 38).
Cam kết trung lập quy định tàu và hàng hóa (tùy trường hợp) phải là trung
lập vào lúc bắt đầu và trong suốt thời gian bảo hiểm, trong phạm vi người được
bảo hiểm có thể kiêm soát được. Đối với tàu: phải có đầy đủ tài liệu chứng minh sự
trung lập đó, nếu không người bảo hiểm có quyền từ chối đơn bảo hiểm. Điều 36
MIA quy định: “Những đặc tính trung lập vào thời điểm bắt đầu rủi ro, cho đến khi
người được bảo hiểm có thể kiểm soát được rủi ro, đặc tính trung lập của tài sản đó
vẫn tồn tại trong quá trình rủi ro”.
Cam kết mặc nhiên về quốc tịch quy định: “Quốc tịch của tàu không được
chi phối bởi một cam kết mặc nhiên, hay quốc tịch đó sẽ không bị thay đổi trong
quá trình xảy ra rủi ro” (Điều 37).
Cam kết về tình trạng an toàn quy định: “Khi đối tượng bảo hiểm được cam
kết về tình trạng an toàn trong một ngày nhất định, thì điều này là đủ nếu nó an
toàn trong suốt ngày đó” (Điều 38).
Cam kết không được miễn thứ kể cả khi người được bảo hiểm có sửa sai vi
phạm, thì cũng không phục hồi trách nhiệm của người bảo hiểm được. Tuy nhiên,
MIA cũng quy định các trường hợp vi phạm các cam kết nhưng người được bảo hiểm
8
được miễn thứ vì vi phạm này xảy ra ngoài ý muốn và mang tính chất bất khả kháng.
Trường hợp vi phạm các cam kết được miễn thứ được quy định tại Điều 34-MIA:
- Khi có lý do thay đổi tình trạng, cam kết đó được hủy bỏ áp dụng hoàn
cảnh này theo hợp đồng.
- Việc thi hành cam kết là vi phạm pháp luật mới.
Khi một cam kết bị vi phạm, người được bảo hiểm không thể lợi dụng biện
hộ vi phạm đã được sửa sai và cam kết đã được thực hiệm trước khi tổn thất xảy ra.
Một vi phạm cam kết có thể là lý do để hủy bỏ bởi người bảo hiểm.
2.2. Quá trình thiết lập hợp đồng
2.2.1. Hiệu lực pháp lý giấy nhận bảo hiểm
Theo thông lệ và thực tế của thị trường bảo hiểm hàng hải Anh, người môi
giới là một chuyên viên nắm vững pháp luật và thực hành về bảo hiểm hàng hải. Họ
là đại lý cho người được bảo hiểm chứ không phải cho người bảo hiểm hay công ty
bảo hiểm. Điều này đã được quy định tại Điều 21-MIA: Một hợp đồng bảo hiểm
hàng hải được kết lập khi người bảo hiểm ký giấy nhận bảo hiểm. Giấy nhận bảo
hiểm là ghi nhận tắt của hợp đồng. Giấy chứng nhận bảo hiểm do môi giới cấp cho
người được bảo hiểm (hoặc do công ty, nếu được bảo hiểm) trong khi chờ cấp đơn
bảo hiểm cả giấy nhận bảo hiểm lẫn giấy chứng nhận bảo hiểm đều không có giá trị
pháp lý (ngoại trừ để chứng minh khi nào hợp đồng bảo hiểm được kết lập hay là
bằng chứng để sửa lại hợp đồng); nó chỉ ràng buộc trên danh dự mà thôi. Người bảo
hiểm không bắt buộc phải cấp phát đơn bảo hiểm khi đã có giấy nhận bảo hiểm.
Điều 89 quy định: Sau khi hợp đồng bảo hiểm được ký kết, giấy nhận bảo
hiểm được coi như chứng cứ có giá trị trong bất kỳ vụ kiện pháp lý nào. Hợp đồng
bảo hiểm mới là tài liệu pháp lý thể hiện cho hợp đồng, song khi hợp đồng bảo hiểm
được ký kết, giấy nhận bảo hiểm sẽ trở thành chứng cứ pháp lý được sử dụng để sửa
đổi một đơn bảo hiểm khi có nhầm lẫn thông thường hoặc trong các vụ kiện tranh
chấp pháp lý.
9
Thời điểm hợp đồng được coi là có hiệu lực (Điều 21) khi sự đề nghị của người
được bảo hiểm được chấp thuận của người bảo hiểm, bất kể hợp đồng sau đó có được
soạn thảo hay không, và sự đề nghị được chấp thuận có thể dưới hình thức là đơn,
giấy nhận bảo hiểm hoặc các hình thức khác theo tập quán mà không cần đóng dấu.
2.2.2. Hình thức của hợp đồng bảo hiểm.
Điều 22 quy định: “Hợp đồng không thể có giá trị chứng cứ nếu hợp đồng
đó không tuân theo hình thức của hợp đồng bảo hiểm hàng hải được quy định
trong Luật này. Tuy nhiên, hợp đồng bảo hiểm có thể được soạn thảo và được cấp
cùng vào thời điểm hợp đồng được ký kết hoặc sau đó”.
MIA quy định những nội dung cần thiết, phải có trong hợp đồng bảo hiểm.
Nếu không tuân thủ, hợp đồng sẽ không có giá trị pháp lý và không thể dùng để
khởi kiện được. Những nội dung chủ yếu của hợp đồng (Điều 23) bao gồm: (1)
Tên của người được bảo hiểm, hoặc người thay mặt người thụ hưởng; (2) Đối
tượng bảo hiểm và cảc rủi ro cần bảo hiểm; (3) Chuyến hàng hoặc khoảng thời
gian hoặc cả hai; (4) Khoản tiền bảo hiểm; (5) Tên của người bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hải phải được ký bởi người bảo hiểm hoặc nhân
danh người đó. Chỉ cần chữ ký của người bảo hiểm, dấu của công ty cũng cần
thiết, nhưng không bắt buộc. Khi một hợp đồng bảo hiểm do nhiều người bảo hiểm
nhận bảo hiểm, được coi là từng hợp đồng riêng rẽ với những người được bảo
hiểm, trừ khi hợp đồng có quy định khác (Điều 24).
2.2.3. Việc giải thích các điều khoản trong hợp đồng
Điều 30 quy định: Theo quy định của luật này, trừ khi hợp đồng có quy định
khác, các từ ngữ và diễn đạt đề cập trong hợp đồng mẫu của Luật này sẽ được hiểu
trong phạm vi và theo nghĩa mà hợp đồng đó xác định. Ngoài ra còn quy định hợp
đồng bảo hiểm có thể theo mẫu trong phụ bản 1 của Luật này.
2.2.4. Đối tượng được bảo hiểm trong hợp đồng
Điều 26 quy định đối tượng phải tuân theo các yêu cầu sau:
10
- Phải được biểu thị trong hợp đồng bảo hiểm một cách rõ ràng, hợp lý.
- Không cần thiết phải ghi bản chất và giới hạn quyền lợi của người được
bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm.
- Khi hợp đồng biểu thị đối tượng bảo hiểm trong điều khoản chung, thì nó
sẽ hiểu để áp dụng cho những lợi ích của người được bảo hiểm chưa được nêu rõ.
* Giá trị bảo hiểm trong hợp đồng: Trị giá ghi trên hợp đồng bảo hiểm như thế
trở thành một giới hạn bồi thường, và trị giá này được gọi là trị giá có thể bảo hiểm và
được xác định theo Điều 16. Điều này nói về các đơn bảo hiểm mà không có thỏa
thuận về trị giá quyền lợi trên đơn bảo hiểm ấy, nghĩa là các đơn bảo hiểm không trị
giá.
Giá trị của hàng hóa có sự xác định khác nhau, khi mà người được bảo hiểm
được đặt vào cùng vị trí như trước khi có tổn thất, và đối với tàu, khi mà trị giá lúc
bắt đầu bảo hiểm biểu thị trị giá thực của chủ tàu.
Giá trị của đối tượng bảo hiểm: được quy định trong cam kết minh thị hoặc
định giá trong hợp đồng, được xác định theo những quy định sau (Điều 16):
+ Trong bảo hiểm tàu, giá trị có thể được bảo hiểm là giá trị của tàu xác định
vào thời điềm bắt đầu của tổn thất, bao gồm cả trang thiết bị, lương thực dự trữ và
đồ dự trữ cho nhân viên và thủy thủ đoàn, tiền lương ứng trước cho thủy thủ đoàn
và các khoản chi tiêu khác (nếu có) trong hành trình biển hoặc hành trình dự định
theo hợp đồng, cộng cả phí bảo hiểm cho toàn bộ.
+ Bảo hiểm đối với cước phí, kể cả khi cước phí được trả trước hay trả sau,
giá trị có thể được bảo hiểm bao gồm tổng khoản chí về cước phí đối với rủi ra mà
người được bảo hiểm gặp phải cộng thêm phí bảo hiểm.
+ Bảo hiểm đối với tài sản và hàng hóa, giá trị bảo hiểm của hàng hóa là giá
tài sản bảo hiểm lúc ban đầu (giá gốc) cộng với những chi phí về việc xếp hàng và
những chi phí về bảo hiểm đối với toàn bộ tài sản.
11
+ Bảo hiểm đối với các đối tượng bảo hiểm khác, giá trị có thể được bảo
hiểm là tổng số chi phí đối với rủi ro của người được bảo hiểm khi hợp đồng bảo
hiểm đã có hiệu lực cộng với phí bảo hiểm.
* Phí bảo hiểm trong hợp đồng: Điều 31 quy định: Khi một bảo hiểm có
hiệu lực, phí bảo hiểm căn cứ theo thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận phí bảo
hiểm căn cứ theo khoản phí bảo hiểm hợp lý phải trả. Khi một bảo hiểm có hiệu
lực theo các điều khoản là khoản phí phụ thu sẽ theo thỏa thuận trong một sự kiện
nhất định, thi khi sự kiện đó xảy ra nhưng chưa có thỏa thuận về khoản phí đó, thì
khoản phí phụ thu là khoản hợp lý phải trả.
2.3. Các loại hợp đồng bảo hiểm hàng hải
- Căn cứ vào thời điểm bắt đầu và kết thúc hiệu lực của bảo hiểm, có thể
chia ra là hợp đồng bảo hiểm theo chuyến và hợp đồng bảo hiểm theo định hạn:
Hợp đồng bảo hiểm theo chuyến là hợp đồng bảo hiểm cho đối tượng bảo
hiểm từ chỗ này đến chỗ khác (Điều 25). Khi một hợp đồng bảo hiểm cho đối
tượng bảo hiểm trong một thời gian xác định trong hợp đồng được gọi là hợp đồng
định hạn (Điều 26). Một hợp đồng có thể bao gồm cả bảo hiểm theo chuyến và bảo
hiểm theo thời gian xác định.
- Căn cứ vào xác định giá trị của đối tượng được bảo hiểm trong hợp đồng
có thể chia thành hợp đồng định giá và hợp đồng không định giá:
+ Hợp đồng định giá là một hợp đồng xác định rõ theo thỏa thuận giá trị của
đối tượng bảo hiểm (Điều 27). Đối tượng bảo hiểm được xác định theo quy định
của Luật này, không có sự gian lận, giá trị được ấn định trong hợp đồng giữa người
bảo hiểm và người được bảo hiểm, nhằm để xác định giá trị có thể bảo hiểm của
đối tượng được dự tính bảo hiểm kể cả khi bị tổn thất toàn bộ hay bộ phận. Trừ khi
hợp đồng có quy định khác, giá trị được ấn định trong hợp đồng không dùng để
xác định trong trường hợp đó là tổn thất toàn bộ ước tính.
12
+ Hợp đồng không định giá là một hợp đồng không xác định rõ giá trị của đối
tượng bảo hiểm, song bị chi phối đến giới hạn của số tiền được bảo hiểm, để giá trị
có thể bảo hiểm của đối tượng sẽ được xác định theo cách thức ấn định trước đó.
- Căn cứ vào số lượng tàu được bảo hiểm có thể chia thành hợp đồng bảo
hiểm bao cho một tàu hoặc nhiều tàu.
Hợp đồng bao là một hợp đồng được thể hiện theo những thuật ngữ bảo
hiểm chung, việc xác định tên tàu hoặc nhiều tàu và các chi tiết khác được xác định
theo thông báo của người được bảo hiểm về sau (Điều 29).
2.4. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm
- Hiệu lực của việc chuyển nhượng Hợp đồng bảo hiểm: Tác dụng của điều
khoản chuyển nhượng thể hiện ở Điều 15-Việc chuyển nhượng quyền lợi, Điều 50-
Hợp đồng bảo hiểm có thể được chuyển nhượng khi nào và như thế nào và Điều
51-Người được bảo hiểm không có quyền lợi không thể chuyển nhượng.
Trong MIA, việc phân biệt giữa chuyển nhượng quyền lợi và chuyển
nhượng hợp đồng là rất quan trọng. Chuyển nhượng hợp đồng là chuyển nhượng
quyền hưởng lợi ích trên hợp đồng, còn chuyển nhượng quyền lợi là chuyển
nhượng quyền lợi trên đối tượng bảo hiểm.
Điều 50 quy định: “Hợp đồng bảo hiểm có thể chuyển nhượng trừ khi nó có
những điều khoản quy định không được chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng có thể
trước hoặc sau tổn thất. Một hợp đồng bảo hiểm hảng hải có thể được chuyển nhượng
cho bất kỳ ai cùng với quyền lợi trên đối tượng, chỉ trừ cho kẻ thù nước ngoải, hoặc
khi hợp đồng cấm chuyển nhượng. Điều này khác hẳn với cách thức của các ngành
bảo hiểm khác, song trong nghiệp vụ bảo hiểm hảng hải thì cần thiết vì tài sản thường
xuyên thay đổi chủ sở hữu nhiều lần trong một hành trình. Trừ khi đã thỏa thuận
chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm trước lúc chấm dứt quyền lợi của người được bảo
hiểm trên đối tượng bảo hiểm, nếu không mọi chuyển nhượng đều vô hiệu”.
Trường hợp không thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm khi người được
bảo hiểm không có quyền lợi (Điều 51): Khi người được bảo hiểm đã từ bỏ hoặc bị
13
mất quyền lợi đối với đối tượng bảo hiểm, mà không có thoả thuận rõ ràng hoặc
mặc nhiên để chuyển nhượng hợp đồng vào trước hoặc cùng thời điểm từ bỏ hoặc
bị mất quyền lợi, thì bất kỳ sự chuyển nhượng hợp đồng về sau đều không có hiệu
lực. Không có quy định nào trong điều này ảnh hưởng đến việc chuyển nhượng
hợp đồng sau khi có tổn thất xảy ra.
Khi không có thỏa thuận trước đó để chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm thì
hợp đồng chấm dứt cùng với sự chấm dứt quyền lợi của người được bảo hiểm trên
đối tượng bảo hiểm.
2.5. Sự vô hiệu hợp đồng bảo hiểm
Mặc dù, MIA không có điều khoản riêng quy định về hợp đồng bảo hiểm hàng
hải vô hiệu. Nhưng có thể tổng kết ở các điều khoản theo quy định của Luật bảo hiểm
hàng hải Anh năm 1906, hợp đồng bảo hiểm có thể vô hiệu trong các trường hợp sau:
- Do vi phạm nguyên tắc trung thực tuyệt đối, các bên khai sai hoặc không
khai những sự kiện được coi là cần thiết.
- Do các bên ký kết hợp đồng mà không có quyền lợi được bảo hiểm hoặc
hợp đồng đó mang tính chất đánh cuộc.
- Do vi phạm các cam kết kể cả cam kết mặc nhiên hoặc cam kết minh thì.
Mặc dù bên vi phạm đã sửa sai vi phạm đó nhưng hợp đồng vẫn có thể bị hủy bỏ.
- Do vi phạm hình thức của hợp đồng được quy định trong Luật.
Có thể thấy việc vô hiệu trong hợp đồng được quy định trong MIA đã được
mở rộng bằng việc cho phép bên bị thiệt hại có thể lựa chọn hủy bỏ hợp đồng hoặc
tiếp tục thực hiện hợp đồng. Ví dụ trong trường hợp vi phạm nguyên tắc trung thực
không tới mức độ man trá thì người bảo hiểm nếu là bên thiệt hại có thể bỏ qua vi
phạm đó hoặc có thể hủy bỏ hợp đồng theo cách lựa chọn của mình.
Người bảo hiểm khi huỷ bỏ hợp đồng được coi là đứng ngoài hợp đồng và
hợp đồng đó chưa từng được chấp nhận trước đó. Tức là sự hủy bỏ bao giờ cũng là
từ lúc bắt đầu. Tuy nhiên hợp đồng vẫn là tài liệu có giá trị pháp lý để người được
bảo hiểm sử dụng hợp đồng như một văn bản trước toà án để yêu cầu bác bỏ quyền
hủy bỏ hợp đồng của bên bảo hiểm. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ khi có thay đổi
14
hành trình, người bảo hiểm không phải chịu trách nhiệm từ thời điểm quyết định
thay đổi hành trình được biểu lộ. Những tổn thất trước đó người bảo hiểm vẫn phải
chịu trách nhiệm.
Chương 3
Một số vần đề cần chú ý
khi áp dụng các quy định về hợp đồng bảo hiểm hàng hải theo MIA 1906
Ở Anh, Luật bảo hiểm hàng hải MIA 1906 được xem là soạn thảo chủ yếu
căn cứ theo các án lệ thời bấy giờ. Ngày nay, theo đánh giá của một số người, Luật
bảo hiểm hàng hải Anh đã lạc hậu. Song, có thể thấy trên thực tế, Luật bảo hiểm
hàng hải Anh năm 1906 đã được các Tòa án, các Hiệp hội bảo hiểm và các bên
trong quan hệ bảo hiểm hàng hải mở rộng để điều chỉnh nhiều vấn đề phức tạp và
đa dạng của hoạt động bảo hiểm hàng hải, đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ
pháp luật phát sinh trong bảo hiểm hàng hải quốc tế hiện đại.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu áp dụng các vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo
hiểm theo Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 trong thực tiễn, cần phải chú ý
một số vấn đề sau đây:
3.1. Mẫu hợp đồng (Lloyd’s S.G. policy): Điều 30 cũng quy định hợp đồng
bảo hiểm có thể theo mẫu trong phụ lục 1 của MIA. Song trên thực tế các bên trong
hợp đồng bảo hiểm có thể áp dụng bất kỳ mẫu nào. Tuy nhiên, đây là mẫu hợp đồng
chuẩn mà các quy định trong hợp đồng đều tương thích với các điều khoản trong MIA.
3.2. Các quy tắc xây dựng hợp đồng (Rules for Construction of Policy):
bao gồm 17 quy tắc giải thích về các từ ngữ thường dùng trong hợp đồng theo một
nghĩa thống nhất. Các bên trong hợp đồng bảo hiểm hàng hải Anh có thể tự xây
dựng các điều khoản trong hợp đồng, tuy nhiên các Quy tắc trên mang tính chất bắt
buộc nếu hợp đồng đó không muốn mâu thuẫn với các quy định trong MIA.
3.3. Các cam kết: Trong quy định của MIA, các cam kết bao gồm rất nhiều
nội dung nếu người được bảo hiểm vi phạm cam kết, người bảo hiểm có thể từ
chối. Tuy nhiên trên thực tế, toà án Anh đã xử một số trường hợp ngoại lệ, ví dụ:
Vụ Thamas chống Tyne and Near Steamship Fright Insurance Association năm
1917: Tàu được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm thời gian bắt đầu một hành
trình trong điều kiện hành trình này trong tình trạng tàu không đủ thủy thủ, trong
15
hành trình tàu va phải hòn đá không ghi trên hải đồ và bị chìm. Tòa đã xử là người
bảo hiểm phải chịu trách nhiệm, vì tổn thất không quy được cho sự kiện không có
khả năng đi biển.
Tuy nhiên trong một hợp đồng bảo hiêm chuyến, trong đó có cam kết tuyệt
đối về khả năng đi biển thì người bảo hiểm sẽ được giải trách vì vi phạm cam kết
đó.
3.4. Hiệu lực pháp lý giấy nhận bảo hiểm: Trong MIA chỉ nêu lên giấy
nhận bảo hiểm nhưng không quy định rõ về giá trị pháp lý của giấy này, nó chỉ
ràng buộc trên danh dự mà thôi. Trong vụ Home Marine Ins.Co. chống Smith năm
1808 tòa đã xử một giấy nhận bảo hiểm không phải tờ đơn bảo hiểm: Nếu một thỏa
thuận đơn thuần để tái bảo hiểm những rủi ro vượt quá một số tiền ấn định, không
được thể hiện bằng một đơn bảo hiểm, thì sẽ không có hiệu lực pháp luật.
3.5. Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm hàng hải: Vấn đề chuyển
nhượng hợp đồng bảo hiểm (Điều 51) không còn phù hợp trong thanh toán quốc tế
hiện nay. Cụ thể là khi người mua hàng theo điều kiện F.O.B không thể có hợp
đồng bảo hiểm của người bán về những tổn thất xảy ra trước khi hàng hóa lên tàu,
vì cho tới thời điểm này người mua chưa có quyền lợi trên hàng hóa. Như vậy, sẽ
vi phạm quy định trong MIA về quyền lợi bảo hiểm và không thể chuyển nhượng
hợp đồng bảo hiểm và các quyền lợi kèm theo.
Ngày nay trong trường hợp này người mua có thể hoàn toàn yên tâm nhận
hàng hóa đã bị tổn thất trước khi mình có quyền lợi trên hàng hóa đó vì được bảo
vệ bởi hợp đồng bảo hiểm, với điều kiện là vào lúc bán phải chuyển nhượng quyền
hưởng lợi ích trên hợp đồng bảo hiểm.
Điều này đã được quyết định trong vụ J.Aron and Co.(Inc) chống Miall năm
1928. Một lô cacao được bảo hiểm từ nhà máy Tây Phi để giao tại Boston. Đã thỏa
thuận chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cùng với hàng hóa. Hạt cacao bị tổn thất
trên xà lan trước lúc lên tàu.
Người bảo hiểm kháng kiện là tổn thất đã xảy ra trước khi người được
nhượng quyền chưa được chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm để hưởng quyền lợi
của mình. Tòa xử: người hưởng quyền có được quyền lợi về mọi khiếu nại mà chủ
sở hữu gốc có được trên hợp đồng bảo hiểm, dù tổn thất đã xảy ra trước khi người
16
được nhượng quyền được chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm để hưởng quyền lợi
của mình.
KẾT LUẬN
MIA 1906 là một tập hợp tương đối hoàn chỉnh các khái niệm, các nguyên
tắc cơ bản trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải như: hành trình hàng hải, nguyên tắc
trung thực tuyệt đối nguyên tắc có lợi ích được bảo hiểm Nó phù hợp với các
điều khoản bảo hiểm cụ thể của các Hiệp hội bảo hiểm và các đạo luật liên quan
như Luật bảo hiểm hàng hải (hợp đồng cá cược) năm 1909, Các điều khoản bảo
hiểm hàng hóa (A), (B), (C), Các điều khoản bảo hiểm thân tàu.
Tuy có một số quy định được xem là đã lỗi thời, nhưng cho đến nay các quy
định của MIA vẫn đáp ứng được những yêu cầu hiện tại và chưa tạo ra những cản
trở đáng kể đối với các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải. MIA
vẫn được sử dụng làm khuôn mẫu cho việc xây dựng pháp luật về bảo hiểm hàng
hải của một số nước trên thế giới. Có được kết quả và sức tồn tại như hiện nay phải
kể đến sự tích lũy tập hợp kiến thức, kinh nghiệm và tính công bằng trong việc giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải của các luật gia, thẩm phán
trong vài thế kỷ trước đó. Và hiện nay MIA vẫn được các tòa án vận dụng một
cách sáng tạo để giải quyết các tranh chấp về bảo hiểm hàng hải.
Luật bảo hiểm hàng hải Anh năm 1906 đã tạo nên một sân chơi bình đẳng
giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm cũng như các bên liên quan trong
lĩnh vực bảo hiểm hàng hải vốn được xem là phức tạp và mang tính rủi ro cao.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Ngoại thương (2006), Giáo trình Bảo hiểm trong kinh
doanh, Nhà xuất bản Lao động xã hội, Hà Nội.
2. GS.TS Hoàng Văn Châu, Đỗ Hữu Vinh (2003), Từ điển kinh tể bảo hiểm
Anh - Việt, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội.
3. Luật bảo hiểm hàng hải Anh-MIA năm 1906 (Marine Insurance Act 1906)
4. Các website:
- http:// www.baominh.com.vn
- http:// www.ntu.edu.vn
- http:// www. baohiem .pro.vn
- http:// www.web baohiem .net
18