Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Nghiên cứu sử dụng thức ăn bổ sung cho bò trong vụ đông xuân tại một số tỉnh miền núi phía Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.33 MB, 83 trang )

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




LĂNG VĂN KHÔI




NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG THỨC ĂN BỔ SUNG
CHO BÒ TRONG VỤ ĐÔNG XUÂN
TẠI MỘT SỐ TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC

Chuyên ngành: Chăn nuôi
Mã số: 60.62.01.05


LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HƢNG QUANG





THÁI NGUYÊN - 2013


i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Các số liệu công bố trong luận văn là trung thực, chính xác và có trích dẫn rõ
ràng. Tác giả chịu trách nhiệm hoàn toàn về nội dung và các số liệu đã công bố
trong luận văn này.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu
và hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn đầy đủ.

Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Học viên



Lăng Văn Khôi













ii
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực tập và thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự quan
tâm, chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, đồng nghiệp,
bạn bè; sự động viên khích lệ của gia đình để tôi hoàn thành luận văn.
Nhân dịp này tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn
Hưng Quang với cương vị giáo viên hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng
dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Cảm ơn Ban đào tạo Sau đại học - Đại học Thái Nguyên; Khoa Sau đại
học, Khoa Chăn nuôi thú y - Trường đại học Nông lâm Thái Nguyên; Ban tổ
chức tỉnh ủy tỉnh Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện trong quá trình thực
hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Nhân dịp này tác giả chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp, các em sinh viên đã giúp đỡ, động viên để tôi hoàn thành luận văn tốt
nghiệp của mình.
Xin chân thành cảm ơn.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2013
Học viên



Lăng Văn Khôi


iii
MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii

MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU vii
DANH MỤC HÌNH MINH HỌA viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu của đề tài 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3
3.1. Ý nghĩa khoa học 3
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Sinh lý tiêu hóa của gia súc nhai lại 4
1.1.1. Cấu tạo bộ máy tiêu hóa của trâu bò 4
1.1.2. Đặc điểm sinh lý tiêu hóa của gia súc nhai lại 6
1.1.3. Hệ vi sinh vật dạ cỏ của trâu bò 7
1.1.3.1. Vi khuẩn (Bacteria) 7
1.1.3.2. Động vật nguyên sinh (Protozoa) 8
1.1.3.3. Nhóm nấm (Fungi) 9
1.1.4. Môi trường dạ cỏ 10
1.2. Phụ phẩm nông nghiệp và chế biến sử dụng trong chăn nuôi trâu bò 12
1.2.1. Một số loại phụ phẩm nông nghiệp sử dụng trong chăn nuôi trâu bò 12
1.2.1.1. Phụ phẩm rơm lúa 13
1.2.1.2. Phụ phẩm từ cây ngô 14
1.2.1.3. Phụ phẩm từ cây sắn 15
1.2.2. Một số phương pháp chế biến, sử dụng phụ phẩm nông nghiệp 16


iv
1.2.2.1. Chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh bằng phương pháp làm khô 16
1.2.2.2. Chế biến bảo quản thức ăn thô xanh bằng phương pháp ủ chua 17

1.3. Nguyên lý của phương pháp sinh khí in vitro gas production 18
1.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 22
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trong nước. 22
1.4.1.1. Số lượng và sản lượng thịt trâu bò vùng núi phía Bắc giai đoạn 2008-2012 22
1.4.1.2. Nghiên cứu về nguyên nhân gây chết trâu bò trong vụ đông 22
1.4.1.3. Các biện pháp khắc phục tình trạng trâu bò chết trong vụ đông xuân 24
1.4.1.4. Các biện pháp giải quyết về thức ăn cho trâu bò trong vụ đông 26
1.4.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 28
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
2.1. Đối tượng nghiên cứu 32
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 32
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu 32
2.2.2. Thời gian nghiên cứu 32
2.3. Nội dung nghiên cứu 32
2.4. Phương pháp nghiên cứu 33
2.4.1. Nội dung 1 33
2.4.2. Nội dung 2 33
2.4.3. Nội dung 3 34
2.5. Chỉ tiêu nghiên cứu 37
2.6. Phương pháp xử lý số liệu 37
Chƣơng 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 38
3.1. Điều tra thực trạng chăn nuôi trâu bò trên địa bàn nghiên cứu 38
3.1.1. Số lượng đàn trâu bò trên địa bàn nghiên cứu giai đoạn 2008-2011 38
3.1.2. Tình hình trâu bò chết hàng loạt vụ Đông Xuân 39
3.1.3. Kết quả nghiên cứu xác định nguyên nhân gây chết trâu bò 41
3.2. Điều tra thực trạng và tình hình sử dụng thức ăn cho trâu bò 42


v
3.2.1. Kết quả đánh giá tình hình các loại cỏ, cây thức ăn tự nhiên trong năm trên

bãi chăn thả tại khu vực nghiên cứu 42
3.2.2. Kết quả đánh giá các loại cây thức ăn, phụ phẩm nông nghiệp được dùng làm
thức ăn cho trâu bò tại khu vực nghiên cứu 45
3.3. Kết quả nghiên cứu sử dụng hỗn hợp thức ăn bổ sung cho chăn nuôi bò thịt 50
3.3.1. Thành phần dinh dưỡng các hỗn hợp thức ăn bổ sung 51
3.3.2. Động thái sinh khí của các hỗn hợp thức ăn bổ sung 52
3.4. Sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn của bò thí nghiệm 54
3.4.1. Theo dõi sinh trưởng của bò thí nghiệm 54
3.4.2. Tiêu tốn thức ăn bổ sung của bò thí nghiệm 55
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ 58
1. Kết luận 58
2. Tồn tại 59
3. Đề nghị 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
PHỤ LỤC


vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ash

Khoáng tổng số

TN

Thí nghiệm
ABBH

Acid béo bay hơi


TT

Tăng trọng
ADF

Xơ sau thủy phân axít

tr.

Trang
ATP

Adenosine triphosphate

UBND

Ủy ban nhân dân
CF

Xơ thô

VNđ

Việt Nam đồng
CIP

Trung tâm khoai tây quốc tế

VSV


Vi sinh vật
CP

Protein thô (Crude protein)




cs

Cộng sự




CT

Công thức




Cv

Hệ số biến dị




DM


Vật chất khô




ĐC

Đối chứng




EE

Chất béo thô




FAO

Tổ chức nông lương thế giới




FMD

Bệnh lở mồm long móng





g

Gram




Kg

Kilogram




NDF

Xơ sau thủy phân trung tính




NFE

Dẫn xuất không đạm





Nxb

Nhà xuất bản




OM

Chất hữu cơ




OMD

Tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ




p.

Page (trang)





PTNT

Phát triển nông thôn




Se

Sai số của số trung bình




STTĐ

Sinh trưởng tuyệt đối




STTL

Sinh trưởng tích lũy




TA


Thức ăn




TB

Trung bình cộng




















vii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Trang
Bảng 1.1: Số lượng và sản lượng thịt trâu bò vùng núi phía bắc giai đoạn 2008-2011 22
Bảng 2.1: Tỷ lệ phối trộn các công thức thức ăn bổ sung 35
Bảng 2.2: Thành phần dinh dưỡng hỗn hợp thức ăn bổ sung 36
Bảng 2.3: Sơ đồ bố trí thí nghiệm chăn nuôi bò 37
Bảng 3.1: Số lượng đàn trâ 2008-2011 38
2008 - 2011 40
41
Bảng 3.4: Thực trạng các loại cỏ, cây thức ăn tự nhiên trâu bò sử dụng trong
năm trên bãi chăn thả 43
Bảng 3.5: Các loại cây, phụ phẩm nông nghiệp dùng làm thức ăn cho trâu bò 46
Bảng 3.6: Khối lượng chính phẩm, phụ phẩm của một số cây nông nghiệp 47
Bảng 3.7: Tình hình sử dụng phụ phẩm làm thức ăn chăn nuôi trâu bò 49
Bảng 3.8: Thành phần dinh dưỡng các hỗn hợp thức ăn bổ sung 51
Bảng 3.9: Lượng khí sinh ra ở các thời điểm ủ mẫu bằng phương pháp in vitro 52
Bảng 3.10: Sinh trưởng của bò thí nghiệm 54
Bảng 3.11: Kết quả theo dõi tiêu tốn thức ăn bổ sung 56








viii
DANH MỤC HÌNH MINH HỌA
Trang
Hình 3.1: Đồ thị số lượng đàn trâu bò 3 tỉnh giai đoạn 2008-2011 39
Hình 3.2: Đồ thị khả năng sinh khí của các mẫu thức ăn bổ sung 53

Hình 3.3: Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối của bò thí nghiệm 55


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, hiện tại 80% dân cư của đất nước
đang sống ở nông thôn và trên 70% lực lượng lao động của toàn xã hội đang
làm việc trong khu vực này, cuộc sống của người dân chủ yếu dựa vào trồng
trọt và chăn nuôi. Do diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp, năng suất
cây trồng khó có những đột biến nhảy vọt, vì vậy chăn nuôi đại gia súc sẽ là
hướng phát triển kinh tế hộ và được đẩy mạnh trong những năm tới, phát triển
chăn nuôi sẽ giúp cho việc xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập
và cải thiện điều kiện sống cho người nông dân.
Vùng trung du miền núi phía Bắc có diện tích tự nhiên rộng lớn (10,1
triệu ha chiếm 30,7% diện tích cả nước) thuận lợi để phát triển chăn nuôi đặc
biệt là chăn nuôi trâu bò (Lê Viết Ly, 2001 [25]; Tổng cục thống kê, 2012
[39]). Tuy nhiên, một trong những hạn chế lớn nhất cản trở phát triển chăn
nuôi trâu bò ở miền núi đó là tập quán và phương thức chăn nuôi. Mặt khác,
số lượng trâu bò tỉnh miền núi phía Bắc cũng có xu hướng giảm xuống theo
xu hướng chung của cả nước, con trâu con bò trên địa bàn đối mặt với nguy
cơ bị chết hàng loạt đặc biệt vào vụ Đông Xuân làm cho số lượng đầu con bị
sụt giảm một cách nghiêm trọng.
Thức ăn thô xanh là nguồn dinh dưỡng chủ yếu để phát triển chăn nuôi
trâu bò. Tuy nhiên với các địa phương vùng núi phía Bắc, hiện nay nguồn
thức ăn thô xanh này chủ yếu là cây thức ăn tự nhiên trên bãi chăn. Bãi chăn
thả hiện nay ngày càng bị thu hẹp, mặt khác ngày càng bị thoái hóa trước tác
động của con người và gia súc, do đó khả năng khai thác ngày càng bị hạn
chế (Hoàng Chung và Nguyễn Thị Hảo, 2010) [9]. Người chăn nuôi sử dụng
phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn chưa phổ biến, chủ yếu là rơm phơi khô

cho trâu bò ăn, hiệu quả chưa cao. Cứ 1 tấn thóc, tạo ra 1-1,5 tấn rơm rạ


2
(Maiorella, 1985) [71], như vậy theo số liệu của Tổng cục thống kê (2012)
[39;54] hàng năm nước ta sản xuất khoảng trên 42 triệu tấn rơm rạ/năm.
Ngoài ra còn có khoảng 10 triệu tấn phụ phẩm chế biến nông sản như bã sắn,
bã bia, bã rượu, rỉ mật Tuy khối lượng phụ phẩm lớn như vậy, nhưng tỷ lệ
sử dụng phụ phẩm nông nghiệp là thức ăn chăn nuôi chỉ chiếm khoảng 18%,
phần còn lại chưa được sử dụng để chế biến, dự trữ làm thức ăn cho gia súc
vào các tháng mùa khô. Nếu chúng ta tận dụng được nguồn phụ phẩm đó làm
thức ăn chăn nuôi sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế đất nước
(Nguyễn Xuân Trạch, 2007) [48].
Xuất phát từ những vấn đề thực tế nêu trên, nhằm hạn chế đến mức tối
đa tình trạng trâu bò chết hàng loạt trong vụng Đông Xuân tại khu vực miền
núi phía Bắc. Đồng thời khai thác tốt tiềm năng sẵn có của địa phương trong
phát triển chăn nuôi đại gia súc trên cơ sở phát huy thế mạnh về đất đai,
nguồn thức ăn phế phụ phẩm và lao động nông nhàn của người dân miền núi,
góp phần thúc đẩy sản xuất, xóa đói giảm nghèo cho người nông dân. Chúng
tôi tiến hành thực hiện đề tài "Nghiên cứu sử dụng thức ăn bổ sung cho bò
trong vụ Đông Xuân tại một số tỉnh miền núi phía Bắc".
2. Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu thực trạng số lượng, một số nguyên nhân gây chết và đề
xuất biện pháp khắc phục tình trạng trâu bò chết hàng loạt vụ Đông Xuân trên
địa bàn một số tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn 2008 - 2012.
- Nghiên cứu thực trạng cây thức ăn tự nhiên, khảo sát năng xuất phụ
phẩm nông nghiệp và tình hình sử dụng phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn
cho trâu bò.
- Nghiên cứu chế biến, đánh giá khả năng sinh khí in vitro gas
production và sử dụng thức ăn thô xanh để chăn nuôi bò trong điều kiện chăn

nuôi trong nông hộ.


3
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Đánh giá thực trạng trong chăn nuôi, nguyên nhân gây chết và cơ sở đề
xuất các biện pháp khắc phục tình trạng trâu bò hàng loạt trong vụ Đông Xuân.
- Khảo sát tiềm năng thực trạng cây thức ăn tự nhiên, khảo sát năng
xuất phụ phẩm nông nghiệp một số cây trồng trên địa bàn.
- Đưa ra phương pháp chế biến, đánh giá khả năng sinh khí in vitro gas
production và sử dụng thức ăn thô xanh để chăn nuôi bò.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá thực trạng phát triển, đồng thời đề xuất các biện pháp giảm
thiệt hại do trâu bò chết hàng loạt trong vụ Đông Xuân.
- Người chăn nuôi có thể áp dụng các biện pháp đề phòng nhằm giảm
thiểu thiệt hại do trâu bò chết hàng loạt trong vụ Đông Xuân.
- Áp dụng phương pháp chế biến, bảo quản và cách sử dụng thức ăn bổ
sung cho chăn nuôi trâu bò, nhằm tận dụng nguồn thức ăn là phụ phẩm nông
nghiệp tại chỗ để mang lại hiệu quả kinh tế cao.


4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sinh lý tiêu hóa của gia súc nhai lại
1.1.1. Cấu tạo bộ máy tiêu hóa của trâu bò
Sự khác biệt của bộ máy tiêu hóa ở gia súc nhai lại là những khoang
phình lớn, tại đây có các điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật lên men
carbonhydrate và các chất hữu cơ khác. Sản phẩm chủ yếu của quá trình lên

men là các axít béo bay hơi (ABBH), khí mê tan (CH
4
), cacbonic (CO
2
) và
adenosine triphosphate (ATP) là chất mang năng lượng cần thiết cho quá trình
sinh trưởng và phát triển của vi sinh vật.
Bộ máy tiêu hóa của trâu bò nói riêng và của động vật nhai lại nói
chung bao gồm: Răng miệng, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già. Khả năng
sử dụng được nguồn thức ăn nhiều xơ của trâu, bò là nhờ cấu tạo đặc biệt của
đường tiêu hóa tạo cơ hội cho quá trình lên men của vi sinh vật diễn ra trước
quá trình lên men của đường ruột.
- Dạ dày của động vật nhai lại gồm 4 túi: Dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách
và dạ múi khế. Ba dạ đầu được gọi chung là dạ dày trước, dạ dày trước không
có các tuyến dịch vị mà chỉ có tế bào phụ tiết dịch nhầy. Dạ dày sau hay dạ
múi khế là phần duy nhất có các tuyến tiêu hóa.
+ Dạ cỏ: Là một túi đặc biệt nhất, trong đó hàng loạt phản ứng sinh hóa
học được tiến hành liên tục, tiêu hóa ở dạ cỏ chiếm một vị trí rất quan trọng
trong quá trình tiêu hóa của gia súc nhai lại. Có đến 50% vật chất khô (DM)
của khẩu phần được tiêu hóa ở dạ cỏ. Trong dạ cỏ, các chất hữu cơ của khẩu
phần được biến đổi không phải bằng sự tham gia của các enzym tiêu hóa của
vật chủ mà nhờ vai trò phân giải của các vi sinh vật (nấm, vi khuẩn, động vật
nguyên sinh) cộng sinh trong đó.


5
Dạ cỏ nằm bên trái xoang bụng, chiếm 85 - 90% dung tích dạ dày và
75% dung tích đường tiêu hóa. Dạ cỏ nối với dạ tổ ong bằng một miệng lớn
do vậy sự di chuyển thức ăn thô xanh được dễ dàng hơn. Bên vách dạ cỏ có
một lớp cơ bao bọc, giúp cho việc co bóp, nhào trộn thức ăn được tốt. Màng

phía trong có hệ mạch máu phát triển, nhung mao dạ cỏ rất phát triển đã làm
tăng bề mặt của dạ cỏ lên gấp 7 lần. Do vậy, phần lớn các axít béo bay hơi
(ABBH) tạo ra trong quá trình lên men đã được hấp thu qua niêm mạc dạ cỏ,
khoảng 85% ABBH được hấp thu qua niêm mạc dạ cỏ, dạ tổ ong trở thành
nguồn năng lượng cho vật chủ (Nguyễn Xuân Trạch và cs, 2006) [47];
(Nguyễn Văn Bình và Trần Văn Tường, 2007) [2].
+ Dạ tổ ong: Có cấu trúc giống như một chiếc tổ ong, làm tăng bề mặt tiếp
xúc với thức ăn. Chức năng của dạ tổ ong là tham gia vào quá trình lên men thức
ăn, đồng thời nó còn có chức năng đẩy phần thức ăn dạng lỏng chuyển xuống dạ
lá sách. Các gờ tổ ong của dạ tổ ong còn giúp đẩy các viên thức chưa được
nghiền trở lại dạ cỏ, từ đó đẩy ngược thức ăn lên miệng để nhai lại.
+ Dạ lá sách: Có hình cầu, mặt trong được phủ một lớp nhu mô ngắn,
được cấu trúc như một quyển sách nhờ có các tấm mỏng xếp lại với nhau.
Trên bề mặt của dạ lá sách có nhiều ngăn nhỏ đã làm tăng diện tích bề mặt lên
28%. Chức năng chính của nó là lọc thức ăn và hấp thu các chất điện giải và
khoảng 10% các ABBH.
+ Dạ múi khế (dạ dày thực): Có nhiều nếp gấp ở bên trong để tăng
thêm diện tích hấp thu và là phần dạ dày duy nhất có tuyến tiêu hóa. Rãnh
thực quản kéo dài từ vùng thượng vị tới dạ lá sách được hình thành do hai lớp
cơ gấp, có thể đóng để lượng thức ăn lỏng thông xuống thẳng dạ múi khế mà
không qua dạ cỏ (trong thời kỳ gia súc non). Dạ múi khế có chức năng như
một dạ dày đơn. Tại đây sinh khối vi sinh vật (VSV) được các enzym của dạ
múi khế phân giải và tiếp tục được tiêu hóa, hấp thu ở ruột non.


6
- Ruột non: Ruột non ở gia súc nhai lại có cấu tạo và chức năng tương
tự như gia súc dạ dày đơn. Trong ruột non có các enzym tiêu hoá tiết qua
thành ruột và tuyến tuỵ để tiêu hoá các loại tinh bột, đường, protein và lipid,
những phần thức ăn chưa được tiêu hoá ở dạ cỏ và sinh khối vi sinh vật được

đưa xuống từ dạ cỏ. Ruột non còn làm nhiệm vụ hấp thu nước, khoáng,
vitamin và các sản phẩm tiêu hoá ở ruột non.
- Ruột già: Có chức năng lên men, hấp thu và tạo phân. Trong phần
manh tràng có hệ vi sinh vật tương tự như trong dạ cỏ có vai trò lên men các
sản phẩm đưa từ trên xuống. Đối với gia súc nhai lại lên men vi sinh vật ở
manh tràng là lên men thứ cấp, còn đối với một số động vật ăn cỏ dạ dày đơn
(ngựa, thỏ) thì lên men vi sinh vật ở manh tràng lại là hoạt động tiêu hoá
chính. Các axit béo bay hơi sinh ra trong ruột già được hấp thu tương tự như ở
dạ cỏ, nhưng xác vi sinh vật không được tiêu hoá tiếp mà thải ra ngoài quan
phân. Trực tràng có tác dụng hấp thu nước, tạo khuôn và tích trữ phân.
1.1.2. Đặc điểm sinh lý tiêu hóa của gia súc nhai lại
Trâu, bò là loài động vật phân bố khắp trên thế giới, chúng có mặt ở
các vùng tự nhiên và sinh thái khác nhau trên trái đất, chúng có khả năng tự
kiếm thức ăn cao. Tuy nhiên, do tầm vóc, khối lượng lớn nên trâu bò đòi hỏi
lượng thức ăn lớn. Mỗi ngày, một con trâu bò có thể sử dụng tới 30 - 50 kg
thức ăn (Orskov, 1994) [76]. Vì vậy, để phát triển chăn nuôi trâu bò cần có
diện tích bãi chăn thả và trồng cây thức ăn cho chúng. Khác với những loài
vật ăn thịt và động vật ăn tạp, dạ dày trâu bò có 4 túi (dạ cỏ, tổ ong, lá sách,
múi khế) để phù hợp với sự tiêu hóa thức ăn có nhiều chất thô xơ như cỏ,
rơm, xác thực vật. Tiêu hóa ở dạ cỏ chiếm vị trí rất quan trọng trong quá trình
tiêu hóa ở trâu bò vì hầu như thành phần chủ yếu của thức ăn trâu bò (rơm,
cỏ) được tiêu hóa ở đây. Dạ cỏ vừa có dung tích lớn nhất (200 - 250 lít) lại
có hệ thống vi sinh vật cộng sinh rất phát triển, chúng gồm nhóm động vật


7
nguyên sinh (Protozoa), vi khuẩn (Bacteria), nấm. Protozoa có số lượng
khoảng 1 triệu con/1g thức ăn dạ cỏ, có khả năng sinh sản rất nhanh (4 - 5 thế
hệ/ngày), chúng có khả năng công phá vỡ màng xenlulo (màng xơ khó tiêu
hóa nhất của tế bào thực vật). Từ đó, giải phóng ra các thành phần dinh dưỡng

bên trong như tinh bột, đường, các protit… Chúng sử dụng một phần cho sự
phát triển bản thân chúng, mặt khác giúp vi khuẩn phát triển. Vi khuẩn tiếp
tục phân giải xenlulo, hemixenlulo thành các sản phẩm đường mạch ngắn
như disaccarit, polysaccarit và sau đó tiếp tục biến thành các axít béo bay
hơi, axít lactic. Nhóm vi khuẩn lactic, streptococcus cũng góp phần chuyển
hóa chất bột đường. Quá trình phân giải chất xơ của dạ cỏ sẽ tạo thành sản
phẩm là các axít béo bay hơi (Axít acetic/60 - 70%, Axít propionic/15 - 20 %,
axít butyric /10-15 %), các thể khí như CO
2
, CH
4
, H
2
, O
2
, NH
3
… Các axít béo
bay hơi chính là nguồn cung năng lượng cho các hoạt động của cơ thể trâu bò
và là chất béo của sữa bò.
1.1.3. Hệ vi sinh vật dạ cỏ của trâu bò
1.1.3.1. Vi khuẩn (Bacteria)
Vi khuẩn xuất hiện trong dạ cỏ loài nhai lại ở lứa tuổi còn non ngay cả
khi chúng được nuôi tách biệt hoặc nuôi cùng với gia súc mẹ. Thông thường
vi khuẩn chiếm số lượng lớn nhất trong VSV dạ cỏ và chúng được coi là
thành phần quan trọng bậc nhất trong việc phân giải chất xơ và sinh tổng hợp
protein từ amoniac (NH
3
). Tổng số vi khuẩn trong dạ cỏ dao động từ 10
9


10
11
tế bào/ml chất chứa dạ cỏ và có hơn 200 loài đã được xác định. Lượng
sinh khối vi khuẩn chiếm 50% tổng sinh khối của VSV dạ cỏ (Nguyễn Xuân
Trạch và cs, 2006) [47]; (Nguyễn Văn Bình và Trần Văn Tường, 2007) [2].
Trong dạ cỏ, vi sinh vật sống ở thể tự do chiếm khoảng 30%, phần còn lại
sống bám vào các mẩu thức ăn, trú ngụ vào các nếp gấp biểu mô và bám vào
protozoa (Forsberg và Lam, 1977) [64].


8
Theo Vũ Duy Giảng (2001) [18], Nguyễn Văn Bình và Trần Văn
Tường (2007) [2] các nhóm vi khuẩn bao gồm:
- Nhóm vi khuẩn phân giải chất xơ (Cellulolytic bacteria): Gồm vi khuẩn
phân giải cellulose (Bacteroides succinogenes; Butyrivibrio fibrisolvens;
Ruminoccocus flavefaciens; Ruminoccocus albus; Cillobacterium
cellulosesolvens) và vi khuẩn phân giải hemicellulose (Butyrivibrio fibrisolvens;
Lachonospira multiparus; Bacteroides ruminicola).
- Nhóm vi khuẩn tiêu hóa tinh bột (Amylolytic bacteria): Trong dạ cỏ số
lượng loài vi khuẩn phân giải tinh bột rất lớn bao gồm: Bacteroides amylophilus;
Succinimonas amylolytica; Butyribrio fibrisolbvens; Bacteroides ruminantium;
Selenomonas ruminantium và Septococcus bovis. Khi có đầy đủ nitơ thì các vi
khuẩn nhóm này tăng nhanh và sản sinh ra nhiều acid lactic làm cho pH trong dạ
cỏ giảm xuống, lúc này sẽ ức chế các nhóm vi khuẩn phân giải chất xơ. Khi đó
các loài vi khuẩn amylolytic (điển hình là Septococcus bovis) chiếm ưu thế và
tiếp tục phân giải tinh bột để tạo ra axít lactic. Axít lactic sinh ra được hấp thu
vào máu, với số lượng lớn có thể gây ngộ độc cho gia súc.
1.1.3.2. Động vật nguyên sinh (Protozoa)
Trong dạ cỏ, protozoa có số lượng khoảng 10

6
/ml dịch dạ cỏ và có
khoảng 120 loài protozoa. Protozoa dẽ dàng bị phân hủy trong môi trường
acid và không có khả năng tổng hợp được acid amin từ NH
3
. Nguồn axít amin
để tổng hợp nên protein của cơ thể chúng lại nhờ ăn và tiêu hóa protein của vi
khuẩn hoặc từ thức ăn mà có. Ước tính trong vòng một giờ, động vật nguyên
sinh trong dạ cỏ có thể ăn tới 200 x 10
5
vi khuẩn, và cứ mỗi phút có khoảng
1% vi khuẩn trong dạ cỏ bị protozoa ăn.
Theo Vũ Duy Giảng (2001) [18]: Động vật nguyên sinh thuộc lớp Ciliata,
có hai nhóm chính đó là nhóm phân giải chất xơ (Cellulolytic ciliate) và nhóm
phân giải tinh bột (Amylolytic ciliate). Tác dụng của protozoa đối với tiêu hóa


9
trong dạ cỏ là xúc tiến quá trình tiêu hóa chất xơ và tiêu hóa nhanh tinh bột nên
góp phần ổn định pH trong dạ cỏ. Tuy nhiên khi protozoa phát triển mạnh lại
ngăn cản và hạn chế sự phát triển của vi khuẩn (Romulo, 1986) [81].
1.1.3.3. Nhóm nấm (Fungi)
Nấm sinh sống trong dạ cỏ thuộc loài yếm khí, bao gồm các loài:
Neocallimastic frontalis; Piramonas communis và Sphaeromonas communis,
với số lượng khoảng 10
3
/ml dịch dạ cỏ. Nấm trong dạ cỏ cũng đóng vai trò
quan trọng trong tiêu hóa chất xơ của vi sinh vật (Bauchop, 1981) [57]. Nấm
còn có khả năng tiêu hóa một vài thành phần trong cấu trúc của tế bào như
cellulose, tinh bột, đường… một số loài còn có thể lên men được cả

hemicellulose. Mặc dù vậy, có những carbonhydrate mà nấm không thể phân
giải được bao gồm pectin, acid galacturonic, fructoza, mantoza và galactoza.
Mối quan hệ của các vi sinh vật dạ cỏ: Vi sinh vật trong dạ cỏ có mối
quna hệ cạnh tranh và hỗ trợ lẫn nhau, loài này phát triển trên sản phẩm của
loài kia (Preston và Leng, 1991) [55]. Mối quan hệ đó bao gồm:
- Mối quan hệ cộng sinh: Quá trình lên men dạ cỏ diễn ra liên tục bao
gồm nhiều loài cùng tham gia. Trong điều kiện bình thường giữa vi khuẩn và
protozoa có sự cộng sinh có lợi, đặc biệt trong quá trình tiêu hóa xơ. Chất xơ
được tiêu hóa nhanh nhất khi có mặt cả vi khuẩn và protozoa. Protozoa phân
giải và tích trữ tinh bột, hạn chế tốc độ sinh acid lactic, hạn chế giảm pH đột
ngột trong môi trường, do vậy có lợi cho vi khuẩn phân giải xơ.
- Mối quan hệ cạnh tranh: Các nhóm vi khuẩn khác nhau có sự cạnh
tranh điều kiện sinh tồn. Chẳng hạn khi gia súc ăn khẩu phần thức ăn giàu
tinh bột nhưng lại nghèo protein thì số lượng vi khuẩn phân giải cellulose sẽ
giảm và do đó dẫn đến tỷ lệ tiêu hóa chất xơ trong khẩu phần thấp.
Như vậy mối quan hệ và tương tác giữa các vi sinh vật trong dạ cỏ chịu
ảnh hưởng rất lớn từ khẩu phần ăn. Khi khẩu phần thức ăn của gia súc giàu


10
chất dinh dưỡng thì không có sự cạnh tranh, nhưng ngược lại thì sẽ xảy ra
hiện tượng cạnh tranh gay gắt giữa các nhóm vi sinh vật, gây ức chế lẫn nhau,
từ đó sẽ làm giảm hiệu quả tiêu hóa thức ăn (Preston và Leng, 1991) [55].
Sự có mặt của hệ thống vi sinh vật còn giúp trâu bò sử dụng được nguồn
Nitơ phi protein như carbamid, muối amon tạo thành protid của chính bản thân
vi sinh vật, xác vi sinh vật lại là nguồn cung chất đạm cho trâu bò ở phần sau
đường tiêu hóa. Các hoạt động trên chỉ có thể diễn ra thuận lợi khi dạ cỏ: Có độ
pH thích hợp từ: 6,4 - 7. Nếu pH giảm (do thiếu lượng Bicarbonate natri trong
nước bọt, do khẩu phần có nhiều thức ăn tinh hệ thống vi khuẩn lên men axít
lactic hoạt động mạnh làm môi trường dạ cỏ chuyển sang axít) sẽ ức chế sự

phân giải chất xơ, giảm khả năng tiêu hóa. Chính vì vậy trong nuôi dưỡng, thức
ăn của trâu bò cần có độ ẩm cao 70 - 80% và phải cho uống đầy đủ nước sạch,
có nhiệt độ từ 38 - 41
0
C. Chính vì vậy trong điều kiện rét lạnh không cung cấp
đủ nước và nhiệt độ nước quá lạnh cũng như cung cấp quá nhiều tinh bột và
thiếu thức ăn thô xanh trong khẩu phần thì trâu bò cũng sẽ bị ảnh hưởng nhiều
đến sinh trưởng và phát triển.
1.1.4. Môi trường dạ cỏ
Động vật nhai lại được xem là xã hội cộng sinh giữa gia súc và vi sinh
vật, nhờ vậy mà nó có khả năng sống và phát triển dựa vào khẩu phần thức ăn
giàu xơ (FAO, 1989) [56]; Preston và Leng, 1991) [55]. Các nguồn phụ phẩm
nông nghiệp và các loại thức ăn giàu xơ khác, mà con người và động vật dạ
dày đơn không thể sử dụng, vẫn có thể được xem là nguồn thức ăn có giá trị
cho gia súc nhai lại, chúng có khả năng tổng hợp các sản phẩm có giá trị dinh
dưỡng cao cho con người từ các loại thức ăn có giá trị thấp nhờ vậy, gia súc
nhai lại có tiềm năng lớn để cải thiện cuộc sống con người. Quá trình lên men
và trao đổi chất trong dạ cỏ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp năng
lượng, protein cho gia súc nhai lại, tham gia điều khiển lượng thức ăn ăn vào


11
và ảnh hưởng sâu sắc đến sức sản xuất của gia súc. Quá trình trao đổi chất
trong dạ cỏ bao gồm hai quá trình chính:
- Sự phân huỷ các thành phần thức ăn bởi VSV (chủ yếu là
carbohydrate và các hợp chất chứa nitơ).
- Quá trình tổng hợp các đại phân tử cho sinh khối VSV (chủ yếu là
protein, axít nucleic và lipid).
Cả hai quá trình trên đều chịu ảnh hưởng bởi cấu trúc khẩu phần, tốc độ
chuyển dời các tiểu phần thức ăn ở các túi dạ dày trước. Dạ cỏ gia súc nhai lại có

dung tích lớn và môi trường thuận lợi cho VSV yếm khí sống và phát triển. VSV
dạ cỏ đóng góp vai trò đặc biệt vào quá trình trao đổi chất dinh dưỡng của vật chủ.
Chất chứa dạ cỏ là một hỗn hợp gồm thức ăn ăn vào, vi sinh vật dạ cỏ,
các sản phẩm trao đổi trung gian, nước bọt và các chất chế tiết vào dạ cỏ. Đây
là một hệ sinh thái rất phức tạp trong đó liên tục có sự tương tác giữa thức ăn,
hệ vi sinh vật và động vật chủ.
Môi trường dạ cỏ với các đặc điểm thiết yếu cho sự lên men: Môi
trường yếm khí; Độ ẩm cao (85 - 90%); pH dao động khoảng 6,4 - 7,0 và luôn
được đệm bởi bicarbonate và phosphate của nước bọt; Nhiệt độ khá ổn định
38 - 42
0
C; Các chất chứa luôn luôn được nhào trộn bởi sự co bóp của dạ cỏ,
sản phẩm cuối cùng của quá trình lên men ra khỏi dạ cỏ và các cơ chất được
nạp vào thông qua thức ăn, nhờ vậy dòng dinh dưỡng được lưu thông liên tục;
Có sự chế tiết vào dạ cỏ những chất cần thiết cho vi sinh vật phát triển và
khuyếch tán ra ngoài những sản phẩm tạo ra trong dạ cỏ, làm cho áp suất
thẩm thấu của dạ cỏ luôn ổn định; Nước bọt đổ vào dạ cỏ liên tục và duy trì
thức ăn ở dạng lỏng, tạo thuận tiện cho VSV tiêu hoá thức ăn. Thời gian thức
ăn tồn lưu trong dạ cỏ kéo dài tạo điều kiện cho vi sinh vật công phá. Những
điều kiện đó là lý tưởng cho sự phát triển của VSV trong dạ cỏ.


12
Các chất khí mà chủ yếu là khí CO
2
và khí CH
4
là sản phẩm trao đổi
cuối cùng của quá trình lên men dạ cỏ. Hầu hết các chất khí được thải ra
ngoài thông qua quá trình ợ hơi.

Sự vận chuyển sản phẩm cuối cùng ra khỏi dạ cỏ có ảnh hưởng to lớn
đến sự cân bằng sinh thái trong dạ cỏ, nó biến dạ cỏ thành môi trường lên men
liên tục. Các vật liệu đã được tiêu hóa và sinh khối VSV thường xuyên
chuyển xuống phần dưới của đường tiêu hóa, vì vậy số lượng VSV luôn luôn
duy trì ở mức ổn định. Vận tốc di chuyển chất chứa dạ cỏ xuống ruột là một
chỉ tiêu quan trọng để đánh giá quá trình tiêu hóa dạ cỏ và nó được xác định
bởi một số yếu tố như: dung tích dạ cỏ, nhu động dạ cỏ, lượng thức ăn ăn vào
và quá trình lên men.
1.2. Phụ phẩm nông nghiệp và chế biến sử dụng trong chăn nuôi trâu bò
1.2.1. Một số loại phụ phẩm nông nghiệp sử dụng trong chăn nuôi trâu bò
Phụ phẩm nông nghiệp là những sản phẩm phụ thu được từ cây trồng
và các sản phẩm phụ sau chế biến. Chúng thường chiếm một lượng sinh khối
lớn. Đối với các nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nguồn phụ phẩm cây
trồng rất phong phú và đa dạng. Các phụ phẩm này khi dùng làm thức ăn chăn
nuôi thường nghèo chất dinh dưỡng, hàm lượng protein thấp, tỷ lệ chất xơ cao
(25 - 35 % vật chất khô), tỷ lệ tiêu hóa thấp khi dùng chúng làm thức ăn chăn
nuôi (Nguyễn Hữu Tào, Lê Văn Liễn, 2005) [29]. Một số loại phụ phẩm khác
lại khó chế biến, bảo quản và dự trữ sau thu hoạch đồng loạt như: cây lạc, dây
khoai lang, lá mía, thân cây ngô.
Ở nước ta, diện tích đất nông nghiệp bình quân tính trên đầu người rất
thấp (0,1 ha/người), bãi chăn thả ít, phần lớn bãi chăn lại là đồi núi trọc có độ
dốc cao, đất xấu và khô cằn (Viện chăn nuôi, 2001) [52]. Do vậy ở nhiều vùng,
thức ăn thô và phụ phẩm nông nghiệp trở thành thức ăn chính của trâu bò, nhất


13
là trong mùa khô và vụ đông. Hạn chế của các phụ phẩm nông nghiệp là nghèo
chất dinh dưỡng, do đó cần bổ sung thêm cỏ xanh hoặc các loại thức ăn khác.
Để sử dụng có hiệu quả phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho trâu bò
cần phải chế biến hoặc phối hợp với một số loại nguyên liệu khác. Mục đích

của việc chế biến là cải thiện thành phần dinh dưỡng; tăng lượng thức ăn vào,
tăng khả năng tiêu hóa hấp thu, giảm ảnh hưởng của độc tố và các chất kháng
dinh dưỡng, dự trữ nguồn thức ăn lâu dài cho gia súc, khắc phục tính thời vụ
của cây trồng để đảm bảo đáp ứng đủ thức ăn quanh năm và cuối cùng là tăng
lợi nhuận cho người chăn nuôi.
Chăn nuôi bò sử dụng nguồn phụ phẩm khai thác từ các nguyên liệu tại
chỗ chính là hướng đi đảm bảo cho phát triển chăn nuôi một cách bền vững ở
Việt Nam (Lê Viết Ly, Bùi Văn Chính, 1996) [24]. Thức ăn chăn nuôi chế
biến từ các nguồn phụ phẩm nông nghiệp góp phần hạ giá thành sản xuất,
tăng cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh tế cho nông dân.
1.2.1.1. Phụ phẩm rơm lúa
Rơm là loại thức ăn thô, chất lượng thấp đặc trưng bởi hàm lượng xơ
cao, nghèo protein, khoáng và vitamin. Theo Preston và Leng (1991) [55], thì
rơm rạ khi sử dụng làm thức ăn cho gia súc bị hạn chế bởi các yếu tố như tỷ lệ
tiêu hoá các chất dinh dưỡng thấp; hàm lượng protein thấp; hàm lượng các
chất khoáng thấp và tính ngon miệng không cao.
Trong vách tế bào thực vật của rơm được cấu tạo chủ yếu là chất xơ
gồm thành phần chính là cellulose, hemicellulose và lignin. Các thành phần
xơ không có giá trị dinh dưỡng với động vật dạ dày đơn, nhưng lại có ý nghĩa
quan trọng đối với động vật loài nhai lại.
- Cellulose: Là một cấu trúc phổ biến nhất ở thực vật, chiếm khối lượng
lớn trong mọi loại cây trồng và là thành phần chủ yếu cấu tạo nên vách tế bào
thực vật. Đây là loại polysacaride có độ bền hoá học cao, nó chỉ bị thuỷ phân


14
bởi các axít mạnh, các enzym trong hạt nảy mầm, men tiêu hóa của nấm và
VSV mà không bị phân giải bởi các men tiêu hoá của động vật. Trong dạ cỏ
của động vật nhai lại, cellulose tiêu hoá được nhờ có men cellulaza do VSV
sống cộng sinh trong dạ cỏ tiết ra tạo thành glucose hoặc lên men cellubiaza

tạo ra các axít béo bay hơi (axit acetic, axit propionic, axit butyric).
- Hemicellulose có cấu trúc nhỏ nằm trong vách tế bào, phần lớn nó liên
kết chặt chẽ với lignin tạo ra phức hợp lignin - hemicellulose khó bị phân giải.
Hemicellulose kém bền hơn cellulose, không hoà tan trong nước nhưng hoà tan
trong dung dịch kiềm và có thể bị thuỷ phân bởi axít yếu, hemicellulose cùng với
cellulose cấu tạo nên vách tế bào thực vật, nó thường có mặt trong các bộ phận
đã hóa gỗ của cây trồng, có mặt trong rơm, hạt, lá cây và cám.
- Lignin: Là chất có cấu tạo phức tạp, thường có mặt trong các bộ phận
chứa nhiều xơ của cây trồng như vỏ trấu, rễ, thân và lá. Lignin luôn đi kèm với
cellulose và hemicellulose trong vách tế bào nên làm giảm khả năng tiêu hóa
chúng. Dưới tác dụng của dung dịch kiềm liên kết hemicellulose - lignin bị phá
vỡ đã làm khả năng tiêu hóa tăng lên nhưng lignin không bị phá hủy. Trong vách
tế bào rơm lignin liên kết với cellulose và hemicellulose bằng mạch nối ester và
hydrogen. Ngoài ra, lignin còn liên kết với protein bằng liên kết hoá trị. Các liên
kết hoá học trên bền trong môi trường dạ cỏ nên đã làm giảm thấp tỷ lệ tiêu hoá
và thành phần dinh dưỡng trong rơm (Nguyễn Xuân Trạch, 2007) [48]. Vì vậy,
cần nghiên cứu áp dụng các phương pháp khác nhau nhằm nâng cao chất lượng
và tỷ lệ tiêu hóa rơm làm thức ăn cho gia súc, tránh lãng phí nguồn thức ăn này.
1.2.1.2. Phụ phẩm từ cây ngô
Đây cũng là nguồn thức ăn thô quan trọng đối với gia súc ăn cỏ, đặc
biệt là vào vụ đông. Các loại phụ phẩm như thân, lá, ngọn ngô, vỏ bắp ngô,
lõi ngô đều có thể sử dụng làm thức ăn cho trâu, bò. Cứ 1 kg thân cây ngô đã
thu bắp trung bình có 600 - 700g chất khô, 60 - 70g protein, 280 - 300g xơ


15
(Lê Viết Ly, 2001) [25]. Các loại phụ phẩm này khi được thu bắp ở thời điểm
khác nhau (bắp ngô còn non, hạt ngô chín sáp hoặc hạt ngô già) thì sẽ có
thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng khác nhau, điều này cần được lưu ý
trong quá trình chế biến, bảo quản.

Việc nghiên cứu, tìm hiểu và có biện pháp thu gom, chế biến, bảo quản
phù hợp sẽ góp phần tận dụng được nguồn thức ăn thô xanh có giá trị dinh
dưỡng cho gia súc, nhất là trong vụ Đông Xuân thường thiếu thức ăn xanh.
1.2.1.3. Phụ phẩm từ cây sắn
Sắn là loại cây thức ăn gia súc có giá trị, sản phẩm phụ thân, lá sắn là
nguồn thức ăn thô xanh giàu dinh dưỡng cho gia súc. Ngọn lá sắn có thể tận
thu trước khi thu hoạch củ 20 - 30 ngày mà không ảnh hưởng đến năng suất
và chất lượng củ.
Ngọn, lá sắn được coi là nguồn protein lý tưởng, được sử dụng làm
thức ăn giàu đạm cho vật nuôi. Hàm lượng protein thô trong vật chất khô của
lá sắn tương đối cao, dao động từ 22,6 - 29,9% (Từ Quang Hiển, 1983) [20];
(Hoàng Thanh Thủ và cs, 2010) [46]. Theo Viện chăn nuôi (2003) [52], bột lá
sắn có hàm lượng các chất dinh dưỡng như sau: vật chất khô 93%; protein thô
16% (16,7 - 39,9%); lipit 5,5% (3,8 - 10,5%); xơ thô 20% (4,8 - 29%). Trong
lá sắn giàu vitamin C và vitamin A, có hàm lượng riboflavin đáng kể, giàu
lysine nhưng thiếu methionin. Trong lá sắn có đầy đủ các axit amin thiết yếu;
lá sắn phơi khô và lá sắn ủ chua không có sự chênh lệch đáng kể về tỷ lệ
protein thô và tỷ lệ các axit amin (Phuc và Lindberg, 2001) [79]. Trong các bộ
phận của cây sắn có chứa độc tố HCN, tác giả Phạm Sỹ Tiệp (1999) [37] cho
biết, lá sắn càng già thì hàm lượng HCN càng thấp, ở những lá non hàm lượng
HCN trong cuống lá cao hơn trong phiến lá, còn trong lá già thì ngược lại. Hàm
lượng HCN ở những phiến lá búp là 330 - 790 ppm (khối lượng tươi), ở những
lá bánh tẻ là 340 - 1040 ppm và ở những lá già là 210 - 730 ppm. Hàm lượng


16
HCN trong củ sắn nhiều hơn trong lá sắn và tập trung ở vỏ, lõi củ (Hoàng
Thanh Thủ và cs, 2010) [46].
Bã sắn, là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất tinh bột sắn, chiếm
khoảng 45% so với khối lượng sắn nguyên củ. Trong bã sắn chứa khoảng 8%

tinh bột, 15 - 20% xơ thô (Bùi Quang Tuấn, 2005) [40]. Theo Nguyễn Hữu
Văn và cs (2008) [50], khi phân tích hàm lượng các chất trong bã sắn tươi tính
theo hàm lượng vật chất khô như sau: giá trị protein thô 3,6%, lipit thô 0,3%;
năng lượng thô là 4198 Kcal/kg, hàm lượng HCN là 240 mg/kg.
Hạn chế lớn nhất trong việc sử dụng phụ phẩm từ cây sắn làm thức ăn
cho gia súc là có chứa độc tố HCN làm gia súc chậm lớn hoặc có thể gây chết
nếu ăn với số lượng nhiều. Vì vậy cần chú ý phương pháp chế biến bảo quản
phù hợp để sử dụng hiệu quả nguồn thức ăn này trong chăn nuôi.
Ngoài các phụ phẩm nêu trên nước ta còn một khối lượng lớn các loại
phụ phẩm nông nghiệp khác như dây khoai lang, thân lá lạc, ngọn lá mía…
Cũng là nguồn thức ăn thô xanh tốt cho gia súc nhai lại, tuy nhiên vấn đề sử
dụng trong chăn nuôi vẫn còn nhiều hạn chế và vấn đề cơ bản vẫn là phương
pháp bảo quản, chế biến của người chăn nuôi.
1.2.2. Một số phương pháp chế biến, sử dụng phụ phẩm nông nghiệp
1.2.2.1. Chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh bằng phương pháp làm khô
Phương pháp làm khô thức ăn là phương pháp cổ truyền để chế biến dự
trữ thức ăn. Phương pháp này sử dụng nhiệt năng để làm thoát hơi nước,
giảm độ ẩm của thức ăn đến mức thấp 10-13% đủ kìm hãm sự hoạt động của
các enzym trong tế bào thực vật, cũng như kìm hãm sự hoạt động phân huỷ
của vi sinh vật.
- Ưu điểm của phương pháp làm khô:
+ Khi thức ăn gia súc ở trạng thái khô 10 - 13% độ ẩm thì các chất dinh
dưỡng được bảo quản có thể dự trữ để làm thức ăn quanh năm cho gia súc.

×