Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Năng lực cạnh của ngành may mặc Việt Nam trên thị trường EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.73 KB, 38 trang )

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
May là một trong những ngành cơng nghiệp có lịch sử lâu đời ở Việt Nam; là
ngành đòi hỏi vốn đầu tư nhiều và sử dụng nhiều lao động có trình độ kỹ thuật cao.
Chính vì vậy, Việt Nam là nước có lợi thế so sánh trong sản xuất và xuất khẩu mặt hàng
này. Hơn nữa chúng ta đang trong giai đoạn tích luỹ để cơng nghiệp hố hiện đại hố đất
nước. Do vậy, ngành may xuất khẩu được coi là một ngành trọng điểm trong chính sách
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu ngành may Việt Nam ngày
càng gia tăng (bình qn 12%/năm) góp phần đáng kể vào việc cải thiện cán cân thanh
toán quốc tế, đồng thời giải quyết được một số lượng lớn lao động trong nước. Nhiều
chủng loại hàng may của Việt Nam đã có mặt trên những thị trường khó tính: Nhật Bản,
Mỹ và đặc biệt là thị trường EU.
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam với đường lối phát triển theo hướng “Việt Nam
tích cực chủ động hội nhập quốc tế và khu vực”. Đối với EU, quan hệ của Việt Nam mới
chính thức phát triển từ năm 1990 quan hệ này đã phát triển một cách nhanh chóng và
mật thiết. Ngày 17/7/1995 Hiệp định dệt may được ký kết giữa Việt Nam và EU tại
Brusel (Bỉ). Hiện nay EU có 15 thành viên (EU15) chính thức và dự định ngày 1/5/2004
sẽ gia nhập thêm 10 nước ở Trung và Đông Âu nữa. EU15 với dân số 375 triệu người
GDP đạt 8,562 tỷ USD chiếm 20% GDP của thế giới. Nền văn hoá của các nước EU rất
đa dạng và có nhiều nét tương đồng đặc biệt là các sở thích về thời trang, Èm thực, sức
mua sắm ở thị trường này là rất lớn, với thu nhập bình quân của người dân rất cao khoảng
22.832 USD/năm. Như vậy, EU sẽ hứa hẹn là một thị trường đầy tiềm năng cho xuất
khẩu hàng may Việt Nam.
Bên cạnh những lợi thế đó, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
vào thị trường EU đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn đó là việc ngành dệt
hiện nay của chúng ta đang ở tình trạng yếu kém, không cung cấp đủ nguyên liệu cho các
doanh nghiệp may trong nước. Mỗi năm ngành may phải nhập từ 400 đến 450 triệu mét
vải trong khi phần lớn giá trị xuất khẩu hàng may của Việt Nam lại được thực hiện bằng
phương thức gia công nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao. Các doanh nghiệp Việt Nam
chưa tạo được những thương hiệu hàng hố có uy tín để có chỗ đứng vững chắc trên thị
trường EU – là thị trường rất khó tính địi hỏi tiêu chuẩn cao cả về chất lượng lẫn mẫu mã




sản phẩm. Theo cách đánh giá chung, so với các mặt hàng xuất khẩu cùng loại của các
quốc gia khác thì tính cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam cịn hạn chế, yếu kém nhiều
mặt, trong đó phải kể đến đối thủ cạnh tranh rất lớn của may Việt Nam trên thị trường EU
– May Trung Quốc. Sự cạnh tranh càng trở nên quyết liệt hơn từ sau khi Trung Quốc gia
nhập WTO, Trung Quốc khơng cịn bị khống chế hạn ngạch xuất khẩu nữa và sẽ có nhiều
cơ hội để chiếm lĩnh mạnh mẽ thị trường này. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện
những vấn đề lý luận, thực tiễn và đánh giá kết quả đạt được, nhằm đưa ra các gợi ý, bài
học cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh hàng may mặc Việt Nam trên thị trường EU
trở nên cấp thiết hơn.
Nhận thức được điều này chúng tôi đã chọn đề tài “năng lực cạnh của ngành may
mặc Việt Nam trên thị trường EU” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Thời gian gần đây có nhiều bài viết cũng như các cơng trình nghiên cứu về ngành
dệt may Việt Nam với nội dung chủ yếu đề cập đến thực trạng, năng lực cạnh tranh của
ngành dệt may Việt Nam ...
Như: Công trình nghiên cứu của Kenta Goto; Thạc sỹ Đặng Thị Đơng Trong cuốn
“chính sách cơng nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập” – Tập I,
II NXB thống Kê 2003, các bài viết của PGS. TS trần Văn Chu in trên tạp chí nghiên cứu
Châu Âu số 48 tháng 6/2002, Dương Đình Giám in trên tạp chí cơng nghiệp Việt Nam sè
4/2001, Lê Phương Dung – Tạp chí thương mại số 36/2002... và một số cơng trình nghiên
cứu khác...
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu về ngành may Việt Nam đặc biệt
là việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may Việt Nam trên thị trường EU. Vì vậy,
cơng trình nghiên cứu của chúng tơi thực sự có những điểm mới và hồn tồn dùa trên sự
nhận định đánh giá của nhóm. Thông qua tham khảo, thu thập, xử lý các thông tin, tài
liệu và các cơng trình nghiên cứu trước.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài trước hết làm rõ những luận cứ khoa học về năng lực cạnh tranh của ngành

may Việt Nam trên thị trường EU.
Đề tài sẽ làm rõ những khó khăn và thuận lợi, những điểm mạnh và điểm yếu trong
hoạt động xuất khẩu hàng may trên thị trường EU của các doanh nghiệp Việt Nam. Đồng


thời, đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng may trong
thị trường EU. Trên cơ sở đó đưa ra các gợi ý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
ngành may Việt Nam trên thị trường EU.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là cơ sở lý luận và thực tiễn năng lực cạnh tranh của ngành
may Việt Nam trên thị trường EU.
Phạm vi : Đề tài nghiên cứu của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành may
Việt Nam trên thị trường EU. Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu sơ bộ đối thủ cạnh tranh
lớn trên thị trường EU là Trung Quốc.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở lấy quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng trong
quá trình phân tích vấn đề. Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, sử
dụng mơ hình SWOT để đánh giá chung về ngành may Việt Nam đồng thời sử dụng các
chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh.
6. ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
Đề tài cung cấp các thông tin lý luận về thực trạng ngành may Việt Nam nói chung
và trên thị trường EU nói riêng; chỉ ra vai trò của ngành may trong cơ cấu ngành cơng
nghiệp Việt Nam qua đó đưa ra một số gợi ý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh ngành
may Việt Nam trên thị trường, nâng cao hơn nữa vị thế của ngành may Việt Nam. Thông
qua việc nghiên cứu, đề tài có thể là cơ sở đề ra những biện pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh cho một số ngành khác trong việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường EU.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm ba phần:
Phần 1: Giới thiệu chung về ngành may mặc Việt Nam
Phần 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành may Việt Nam trên thị trường

EU.
Phần 3: Một số gợi ý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành may Việt Nam
trên thị trường EU.
Phần 1:
Giới thiệu chung về ngành may Việt Nam


1.1. Giới thiệu chung về ngành may Việt Nam
Ngành may Việt Nam khởi sắc từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX và có tốc độ
tăng trưởng khá nhanh. Trên thị trường quốc tế hàng may Việt Nam được đánh giá là có
chất lượng. Dùa trên lợi thế so sánh thì hàng may Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên
thị trường thế giới. Những năm gần đây sản phẩm may Việt Nam đã xâm nhập vào được
các thị trường lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản… Và đã tạo dựng được chỗ đứng trên những
thị trường này. Trong hoàn cảnh mới ngành may Việt Nam cũng đang có nhiều cơ hội,
nhưng cũng đứng trước không Ýt những thách thức. Phân tích ma trận S.W.O.T
(strengths - điểm mạnh, weaknesses - điểm yếu, oppatunities – cơ hội, threats – thách
thức). Đối với ngành may Việt Nam, có thể nêu ra những nét chủ yếu về năng lực cạnh
tranh của ngành trong những năm trước mắt.
1.2. Ma Trận S.W.O.T – Những nét chủ yếu về năng lực cạnh tranh của ngành
may Việt Nam
S-strengths

W-weaknesses

Thế mạnh
O – opportunites

Điểm yếu
T – thereats


Cơ hội
Thách thức
Xét trên cấp độ điểm yếu là những yếu tố nội tại, còn cơ hội và thách thức là những
yếu tố bên ngồi. Tất cả những yếu tố này có thể làm cho ngành phát triển và cũng có thể
kìm hãm. Vấn đề này phụ thuộc phần lớn vào việc chúng ta phát huy những thế mạnh, tận
dụng những cơ hội , che chắn điểm yếu và đối phó với những thách thức như thế nào.
1.2.1. Strengths – Thế mạnh.
Thứ nhất: Về nguồn lực.
Việt Nam là nước có dân số đơng và trẻ trong khu vực và trên thế giới. Theo số
liệu thống kê tính đến 1/7/2002 dân số cả nước là 79.930.000 trong đó số người trong độ
tuổi lao động là 45 triệu người. Hàng năm có khoảng 1,5 triệu thanh niên bước vào độ
tuổi lao động tạo thành đội ngò dự bị hùng hậu, bổ sung liên tục vào đội ngị lao động
vốn đã đơng. Với lực lượng lao động dồi dào nếu chúng ta biết khai thác và sử dụng tốt
thì sẽ là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển của ngành may Việt Nam.
Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam thời gian qua đã có những bước chuyển biến
khá rõ rệt. Điều này được thể hiện ở trình độ văn hố, học vấn, trình độ tay nghề… So
với một số nước trong khu vực, nếu như cố định các yếu tố khác thì tỷ lệ biết chữ và số


năm đi học của lực lượng lao động Việt Nam là khá cao, thậm chí cao hơn cả Trung Quốc
và Singapo. Trình độ chun mơn kỹ thuật ngày càng được nâng cao. Sè lao động có
trình độ đại học, cao đẳng và trên đại học ngày càng tăng. Bên cạnh đó số trường dạy
nghề cũng đang phát triển góp phần đào tạo những lao động có trình độ, kỹ năng đáp ứng
yêu cầu đặt ra.
Giá nhân công ngành may Việt Nam thấp hơn so với các nước. Theo tài liệu thống
kê năm 2000 tiền công lao động ngành may Việt Nam là 0,18 USD/h. Thấp hơn so với
các nước trong khu vực như: Indonesia 0,23 USD/h; Trung Quốc 0,34 USD/h; Thái Lan
0,87 USD/h; Malaysia 0,95 USD/h.
So sánh tiền công lao động một số nước năm 2000
Hình 1.1:


USD/h

Nguồn: Tổng cơng ty dệt may Việt Nam.

Níc

Trong bối cảnh hiện nay thì tiền công lao động vẫn là một lợi thế đối với ngành
may Việt Nam. Tuy nhiên, lợi thế này sẽ bị mất đi nếu như trong cơ bản tương lai Việt
Nam gia nhập WTO và khi chính phủ tăng mức lương cơ bản.
Thứ hai: Công nghiệp may phù hợp với tổ chức quy mô vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Trong điều kiện như hiện nay, khi Việt Nam chưa đủ điều kiện để phát triển các
ngành theo những quy mô lớn như một số nước thì tổ chức quy mơ vừa và nhỏ của ngành
may lại là một lợi thế.


Bản chất của may là công nghiệp nhỏ, để tạo ra một chỗ làm mới, công nghiệp may
chỉ cần khoảng 1000 USD. Mặt khác, do đặc thù sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong thời
gian ngắn nên thời gian thu lời vốn nhanh (từ 5 – 7 năm). Thời gian quay vòng hay chu
chuyển của nguồn vốn ngắn. Do những đặc tính trên ngành may rất phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba: Ngành may là ngành có truyền thống lâu đời.
Lịch sử cho thấy nghề may mặc đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu. Ban đầu chỉ là
những sản phẩm may thủ công chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tự cung tự cấp. Tiếp theo
tiến trình lịch sử khi cơng nghệ may đã phát triển thì ngành may mặc Việt Nam cũng từng
bước phát triển. Cùng với dịng chảy của khoa học cơng nghệ, cho tới ngày nay sản phẩm
may mặc Việt Nam đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ và EU,
Nhật Bản … Chính những giá trị truyền thống này góp phần tạo nên những kinh nghiệm,
những kỹ năng cho người lao động trong ngành may. Đây là những lợi thế rất to lớn đối
với ngành may trong thời gian tới.

Thứ tư: Việt Nam là nước có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển cơng nghiệp may.
Nằm gần trung tâm Đông Nam á, thuộc khu vực Châu á Thái Bình Dương phía
Đơng giáp biển, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia. Đây là
những lợi thế của Việt Nam trong việc giảm chi phí vận chuyển, tạo điều kiện tăng khả
năng cạnh tranh về giá cả. Bên cạnh đó Việt Nam có khí hậu gió mùa nóng Èm rất thích
hợp cho việc trồng cây nguyên liệu như: bông, trồng dâu nuôi tằm… có điều kiện để phát
triển ngành cơng nghiệp hố chất… Chính những điều này giúp cho Việt Nam có thể trực
tiếp tạo ra nguyên liệu cho ngành may trong tương lai, khơng cịn phải nhập ngun liệu
như giai đoạn hiện nay. Những thuận lợi này chỉ phát huy tác dụng nếu như chúng ta biết
sử dụng nó một cách triệt để. Trong tương lai nó sẽ là một trong những thế mạnh của Việt
Nam.
Thứ năm: Việt Nam có số lượng Việt kiều lớn.
Việt Nam có số lượng Việt kiều lớn đặc biệt là tại các nước EU, Mỹ, Trung Quốc,
Đài Loan… Đây là lực lượng tạo ra nguồn tài chính, trực tiếp tiêu dùng sản phẩm và quan
trọng hơn là lực lượng quảng bá sản phẩm may của Việt Nam trên các thị trường này.
Thứ sáu: Việt Nam là nước có truyền thống văn hố lâu đời, đa dạng.


Do đặc điểm của hàng may mặc chịu sự chi phối của các yếu tố như văn hoá,
phong tục tập qn, thị hiếu, tơn giáo, tuổi tác, giới tính, … Với truyền thống văn hoá lâu
đời, đa dạng, nếu như chúng ta biết truyền bá, giới thiệu cho bạn bè thế giới về văn hoá,
con người Việt Nam các phong tục tập quán, tạo ra trong lòng nhân dân thế giới những
Ên tượng về Việt Nam, thì chắc chắn sẽ là yếu tố tốt giúp nâng cao khả năng cạnh tranh
hàng may Việt Nam.
Thứ bảy: Việt Nam có hệ thống chính trị ổn định.
Trong kinh doanh sự ổn định về chính trị là rất quan trọng nó ảnh hưởng đến uy tín
lâu dài và an tồn của các hợp đồng kinh doanh cũng như trong quan hệ ngoại giao đối
với các nước. Trong giai đoạn hiện nay khi tình hình chính trị một số nước trên thế giới
đang mất ổn định đặc biệt là sự lan rộng của chủ nghĩa khủng bố. Thì đây là một thuận
lợi rất lớn cho ngành may nói riêng và các ngành xuất khẩu nói chung của Việt Nam.

1.2.2. Weakness - Điểm yếu.
Ngoài những thế mạnh mà ngành may Việt Nam có được cịn có những điểm yếu
xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trước khi tìm hiểu chúng ta
hãy phân tích sơ đồ sản xuất và phân phối hàng may mặc.
Hình 1.2. Sơ đồ sản xuất và phân phối hàng may.

Thiết kế
sản
phẩm

Lựa
chọn nhà
cung cấp

Mua
nguyên
phụ liệu

Cắt may
hoàn
thiện

Xuất
khẩu

Quỏ trỡnh gm 5 giai đoạn từ việc thiết kế sản phẩm đến xuất khẩu.
Trong các cơng đoạn cịn tồn tại những mặt hạn chế sau:
Thứ nhất: Khả năng thiết kế thời trang còn hạn chế.
Ngành may là ngành rất nhạy cảm đối với các mẫu mã vì nó phụ thuộc vào nhiều



yếu tố: văn hố, tơn giáo, độ tuổi, giới tính, đặc biệt là sở thích và thị hiếu của người tiêu
dùng. Khả năng thiết kế các mẫu mã đáp ứng những nhu cầu đặt ra rất quan trọng. Trong
giai đoạn hiện nay sản phẩm may Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức CMT, mẫu
mã cũng do chính khách hàng đưa ra. Điều này chứng tỏ khả năng thiết kế thời trang của
ta còn yếu hoặc một phần do khả năng nắm bắt thơng tin cịn hạn chế. Vấn đề này nếu
khơng nhanh chóng khắc phục sẽ trở thành một yếu tố làm giảm thị phần của hàng may
Việt Nam trên thị trường khó tính EU.
Thứ hai: Kinh nghiệm marketing quốc tế người tiêu dùng tích luỹ được nhiều.
Nghiên cứu marketing là một chức năng liên kết người tiêu dùng, khách hàng và
công chúng với nhà hoạt động thị trường. Trong giai đoạn hiện nay thì marketing đóng
vai trị hết sức quan trọng trong cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường cũng như quảng bá sản
phẩm. Theo kết quả của hiệp hội marketing Hoa Kỳ, các doanh nghiệp hoạt động nghiên
cứu marketing trên hầu hết các lĩnh vực có liên quan. 90% nghiên cứu về đặc tính thị
trường, 80% nghiên cứu về hành vi mua, 85% nghiên cứu thị phần…
Đối với một số nước và khu vực trên thế giới chia theo khu vực như sau:
Hình 1.3: Tỷ lệ marketinh trên thế giới

Nguồn: Theo tạp chí cơng nghiệp số 12/2003
- Như vậy, trong thời gian tới để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh thì ngành may Việt
Nam phải tăng khả năng marketing quốc tế.


Thứ ba: Trình độ trang bị kỹ thuật cịn thấp so với một số nước trong khu vực và các đối
thủ cạnh tranh khác trên thế giới.
Trong thời gian qua ngành may Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng khích
lệ. Sản phẩm của ngành bao gồm nhiều chủng loại khác nhau từ áo sơ mi nam nữ, áo
jacket, áo khoác nam nữ, quần jeans… Nhiều sản phẩm mới ra đời đặc biệt đã xuất hiện
một số mặt hàng chất lượng cao có tiêu chuẩn quốc tế: áo sơ mi cao cấp, áo jacket, quần
jeans. Những sản phẩm nãy đã khẳng định chỗ đứng trên thị trường EU. Mặc dù vậy,

điều kiện trang bị kỹ thuật còn hạn chế nên phần nhiều các sản phẩm của ngành thuộc
nhóm sản phẩm trung bình, chất lượng cịn ở mức khiêm tốn. Do vậy, để có thể cạnh
tranh được với các đối thủ lớn như Trung Quốc, Thái Lan, và để xâm nhập được vào thị
trường EU thì ngành may Việt Nam phải nâng cao trang thiết bị kỹ thuật nhằm nâng cao
chất lượng và cũng là để hạ giá thành sản phẩm.
Thứ tư: Năng suất lao động còn thấp.
Mặc dù ngành may Việt Nam có lợi thế là đội ngị nhân công dồi dào, khéo léo,
mức tiền công thấp nhưng năng suất lao động lại chưa cao so với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Trung bình thấp hơn từ hai đến năm lần. Với năng suất như vậy sẽ trực
tiếp làm tăng giá thành sản phẩm, hạn chế khả năng cạnh tranh của ngành may Việt Nam.
Thứ năm: Ngun phụ liệu cịn phụ thuộc vào nước ngồi.
Một khó khăn nữa cho ngành dệt may đó là nguyên phụ liệu cịn phụ thuộc nhiều
vào nước ngồi. Điều này có thể lý giải bằng mối quan hệ giữa ngành dệt, ngành nhuộm
và ngành may rất lỏng lẻo. Mặc dù có sự cố gắng để thắt chặt mối quan hệ này thơng qua
tổng cơng ty may Việt Nam. Mới có rất Ýt doanh nghiệp chú trọng gắn kết khâu dệt và
may trong hệ thống riêng của doanh nghiệp. Trong khi nhiều doanh nghiệp có thể liên kết
với nhau để tạo sự nối kết giữa hai ngành này, nhằm tạo thị trường nội bộ và tăng sức
cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam. Hầu hết các doanh nghiệp may cho rằng hiện tại
vải sợi nội địa không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp may, đặc biệt là đối
với các đơn đặt hàng có yêu cầu chất lượng cao.
Việc nhập khẩu nguyên phụ liệu, không những làm cho giá trị gia tăng ngành
giảm, giá thành sản phẩm tăng mà có thể sẽ bị Ðp giá đầu vào khi đó ngành sẽ gặp nhiều
khó khăn.
Thứ sáu: Phương thức phân bổ hạn ngạch chưa hợp lý.


Đây là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi đặc biệt là từ phía các doanh nghiệp sản xuất
gia cơng hàng may mặc. Một số doanh nghiệp và các cơ quan chức năng cho là hợp lý.
Trong khi đó một số doanh nghiệp phàn nàn rằng : với việc phân bổ hạn ngạch như hiện
nay sẽ dẫn đến hậu quả có các doanh nghiệp thừa năng lực thì lại được phân giao hạn

ngạch khơng tương xứng. Nhưng lại có những doanh nghiệp nhỏ nằm ở vùng sâu vùng xa
lại cũng được phân giao hạn ngạch, mà đôi khi được phân chia rồi lại không đủ khả năng
xuất khẩu.
Nhưng dù các doanh nghiệp có phản ứng thế nào đi nữa, theo chúng tôi việc sử lý
phân bổ hạn ngạch của Bộ Công Nghiệp và Bộ Thương Mại đã thực sự cố gắng dùa trên
lợi Ých quốc gia và lợi Ých của cộng đồng các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có thể công
bằng hơn chúng ta nên nghiên cứu bãi bỏ chế độ phân giao hạn ngạch, tiến hành đấu thầu
một cách minh bạch và cơng bằng doanh nghiệp có đủ điều kiện thì được quyền xuất
khẩu.
Thứ bảy: Hình thức xuất khẩu chủ yếu của ngành may Việt Nam là CMT (Gia
công xuất khẩu).
Có thể hình thức xuất khẩu CMT là phù hợp với Việt Nam trong điều kiện hiện
nay của ngành may Việt Nam. Nhưng trong tương lai nó sẽ trở thành một điểm yếu bởi lẽ
nó sẽ tác động làm giảm khả năng cạnh tranh của ngành trên các thị trường xuất khẩu.
Theo các số liệu thống kê hiện nay có tới 70% hàng may Việt Nam xuất khẩu dưới
hình thức CMT, chỉ có 30% dưới hình thức FOB.
Bảng 11: Hình thức xuất khẩu của các doanh nghiệp may Việt Nam được điều tra.

Nguồn: Chính sách cơng nghiệp và Thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập (Trang 164) NXB Thống kê 2003.
Tuy vậy, xu hướng trong tương lai có khá nhiều doanh nghiệp đang đi theo hướng
hoạt động sản xuất lưu thơng hàng may dùa vào hình thức xuất khẩu FOB. Đây là một
dấu hiệu đáng mừng đối với ngành may Việt Nam trong việc nâng cao năng lực cạnh
tranh.
1.2.3.- Opportunity – Cơ hội.


Thứ nhất: Các số liệu xuất khẩu quá khứ cho thấy EU là một những thị trường
trọng điểm của Việt Nam.
Châu âu đã từng được mệnh danh là lục địa già nhưng lại là một khu vực thị trường

rộng lớn, là nơi cung cấp các thiết bị, công nghệ hiện đại là một trung tâm tài chính –
kinh tế lớn. EU thật sự là một thị trường đầy niềm tiềm năng có mức tiêu dùng hàng may
cao hàng đầu thế giới 17/kg/người/năm. Dùa vào những số liệu xuất khẩu quá khứ cho
thấy EU là một trong những thị trường chính của ngành may Việt Nam. Trong tương lai,
đây cũng là một thị trường tiềm năng lớn, mang lại nhiều cơ hội và cũng khơng Ýt những
thách thức.
Hình 1.4: Giá trị xut khu hng dt may Vit Nam sang EU.
Giá trị triệu
USD

Năm

Ngun: Hip Hi dt may Vit Nam nm 2003
Th hai: Các thị trường mới trong đó có Nga và các nước SNG là những thị
trường tiềm năng lớn đối với hàng may Việt Nam.
Ngoài những thị trường truyền thống như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, và các nước
SNG. Đây cũng là những thị trường có sức tiêu thụ lớn với quy mơ dân số đơng, có


truyền thống văn hố lâu đời đặc biệt là có nền kinh tế phát triển. Trong tương lai nếu
ngành may Việt Nam biết tận dụng cơ hội thì đây chắc chắn là thị trường tiềm năng đối
với ngành.
Thứ ba: Một số Công ty đã thành công trong phát triển các sản phẩm đặc biệt tại
thị trường ngách trên cơ sở xuất khẩu theo hình thức FOB.
Về lâu dài, phương thức xuất khẩu trực tiếp (FOB) sẽ phương thức xuất khẩu chủ
yếu của ngành may Việt Nam. Điều quan trọng là ngay từ bây giê phải chuẩn bị những
điều kiện cần thiết để thực hiện xuất khẩu trực tiếp một cách có hiệu quả. Các doanh
nghiệp Việt Nam cần xác định bước đi thích hợp trong việc chuyển từ hình thức xuất
khẩu CMT sang hình thức FOB. Hiện nay, một số Cơng ty đã có những thành cơng trong
phát triển các sản phẩm đặc biệt tại thị trường này trên cơ sở FOB. Đây là, dấu hiệu đáng

mừng và cũng là tiền đề, là cơ sở cho ngành may Việt Nam chuyển từ hình thức xuất
khẩu CMT sang FOB.
Thứ tư: Sự mở rộng của liên minh Châu âu EU ( 15 + 10).
Ngày 1/5/2004 đã có thêm 10 chính thức gia nhập liên minh Châu âu EU. Nâng
tổng số lên 25 nước thành viên. Đây không những là một thị trường thống nhất, mà còn là
thị trường lớn nhất thế giới. Với việc gia nhập này sẽ là cơ hội cho ngành may mở rộng
thị trường xuất khẩu. Khi tham gia EU thì thuế nhập khẩu các nước này sẽ giảm xuống
theo những điều lệ của liên minh. Như vậy, việc xuất khẩu sang các nước này so với
trước kia giảm đáng kể.
Sự kiện EU mở rộng ngoài việc Việt Nam được hưởng lợi từ một thị trường thống
nhất và rộng lớn với mức thuế nhập khẩu thấp, thì cái lợi lớn hơn là theo các chuyên gia
kinh tế chính là Việt Nam đã có quan hệ truyền thống tốt đẹp với các nước Đông âu trước
đây. Nếu biết khai thác tiềm năng này thì chắc chắn ngành may Việt Nam ngày càng
chiếm lĩnh thị trường EU.
Thứ năm: Độ co giãn của chi tiêu đối với thu nhập lớn cho thấy nhu cầu tiêu dùng
ở thị trường EU là cao.
Tất cả các nước thuộc liên minh EU đều có nền kinh tế phát triển thu nhập bình
quân của người dân cao. Do vậy, nhu cầu tiêu dùng hay mức chi tiêu của họ cũng cao.
Với mức thu nhập bình quân ngày càng tăng sẽ kéo theo mức chi tiêu tăng. Đây là một


dấu hiệu tốt hay một cơ hội đối với sản phẩm may Việt Nam đặc biệt là sự kiện EU mở
rộng thêm 10 nước vào ngày 1/5/2004.
Thứ sáu: Tỷ giá hối đoái thực tế của VND trên một số thị trường đang yếu đi tăng
khả năng xuất khẩu vào các thị trường đó.
Thời gian gần đây, tỷ giá hối đối của VND so với một số ngoại tệ đang có xu
hướng giảm đặc biệt là với Đôla Mỹ và Euro. Theo số liệu ngày 30/1/2004:
1 Euro = 19,381 VND; 1 USD = 15,675 VND. Việc có một tỷ giá hối đoái thấp
làm cho giá cả thực tế của một hàng hoá trong nước thấp hơn tương đối so với thực tế của
cùng một hàng hố đó tại quốc gia khác. Do đó, sẽ làm tăng khả năng xuất khẩu của hàng

hoá Việt Nam mà ở đây là hàng may.
Tận dụng tác động của tỷ giá hối đoái trong lịch sử phải kể đến Trung Quốc. Việc
để tỷ lệ thấp nhiều so với mức bình thường của Trung Quốc trong một thời gian dài đã
góp phần làm cho các mặt hàng của Trung Quốc tràn ngập thị trường thế giới. Tuy nhiên,
để tỷ giá hối đoái thấp trong thời gian dài có những ảnh hưởng tới sự ổn định của nền
kinh tế.
Đây là bài học mà ngành may Việt Nam cần phải tìm hiểu để tận dụng lợi thế này.
Thứ bảy: Trong tương lai Việt Nam sẽ gia nhập WTO
Hiệp định dệt may (ATC) của tổ chức WTO được thảo luận ở vịng đàm phán
Urugoay và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1995 và thực hiện xong vào ngày 31/12/2004. Nội
dung chính của ATC là các nước thành viên WTO thông qua 4 giai đoạn giảm hạn ngạch
và tiến tới xố bỏ hồn tồn vào đầu năm 2005.
Điều quan tâm lớn nhất của ngành may cũng như các ngành khác là liệu đến năm
2005 Việt Nam đã là thành viên của WTO hay chưa nếu vẫn đứng ngoài tổ chức này,
hàng may Việt Nam sẽ được mất hẳn sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bởi lúc đó
các nước sẽ được xuất khẩu tự do còn Việt Nam vẫn đang bị áp hạn ngạch. Tuy nhiên,
sớm muộn gì Việt Nam cịng gia nhập WTO, cho nên đó là một cơ hội đối với ngành may
Việt Nam trong tương lai.
1.2.4.Theats – Thách thức.
Ngành may Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển nhưng thách thức không phải là
Ýt. Chúng tôi, có thể đưa ra một số thách thức lớn như sau:


Thứ nhất: Tính khốc liệt trong cạnh tranh ở tất các thị trường đang tăng ngành may
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang phải đối mặt với sự cạnh tranh rất mạnh mẽ từ
các nước trong khu vực và trên thế giới như: Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Ên Độ,
Bănglades, … Với những lợi thế về giá cả cũng như là công nghệ, khả năng chiếm lĩnh
thị trường của các đối thủ cạnh tranh này thì ngành may Việt Nam đang đứng trước thách
thức lớn, đặc biệt là khi Trung Quốc gia nhập WTO 11/2001.
Theo đánh giá của các chuyên gia thì chỉ sau một năm nữa ngành may sẽ phải cạnh

tranh quyết liệt với các loại hàng hoá trong khu vực và Trung Quốc, trong khi tiềm lực
hiện nay còn rất yếu kém. Các doanh nghiệp may chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ
nên khả năng đầu tư trang thiết bị cũng như khả năng maketing chiếm lĩnh thị trường còn
yếu dẫn đến chưa đáp ứng được u cầu đặt ra của tình hình mới.
Ngồi ra, trong những năm tới FTA sẽ giảm các hàng rào thương mại ở Châu á và
khuyến khích cạnh tranh khu vực. Khi đó, ngành may Việt Nam khơng chỉ đứng trước sự
cạnh tranh khốc liệt ở thị trường quốc tế mà cả thị trường trong nước.
Đứng trước tình hình đó địi hỏi Chính phủ phải kết hợp với ngành dệt may có
những biện pháp đúng đắn để khắc phục.
Thứ hai: Vấn đề nhân công.
Hiện tại, giá nhân công của Việt Nam thấp hơn một số nước trên thế giới, nhưng
lại cao hơn một số nước khác như: Indonêsia, Bănglades, … hơn thế nữa giá nhân công
sẽ tăng khi Việt Nam gia nhập WTO và Chính phủ tăng lương. Như vậy, có thể trong
tương lai ngành may Việt Nam đứng trước nguy cơ mất lợi thế so sánh về giá nhân công.
Thứ ba: Những rào cản trong thương mại may quốc tế.
Rào cản chủ yếu đối với ngành may Việt Nam chủ yếu từ những chính sách thuế
quan, các đạo luật, hạn ngạch, …
Hiện nay, mặc dù đang là thời điểm đầu năm, nhưng do xuất khẩu sang hai thị
trường chủ yếu là Mỹ và EU đang bị hạn chế về hạn ngạch nên dự báo xuất khẩu hàng
dệt may trong thời gian tới sẽ rất khó khăn. Đang xuất hiện nguy cơ thiếu việc làm ở
doanh nghiệp có quy mơ nhỏ. Ngoài ra, việc Mỹ phạt hạn ngạch hoặc Mỹ đơn phương
ngừng nhập khẩu một số mặt hàng của Việt Nam, rất có thể xảy ra nếu như hải quan Mỹ
phát hiện có gian lận trong nguồn gốc xuất xứ của hàng nhập khẩu từ Việt Nam.


Hiện nay, Việt Nam và EU đang tích cực đàm phán để EU tăng thêm hạn ngạch
năm 2004. Tuy nhiên, để tránh phụ thuộc quá nhiều vào hạn ngạch của thị trường này,
đặc biệt là nếu như trường hợp vào năm 2005 Việt Nam chưa là thành viên chính thức
của WTO.
Các doanh nghiệp cần chủ động chuyển sang những mặt hàng không bị áp đặt hạn

ngạch. Với việc kinh tế thế giới đang phục hồi mạnh mẽ trở lại hàng may xuất khẩu của
Việt Nam nhất là sang các thị trường phi hạn ngạch như: Nhật Bản, Hồng Kông, Đài
Loan, Hàn Quốc … sẽ có những bước tiến mới.
Như vậy, bằng việc sử dụng ma trận S.W.O.T chóng ta đã phân tích một khái quát
năng lực cạnh tranh của hàng may Việt Nam trong quá khứ. Hiện tại và xu hướng vận
động trong tương lai với những nguy cơ và thách thức. Đây là cơ sở, là điều kiện quan
trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành may Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải
nhấn mạnh rằng một số điểm mạnh của ngành dệt may cũng như những cơ hội mà chúng
ta có thể tận dụng được. Hiện nay, chỉ mang tính tạm thời, trong tương lai dài có thể
khơng cịn hoặc biến thành những nguy cơ (nhưng cũng không loại trừ trường hợp những
điểm yếu và nguy cơ sẽ được khắc phục và trở thành điểm mạnh và cơ hội).
Phần II:
thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành may Việt Nam trên thị trường EU.
Ngành may có vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Việt Nam hiện nay. Đầy là
ngành cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội. Giải quyết việc làm cho một lượng lớn
lao động, đồng thời cũng mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu. Cơng nghiệp may
hiện có tiềm lực phát triển khá mạnh và được coi là một trong những trọng điểm phát
triển công nghiệp của Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước.
Ngành dệt may với giá trị xuất khẩu lớn thứ hai sau xuất khẩu dầu thô; năm 2000
kim ngạch xuất khẩu đạt 1,892 tỷ USD; năm 2001 đạt 2,15 tỷ; năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD
và 10 tháng đầu năm 2003 đạt 3,130 tỷ USD ( vượt qua giá trị xuất khẩu của dầu thô:
3,102 tỷ USD ). Và ước tính đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt – may
Việt Nam vào khoảng 5 tỷ USD. Nó đã tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động công
nghiệp.
Song kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của ngành dệt may trong những năm gần
đây chủ yếu dùa vào phát triển công nghiệp may mặc. Công nghiệp có khả năng cạnh


tranh xuất khẩu cao nhất trong toàn ngành và trong 3 năm trở lại đây, ngành may có bước
phát triển vượt bậc. Kim ngạch xuất khẩu hàng may luôn giữ vị trí áp đảo trong cơ cấu

hàng xuất khẩu ngành, chiếm từ 60 – 70 % kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Trong kim
ngạch xuất khẩu hàng may, phần thực hiện theo phương thức gia công (CMT) chiếm
khoảng 70%, phần xuất khẩu trực tiếp (FOB) chỉ chiếm 30%. Vì vậy, có thể nói đây là
một điểm bất cập của ngành may Việt Nam, bởi theo hình thức gia cơng xuất khẩu
(CMT) thì giá trị gia tăng thêm trong sản phẩm là nhỏ bé, cịn theo hình thức FOB giá trị
gia tăng lớn hơn. Mặt khác, theo hình thức CMT, ngành may Việt Nam có thể bị giảm uy
tín về sản phẩm trên những thị trường mục tiêu.
Thực trạng như vậy, địi hỏi ngành may Việt Nam phải có những biện pháp cụ thể
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành may Việt Nam. Xong, trước hết để có
những gợi ý cụ thể (phần sau), ở phần này tôi xin nêu tổng quan về năng lực cạnh tranh
của ngành may Việt Nam thực hiện nhằm tiếp cận thị trường EU. Bên cạnh đó, phần này
cịn có thêm những đánh giá chung về thực trạng sản phẩm may Việt Nam trên các thị
trường lớn, sự so sánh về năng lực cạnh tranh của ngành may Việt Nam với các đối thủ
cạnh tranh trong khu vực và các nước đang phát triển, đặc biệt là Trung Quốc.
2.1. Các quyết định về sản phẩm
Sản phẩm là tồn bộ những hàng hố và dịch vụ được sản xuất và cung ứng một số
nhu cầu của một số khách hàng nhất định. Nó bao gồm cả yếu tố vật chất hữu hình và vơ
hình. Vì vậy, sản phẩm khi được người tiêu dùng mua và sử dụng, cũng có nghĩa là nó đã
thoả mãn ở một mức độ nhất định, những nhu cầu và mong muốn của họ, đem lại những
lợi Ých nhất định mà họ mong muốn. Vì vậy, khơng thể có những sản phẩm tách rời khỏi
nhu cầu mong muốn.
Một sản phẩm khi được sản xuất và tiêu thụ bao giê cũng gắn liền với những thị
trường nhất định đã được lùa chọn, những thị trường này có những lợi Ých nhất định mà
họ mong muốn. Vì vậy, khơng thể có những sản phẩm tách rời khỏi nhu cầu và mong
muốn.
Một sản phẩm khi được sản xuất và tiêu thụ bao giê cũng gắn liền với những thị
trường nhất định đã được lùa chọn, những thị trường này là tập hợp những khách hàng
mà doanh nghiệp cần phục vụ. Vì vậy, khi những thị trường này có những thay đổi thì nó
cũng địi hỏi xem xét lại sản phẩm, chính sách sản phẩm.



Trong các quyết định về sản phẩm nhằm tiếp cận thị trường EU của ngành may
Việt Nam ta cần chú ý các mặt sau:
2.1.1.Các quyết định về nhãn hiệu
Nhãn hiệu (hay thương hiệu) hàng hoá là một nhân tố quan trọng trong công tác
xâm nhập thị trường mục tiêu và đặc biệt là thị trường khó tính EU hiện nay. Việc xác
định tầm quan trọng của thương hiệu hàng hoá trên thị trường xuất khẩu mới được nước
ta quan tâm nhiều trong vài năm gần đây. Vì vậy, nói chung trong hầu hết các hàng xuất
khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới có nhãn hiệu chưa thực sự có uy tín cao. Đối
với ngành may xuất khẩu của Việt Nam cũng vậy, nói chung đến nay hàng may xuất khẩu
của ngành chưa có nhãn mác thương mại riêng. Đây là, một trong những lý do làm giảm
khả năng cạnh tranh của sản phẩm may trên thị trường xuất khẩu.
Thị trường EU là thị trường khó tính và cũng là thị trường bảo vệ người tiêu dùng.
Người Châu âu có thãi quen tiêu dùng mặt hàng có chất lượng cao, có thương hiệu nổi
tiếng và giá cả họ chấp nhận dễ dàng. Vì vậy, việc tạo dựng thương hiệu cho hàng may
Việt Nam trên thị trường này là cấp thiết và là yếu tố quan trọng nhằm tiếp cận dễ dàng
thị trường này hơn.
Hiện nay, trên thị trường EU thương hiệu hay uy tín của hàng may Việt Nam đang
bị che lấp đi bởi các nhãn hiệu của hàng may đến từ Trung Quốc, Thái Lan, Ên Đé, và
một số nước khác. Hàng của họ lợi thế hơn do nhiều đặc tính như mẫu mã, mầu sắc, mốt,
… nên được người Châu âu ưa chuộng. Đây là, thách thức lớn đối với sản phẩm may của
Việt Nam trong việc tạo dựng và quảng bá thương hiệu.
2.1.2.Thiết kế và mác sản phẩm mới.
Thị trường EU là thị trường bao gồm nhiều dân téc khác nhau, mỗi dân téc lại có
những sở thích khác nhau với sản phẩm tiêu thụ, những sở thích của họ lại ln thay đổi.
Bởi vậy, một sản phẩm muốn đứng vững trên thị trường này đòi hỏi mẫu mã và chủng
loại của nó có sự cải tiến và đổi mới hợp với những thay đổi trên. Với ngành may Việt
Nam, như đã nói trên, chủng loại và mẫu mã hàng hố kém phong phó, thay đổi chậm so
với sự thay đổi thị hiếu của thị trường EU. Mặt khác hiện nay, nước ta xuất khẩu hàng
may theo hình thức gia cơng (CMT), mẫu mã do người mua hàng chuẩn bị trước, nên

mẫu mã hàng hoá đối với doanh nghiệp Việt Nam trong nghành may mang tính thụ động
và kém sáng tạo. Tuy nhiên, ở nước ta trong ngành may cũng có một số sản phẩm mới ra


đời và đã xuất hiện một số sản phẩm có chất lượng cao có tiêu chuẩn quốc tế như: áo sơ
mi cao cấp, áo jacket, quần jeans… Những sản phẩm này đã khẳng định được chỗ đứng
của mình trên thị trường khó tính như: Pari, London, Berlin, Amstecdam…
2.1.3. Các quyết định về chủng loại và danh mục hàng hoá.
Trong thời gian, ngành may Việt Nam đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ,
sản phẩm của mình có nhiều chủng loại khác nhau từ sơ mi nam nữ, áo jacket, áo khoác
nam nữ quần jeans, bộ quần áo nam nữ…
Bảng 2.1. Một số chủng loại hàng may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ năm
2002.
TT
Tên hàng
1 Hàng may cho trẻ sơ sinh

TT
Tên hàng
12 Bộ quần áo

2

Quần nam nữ trẻ em

13 áo jacket

3

áo nịt nam nữ trẻ em


14 Váy ngắn, váy dài

4

áo khoác nam nữ trẻ em

15 Đồ ngủ

5

áo veston nam bé trai

16 Đồ lót

6

Bé veston nữ bé gái

17 áo gối

7

Sơ mi nam nữ cho trẻ em

18 Chăn

8

Sơ mi nam nữ cho người lớn


19 Tói sách

9

áo veston nam

20 Hàng may chất liệu len

10

Bộ quần áo

21 Hàng may lụa và sợi thực vật

11

áo blu nam nữ cho người lớn
22 Hàng may bông và không bông
Nguồn: Tài liệu hội thảo: “để đạt được mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may 2003 –

2005 với hiệu quả cao” Hà Nội 02/2003.
Mặc dù vậy, với điều kiện kỹ thuật và công nghệ hạn chế nên phần nhiều các sản
phẩm của ngành thuộc nhóm sản phẩm trung bình, chất lượng cịn mức khiêm tốn. Các
doanh nghiệp may chưa đáp ứng được các yêu cầu về mốt, mẫu mã đường nét, chất liệu,
màu sắc… của thị trường EU.
2.2. Các quyết định về giá cả sản phẩm.
Giá cả là mối tương quan trao đổi trên thị trường. Nó là biểu tượng của giá trị sản
phẩm trong hoạt động trao đổi, do đó ở đâu có hoạt động trao đổi ở đó có giá cả.
Việc tiếp cận vào thị trường mục tiêu mỗi một mặt hàng đòi hỏi phải có những

chính sách và phương pháp cụ thể. Dù rằng thị trường EU là thị trường có địi hỏi cao về


chất lượng, độ an tồn lớn và giá cả có thể chấp nhận dễ dàng theo thoả thuận nếu sản
phẩm vừa ý họ. Song, với cùng một sản phẩm như nhau, loại nào có giá cả rẻ hơn, vẫn
kích thích và xâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường mục tiêu. Vì vậy, chiến lược giả nhằm
tiếp cận nhanh chóng thị trường mục tiêu vẫn là một trong những nhân tố quan trọng mà
ngành may Việt Nam thực hiện, trong đó có thị trường EU.
Để có những quyết định đúng đắn về giá cả đòi hỏi những người làm giá phải hiểu
biết sâu sắc về các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến cấu thành và động thái của giá cả
baogồm các nhân tố bên trong và bên ngoài.
Việt Nam là nước có nguồn lao động dồi dào, cần cù, sáng tạo và đặc biệt là giá lao
động thấp các nước trong khu vực đã tạo ra lợi thế so sánh của sản phẩm may mặc Việt
Nam (bảng2.2). Số liệu bảng dưới đây cho thấy tiên lượng lao động trong ngành may
Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với các nước khác trong đó có các nước trong khu vực
như: Malaysia, Thái lan, Singapo, Philipin, Indonesia…
Bảng 2.2. Tiền công lao động trong ngành dệt may của một số nước.
(đơn vị tính: USD/giờ)
TT
1
2
3
4
5
6
7

Nước

Tiền cơng

TT
Nhật
16.31
8
Pháp
12.63
9
Mỹ
10.33
10
Anh
10.16
11
Đài Loan
5
12
Hàn Quốc
3.6
13
Hồng Kơng
3.16
14
Nguồn: Tổng Cơng ty dệt may Việt Nam.

Nước
Malaysia
Thái Lan
Philipin
Ên Độ
Trung Quốc

Indonexia
Việt Nam

Tiền công
0.95
0.84
0.67
0.54
0.34
0.23
0.18

Việc xác định mức giá bán và các chiến lược giá sản phẩm may của ngành may
Việt Nam nhằm tiếp cận thị trường EU là một nhân tố quan trọng. Việc xác định giá bán
sản phẩm cần phải dùa vào nhiều yếu tố, trong đó, có các nhân tố bên ngồi và yếu tố nội
tại của doanh nghiệp.
Đối với ngành may Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng giá bán của sản phẩm may
Việt Nam vẫn cao hơn giá bán của các sản phẩm cùng loại từ các nước trong khu vực từ
5-10%, cao hơn Trung Quốc trên 20% (số liệu năm 2001). Như vậy, có thể phân tích
ngun nhân như sau:
+ Giá bán = giá thành + lãi
+ Giá thành đơn vị sản phẩm + Tổng chi phí/ sản lượng.


+ Tổng chi phí = Tổng chi phí cố định + tổng chi phí biến đổi.
+ Chi phí cho các đầu vào biến đổi. Nó thay đổi cùng với sản lượng sản xuất, chi
phí về nguyên vật liệu, tiền lương cho cơng nhân sản xuất.
Như vậy, như đã nói ở trên tuy giá công nhân của Việt Nam rẻ hơn các nước trong
khu vực song về nguyên vật liệu, đây là vấn đề tác động lớn đến giá sản phẩm may của
Việt Nam. Phần lớn lượng nguyên liệu và đôi khi cả phụ liệu đầu vào của các doanh

nghiệp may Việt Nam là nhập khẩu theo dạng tạm nhập tái xuất khẩu do khách hàng đặt
gia công cung cấp. Cũng có nhiều khách hàng mua vải và phụ liệu của các doanh nghiệp
Việt Nam để đưa đến các doanh nghiệp may gia công. Nhưng giá cả của các nguyên vật
liệu trong nước thường đắt hơn giá nhập khẩu, mẫu mã lại nghèo nàn, chất lượng kém,
không đồng đều… thủ tục mua bán lại phức tạp… Chính vì vậy, mà các doanh nghiệp
may thường nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, đẩy giá sản xuất và giá bán lên rất cao.
Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu và quản lý: giá thành vải sản xuất trong nước còn do
năng suất lao động thấp (năng suất ngành kéo sợi thấp hơn 2 – 3 lần so với năng suất lao
động bình quân ở các nước khác, ở ngành dệt kim thấp hơn 4 – 5 lần). Chính vì vậy, giá
thành vải Việt Nam cao hơn 30% so với giá thành vải của Trung Quốc, Pakistan, Ên Độ.
Việc năng suất lao động thấp do có sự hẫng hụt rất nghiêm trọng đội ngò cán bộ khoa học
kỹ thuật, đặc biệt là cán bộ công nghệ ở hầu hết các cơ sở sản xuất. Các cán bộ quản lý
thì chưa có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong cơ chế thị trường. Và vấn đề về cơng nghệ
cịn lạc hậu và kém phát triển… Chính các điều này đã trực tiếp làm tăng chi phí của sản
phẩm may Việt Nam trên thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, việc nhiều doanh nghiệp thiếu vốn kinh doanh phải vay vốn ngắn hạn để
đầu tư phát triển và trả lãi suất vay vốn cao cũng làm giảm khả năng cạnh tranh về giá
của sản phẩm may.
Nói tóm lại, giá bán sản phẩm vẫn chưa phải là lợi thế cạnh tranh của hàng may
Việt Nam. Vì vậy, để tiếp cận thị trường EU lớn hơn nữa, chiến lược giá và quyết định
giá bán sản phẩm cần phải có những thay đổi nhanh chóng và cần có biện pháp cụ thể
nhằm giảm chi phí sản xuất từ đó giảm giá sản phẩm may Việt Nam.
2.3. Các quyết định về phân phối.
Phân phối là một chiến lược quan trọng trong hệ thống marketing hỗn hợp nhằm
tiếp cận thị trường mục tiêu. Hiện nay ngày càng có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến


phân phối như là biến số của marketing tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị
trường. Các doanh nghiệp tổ chức và quản lý hoạt động phân phối thông qua các hệ thống
kênh phân phối.

Kênh phân phối là sự kết hợp giữa cá nhân và các tổ chức đảm bảo qúa trình vận
động hàng hố từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng, cuối cùng nhằm đặt được những
mục tiêu nhất định của chính sách phân phối. Trong kênh phân phối có hai phần tử:
Phần tử kênh là những người sản xuất, người nhập khẩu, người tiêu dùng (phần tử
cuối kênh: người tiêu dùng cuối cùng).
Một số phần tử khác: môi giới, đại lý, bán buôn, bán lẻ, nhà phân phối.
Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, khi các nhân tố về sản phẩm và giá cả
còn nhiều hạn chế, việc thực hiện và ra các quyết định phân phối nhằm tiếp cận thị trường
EU là cấp thiết và là nhân tố rất quan trọng, địi hỏi các nhà quản lý, các cơng ty thuộc
ngành may Việt Nam phải có chính sách thích hợp trong việc phân phối, tiêu thụ sản
phẩm may mặc của Việt Nam, để tạo chỗ đứng vững chắc và khơi dựng một thương hiệu
có uy tín trên trị trường EU, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành may Việt Nam. Ta
có thể khái qt về các hình thức phân phối hàng may Việt Nam trên thị trường EU trong
vài năm gần đây như sau:
Hình thức xuất khẩu gia cơng CMT. Đây là hình thức phân phối chủ yếu của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong kim ngạch xuất khẩu tồn ngành, phần thực hiện
theo phương thức gia cơng (CMT) chiếm 70%. Theo hình thức này, phần lớn hoạt động
xuất khẩu hàng may mặc được thực hiện dưới dạng sản xuất, lưu thông theo hợp đồng gia
công uỷ thác. Do các doanh nghiệp Việt Nam chỉ thực hiện 3 công đoạn là cắt (cut), may
(make), hồn thiện (trim), nên hình thức sản xuất lưu thông này được gọi là gia cơng
CMT. Trong sản xuất lưu thơng, tồn bộ ngun phụ liệu đều do khách hàng nước ngoài
cung cấp cho các doanh nghiệp may Việt Nam. Theo hình thức này, ta có thể thấy giá trị
gia tăng của hàng may xuất khẩu rất nhỏ, từ đó lợi nhuận thu được cũng nhỏ, là yếu tố
kém thuận lợi cho Việt Nam khi thực hiện phương thức phân phối theo kiểu này. Hơn
nữa, hình thức gia cơng xuất khẩu (CMT) có thể làm mất uy tín của hàng hố Việt Nam
trên thị trường EU, thương hiệu của hàng may Việt Nam khơng có sức sống, từ đó khả
năng cạnh tranh của hàng may Việt Nam trên thị trường này sẽ giảm. Như vậy, hình thức
phân phối sản phẩm (CMT) trên thị trường EU đã tỏ ra nhiều yếu điểm (bên cạnh một số



ưu điểm: không phải chịu rủi ro trong lưu thông. Doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận được
với trình độ quản lý tốt, không phải lo về mặt nguyên vật liệu may, mẫu mã, bản thiết
kế… đang là yếu điểm của ngành may Việt Nam), đòi hỏi ngành may Việt Nam và các cơ
quan liên quan có những chính sách cụ thể nhằm tiếp cận thị trường EU thông qua nhân
tố về phân phối một cách tốt hơn.
Phân phối theo hình thức xuất khẩu trực tiếp (FOB) ở Việt Nam, hình thức phân
phối này chiếm khoảng 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu tồn ngành. Theo hình thức
này, các doanh nghiệp Việt Nam tù mua nguyên phụ liệu rồi bán sản phẩm ra nước ngoài,
giá trị gia tăng lớn và đưa lại lợi nhuận cao, song nó lại đối diện với những rủi ro lớn.
Song trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã có những quan điểm và định hướng nhằm
phát triển ngành may xuất khẩu theo hình thức FOB. Chịu rủi ro lớn kiếm lợi nhuận cao,
thúc đẩy quá trình CNH – HĐH đất nước.
Về lâu dài, phương thức xuất khẩu trực tiếp phải trở thành phương thức xuất khẩu
chủ yếu của doanh nghiệp may Việt Nam. Nhưng gia công tốt có thể là bước đi trước tạo
uy tín cho hàng Việt Nam xâm nhập thị trường EU và bước tiếp theo là các sản phẩm
xuất khẩu trực tiếp của Việt Nam xâm nhập mạnh vào thị trường này.
Nói tóm lại, về thực trạng các phương thức phân phối sản phẩm may Việt Nam
trên thị trường EU còn nhiều hạn chế và chưa tạo được thế mạnh trong việc tiếp cận thị
trường này. Các kênh lưu thông này phần lớn cịn thiếu nhiều thơng tin về thị trường mục
tiêu do hệ thống thông tin nước ta kém phát triển, giá cước các dịch vụ viễn thông cao, hệ
thống thương mại điện tử chưa phát triển, cịn tố chức Ýt các cuộc triển lãm, hội trợ. Các
nhà doanh nghiệp phải tự tìm thị trường tiêu thụ do chưa chun mơn hố phân công lao
động. Hệ thống phân phối, lưu thông hàng may Việt Nam chưa là điểm mạnh để tiếp cận
thị trường EU.
2.4. Nỗ lực của Chính phủ và doanh nghiệp trong việc quảng bá hình ảnh trên
thị trường EU.
EU là thị trường đông dân khoảng 380 triệu người, lại bao gồm nhiều dân téc khác
nhau (15 nước thành viên), mỗi dân téc có một phong tục tập quán và lối sống khác nhau.
EU là thị trường có thu nhập lớn với tổng GDP gần 9.000 tỷ đồng USD và có thu nhập
bình quân khoảng 24.000 USD/người. Đây là một thị trường thuộc loại khó tính nhất và

có chế độ bảo vệ người tiêu dùng cao. Thãi quen tiêu dùng những mặt hàng chất lượng


cao, mẫu mã thay đổi hợp thời trang và phải là mặt hàng có uy tín trên thị trường. Do
vậy, với chiến lược giá cả hàng hoá trên thị trường này khơng mang tính quan trọng nhất.
Mà có thể thấy ở đây, chiến lược tiếp cận thị trường bằng bằng hình ảnh của doanh
nghiệp hoặc cơng ty, bằng việc quảng bá, xây dựng thương hiệu nổi tiếng là một nhân tố
quan trọng. Để đẩy mạnh hoạt động khuếch trương và quảng bá một cách hiệu quả, doanh
nghiệp cần nghiên cứu kỹ bản chất của truyền thông Marketing và những phương thức
thực hiện hoạt động truyền thông như thế nào .
Hệ thống truyền thông marketing của doanh nghiệp hoạt động rất phức tạp.
Doanh nghiệp có thể qua các tổ chức chuyên mơn hố để thực hiện các hoạt động truyền
thơng, soạn thảo các nội dung và lùa chọn công cụ, thuê các chuyên gia Marketing thiết
kế các chương trình xúc tiến bán, hoặc triển lãm hội chợ… Để tăng cường hiệu quả của
truyền thông, soạn thảo các nội dung và lùa chọn công cụ, thuê các chuyên gia Marketing
thiết kế các chương trình xúc tiến bán hoặc triển lãm hội chợ… Để tăng cường hiệu quả
của truyền thông không những phải gây dư luận xã hội, tạo dựng hình ảnh của doanh
nghiệp, huấn luyện nhân viên bán hàng phải biết cư xử và niềm nở trong giao tiếp mà còn
phải duy trì tốt mối liên hệ với những người trung gian, người tiêu dùng và cơng chúng
có thể tiếp xúc với doanh nghiệp. Những người trung gian của Cơng ty cịng duy trì mối
liên hệ với người tiêu dùng và cơng chúng của doanh nghiệp. Những người tiêu dùng
thường truyền miệng dưới dạng những tin đồn. Đồng thời qua các nhóm người tiêu dùng
đó mà hình ảnh các thơng tin ngược chiều trở lại doanh nghiệp.
ở Việt Nam vấn đề về thương hiệu, một nhân tố quyết định uy tín và danh tiếng
của Công ty mới chỉ được quan tâm trong vài năm gần đây. Mặt khác, hàng may của Việt
Nam lại phân phối chủ yếu theo hình thức gia cơng xuất khẩu (CMT), nên hàng Việt
Nam chưa có một thương hiệu chung, gây được tiếng vang trên thị trường EU. Một số
hình thức phân phối sản phẩm chủ yếu dùa vào các nhãn hiệu của hàng dệt may nước
ngoài như: các hãng của Đài Loan, Hồng Kông. Việc các nước này mau hàng hoá của
Việt Nam về nhãn hiệu ra sau đó dán nhãn của họ vào xuất khẩu đi các thị trường EU

cùng làm giá tăng lên gấp rưỡi, có mặt hàng tăng lên từ 2 đến 3 lần. yếu tố này là do các
mặt hàng của họ đã có chỗ đứng vững trên các thị trường xuất khẩu, đã tạo dựng những
thương hiệu nổi tiếng và uy tín cao. Điều này đã là cản trở lớn cho ngành may Việt Nam
trong việc nâng cao lợi nhuận từ việc sản xuất và phân phối hàng hố trong q trình tiếp


cận thị trường EU, xúc tiến bán và quảng bá hình ảnh sản phẩm, danh tiếng doanh
nghiệp, thương hiệu…
Nói tóm lại, ngành may Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, song trên
thực tế những chuyển biến này cũng chưa đủ lớn để xâm nhập vào thị trường EU một
cách mạnh mẽ hơn (sự xâm nhập của các đối thủ cạnh tranh: Trung Quốc, Thái Lan, Ên
Độ.. vào EU). Đòi hỏi trong tương lai, ngành may Việt Nam phải có sự tích cực hơn nữa,
chính phủ phải đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm tạo lợi thế cho hàng may Việt Nam trên
thị trường EU. Nhanh chóng gia nhập WTO, thương lượng với chính phủ các nước EU
trong phân bổ hạn ngạch…, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng mây của Việt Nam có thể
xâm nhập mạnh mẽ hơn vào thị trường này.
2.5. Đánh giá sơ bộ đối thủ cạnh tranh trên thị trường EU (Trung Quốc).
Có thể nói khi xâm nhập vào thị trường may thế giới như EU hiện nay bằng con
đường xuất khẩu thì đối thủ cạnh tranh khổng lồ và đáng gờm nhất đối với doanh nghiệp
may Việt Nam là Trung Quốc.
Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, lại nằm trên con đường tơ lụa nên
ngành dệt – may Trung Quốc phát triển hàng ngàn năm nay, vừa đảm bảo nhu cầu trong
nước, vừa đảm bảo giao thương quốc tế. Trung Quốc giữa vị trí hàng đầu trong ngành dệt
– may thế giới về sản lượng bông, vải bông và sản phẩm may mặc đứng thứ hai về xơ hố
học. Cơng nghiệp dệt – may Trung Quốc ln giữ vị trí tiên phong trong nền kinh tế quốc
dân, giá trị sản lượng dệt – may chiếm xấp xỉ 20% tổng giá trị sản lượng cơng nghiệp
tồn quốc, và là ngành cơng nghiệp lớn nhất nước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may thế giới, trung bình kim ngạch xuất khẩu hàng may chiếm khoảng 20% kim ngạch
xuất khẩu toàn cầu và thị trường tiêu thụ chủ yếu là Hồng Kông, Mỹ, Nhật Bản, EU và
Australia. Năm 2002, những thị trường này chiếm trên 80% tổng giá trị xuất khẩu của

Trung Quốc. Theo dự đoán của các chuyên gia thế giới sau khi qto ra nhập WTO, đến
năm 2010 kim ngạch xuất khẩu của hàng may Trung Quốc chiếm 47% tổng kim ngạch
xuất khẩu thế giới.


Bảng 2.3. Xuất khẩu hàng dệt may của các nước năm 1999.
Đơn vị: Tỷ USD.
Tên nước
Trung Quốc
Đài Loan
Indonesia
Pakistan
Thái Lan
Bănglades
Philipin
Srilanka
Việt Nam
Nguồn: Cơng ty Vinatex

Giá trị xuất khẩu
43
14.8
8
5
4.6
3.8
2.9
2.3
1.68


Có thể khẳng định rằng: Ngành dệt – may Trung Quốc có khả năng cạnh tranh lớn
nhất thế giới. Đạt được thành công này Trung Quốc đã có những lợi thế cả về nội lực của
toàn ngành lẫn lợi thế từ thị trường xuất khẩu. Ta thấy Trung Quốc có nhiều lợi thế từ
nguyên liệu đầu vào của ngành may mặc là dệt: nguyên liệu bơng, xơ hố chất, thuốc
nhuộm đến máy móc thiết bị sợi, dệt hoàn tất đều do các ngành sản xuất trong nước cung
cấp cùng với giá nhân công thấp và các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ Trung
Quốc từ vị trí thứ 32 lên hạng thứ 9 trong bảng xếp hạng các cường quốc thương mại.
Đối với môi trường xuất khẩu, các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản và các thị trường khác
trong thành viên WTO phải giảm dần các hạn ngạch nhập khẩu, giảm thuế nhập khẩu đối
với hàng may của Trung Quốc mà sau khi Trung Quốc gia nhập WTO vào tháng
10/2001. Và theo chế độ hạn ngạch của EU, đến năm 2005, EU sẽ cắt giảm hoàn toàn chế
độ hạn ngạch đối với các nước thành viên WTO. Đó là thuận lợi, lợi thế to lớn của ngành
may Trung Quốc trên thị trường chung EU và các nước thành viên WTO. Điều đó đặt ra
cho Việt Nam một thách thức to lớn về khả năng cạnh tranh của hàng may Việt Nam trên
thị trường này, và nếu Việt Nam khơng có những biện pháp và chính sách đối phó kịp
thời sẽ ảnh hưởng dẫn đến ngành may Việt Nam khó có thể đứng vững trên các thị
trường này.


×