Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIỂU LUẬN QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.76 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

SVTH: NGUYỄN THỊ THÚY PHƯƠNG
SỐ THỨ TỰ: 78
NHÓM: 5
LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 - K20
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 2
TP.HCM 05-2011
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG 1: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 6
1. Giới thiệu: 6
1. Giới thiệu: 6
2. Triết học Nho Gia: 6
2. Triết học Nho Gia: 6
3. Triết học Đạo gia: 7
3. Triết học Đạo gia: 7
4. Triết học Mặc gia: 7
4. Triết học Mặc gia: 7
5. Triết học Pháp gia: 8
5. Triết học Pháp gia: 8
CHƯƠNG 2: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 12
2.1. Giới thiệu 12
2.2. Quan điểm Đêmocrit: 13
2.3. Quan điểm Platon: 14
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT CÁ NHÂN 17
3.1. Tư tưởng trị quốc của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại 17


3.1.1. Điều kiện ra đời và phát triển của hai nền triết học 17
3.1.1. Điều kiện ra đời và phát triển của hai nền triết học 17
3.1.2. Đặc điểm của hai nền triết học: 18
3.1.2. Đặc điểm của hai nền triết học: 18
3.1.3. Quan niệm đối với bản thể luận hay nguồn gốc thế giới: 19
3.1.3. Quan niệm đối với bản thể luận hay nguồn gốc thế giới: 19
3.1.4. Quan điểm về tư tưởng biện chứng: 20
3.1.4. Quan điểm về tư tưởng biện chứng: 20
3.1.5. Quan điểm về tư tưởng nhận thức: 20
3.1.5. Quan điểm về tư tưởng nhận thức: 20
3.1.6. Quan điểm về con người và xây dựng con người: 21
3.1.6. Quan điểm về con người và xây dựng con người: 21
3.1.7. Quan điểm về đạo đức: 21
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 3
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
3.1.7. Quan điểm về đạo đức: 21
3.1.8. Quan điểm về chính trị - xã hội và xây dựng nhà nước 21
3.1.8. Quan điểm về chính trị - xã hội và xây dựng nhà nước 21
● Quan điểm về chính trị - xã hội của triết học Trung Quốc cổ đại 21
● Quan điểm về chính trị - xã hội của triết học Trung Quốc cổ đại 21
● Quan điểm về chính trị - xã hội của triết học Hy Lạp cổ đại 23
● Quan điểm về chính trị - xã hội của triết học Hy Lạp cổ đại 23
3.2. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại: 24
3.3. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại: 25
KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 4
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là

“vấn đề về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào
đường lối, chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ
khác nhau (cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được
phát triển trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi
tư tưởng triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận
thức luận, đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của
các nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các
tư tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông
qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 5
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 1: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu:
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài,
chiến tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong
các thời kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự
ra đời các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn
liền với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà
triết học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều
đình.

Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến
đời sau.
2. Triết học Nho Gia:
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng
góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.

Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn
lạc, Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền
bá các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.
Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội
có hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng
này gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta
trước hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia
đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ
đức để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và
ngũ thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là
chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi
người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự,
thái bình.
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 6
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là
tình người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng
tình người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở
đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh

đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả
mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc.
Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói
không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thường được mọi
người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã được những người
sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
3. Triết học Đạo gia:
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại,
ra đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và
sau đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong
bối cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ
Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được
thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm
biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can
thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm
một cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông,
chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm
việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
4. Triết học Mặc gia:
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 7
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập,
phát triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng

của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với
Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính
trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho
được cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như
Khổng hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an
bang tế thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng
tiến. Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh
giá tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu
không có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái
'dụng' của sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc
không việc gì quý bằng nghĩa' (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa,
lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo
minh ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách
mù quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình
chăm lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt
đối không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc
là sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong
quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết
trọng dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa
ra quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương
thời và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc
qua cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan
trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh
đạo quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.

5. Triết học Pháp gia:
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 8
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với
nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước
cổ đại có nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân
loại. Về tư tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều
nhất: Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và Khổng Tử
và Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ
những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của phái pháp
gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản
Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi
Tử Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt
trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -
Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố
Thế, Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách
rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng muốn
có luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà
vua phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương: 1-
Chủ quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua; 2-
Vua phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách mạng,
không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất trung. 3-
Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện hiệu
nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng phạt
chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.

"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là
chế độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật
lệ, những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư
tưởng Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh
công bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành,
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 9
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thưởng người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo
Pháp". Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia,
là vua tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính
như: 1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ
thi hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với
Hàn Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải
trái, tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều
lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong
việc tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp
luật được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi,
“Thuật” có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng
quan lại; Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ
ra. Nói ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại
những kẻ bề tôi mình không cảm hóa được…. Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật
được Hàn Phi rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và dùng người.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi
hỏi tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về
"Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau
trong một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử
đó. Tư tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật
làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông

dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ
trương dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần
Thủy Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống
nhất được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 10
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 11
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
2.1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài
và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng
phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá.
Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay
bổng, để thoả sức sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn
minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết
quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác
dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học
tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con
người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi
thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời
sống thường ngày. Thần thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng
bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã
hội, về lẽ sống, về chân lý, về con người…

Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất
yếu-đó là kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức
sản xuất thứ hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ
bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 12
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
người, mặc dầu chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô
cùng phong phú, muôn hình muôn vẻ…
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người,
khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù
vậy, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở
khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà
biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy
nhất thường xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư
tưởng biện chứng của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của
phép biện chứng.
2.2. Quan điểm Đêmocrit:
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy
Lạp cổ đại, sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ
Tơraxia, ven bờ phía Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là
học trò của Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát

triển nó thành một học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái
niệm nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không
tồn tại”. Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định
được, cái đa dạng, cái có ngoại hình…
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng
là cái không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì
các vật thể nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống rỗng,
cái phần vật chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống
rỗng nào được gọi là nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận
được bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa
dạng, tự thân không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể.
Đêmôcrít cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và
khoảng không. Sự xuất hiện, tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 13
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
hợp của các nguyên tử hay phân tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo
Đêmôcrít là một khoảng không vô tận trong đó chứa đựng vô số thế giới khác
nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt
động tâm lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh.
Theo ông, linh hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc
biệt có cấu hình, linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh
ra nhiệt làm cơ thể hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng
với sự tồn tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận
động và tồn tại của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động
nhận thức của con người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác
và nhận thức lý tính. Sự khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính

chất, trình độ giữa chúng, tuy nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau
cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng,
cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự
hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con người.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp
dân chủ chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là
hợp đạo lý, nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan
điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói
mà ở việc làm. Mục tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh
phúc, nhưng hạnh phúc không phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn
được tự do. Về vấn đề tôn giáo, Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về
lập trường vô thần.
2.3. Quan điểm Platon:
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý
tộc tại Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử,
một người bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động
mạnh mẽ tới tâm thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét
quần chúng và cả giai cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 14
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
cho nhân loại cả về triết học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi
tiếng và đặc biệt nhất là tác phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một
cuốn bách khoa toàn thư vô cùng giá trị trong lịch sử nhân loại.
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong
mô hình “Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời.
Trong mô hình quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề
của đời sống mà xã hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy
nghĩ. Đó là một quốc gia trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc,
đầy đủ và thoả mãn với những gì mà họ đã tạo ra.

Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp
rõ rệt tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh
đạo tức là những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người
tham gia vào quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người
buôn bán và sản xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia
cộng sản triệt để trong đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất
cả lợi ích là vì xã hội, nhà nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác
hơn là giai cấp quý tộc nhưng những người quý tộc này không được sở hữu bất
cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không
được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ riêng
theo từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ và
xây dựng đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có
chiến tranh, kể cả ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là
những triết gia vì những người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ
không được tham nhũng vơ vét của cải của dân. Những của cải của người dân
làm ra phải được phân chia một cách đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá
nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào
trong đất liền để tránh giao thương buôn bán mà chỉ phát triển về nông, thủ công
nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều
có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 15
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nhau. Trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền
con nối, nếu không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo
“chất liệu cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội
lực bên trong từ đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 16

Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
3.1. Tư tưởng trị quốc của hai nền triết học Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc
cổ đại
3.1.1. Điều kiện ra đời và phát triển của hai nền triết học
Hai nền triết học Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại có những nét
tương đồng:
- Về điều kiện tự nhiên, cả Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại có những
nét tương đồng với nhau về lãnh thổ, đất đai, khí hậu.
- Dựa trên điều kiện tự nhiên thuận lợi đó, hai quốc gia đã đạt được nhiều
bước phát triển trong lĩnh vực kinh tế - xã hội : xã hội bước vào thời kỳ chiếm
hữu nô lệ, xã hội xuất hiện đối kháng giai cấp, nông nghiệp phát triển mạnh, hình
thành các nhà nước – thị thành, bắt đầu xuất hiện sự đối lập giữa thành thị và
nông thôn tạo nên hoạt động mua bán trao đổi sôi động
- Cả Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại đều có một lịch sử lâu đời và trải
qua nhiều thời kỳ
- Tuy xã hội trải qua nhiều giai đoạn đầy biến động nhưng cả Trung Quốc
cổ đại và Hy Lạp cổ đại đều đạt được những thành tựu rực rỡ về văn hoá, khoa
học kỹ thuật, Triết học và trở thành một trong những cái nôi lớn của văn minh
nhân loại
Sự khác biệt về điều kiện ra đời và phát triển của hai nền triết học:
- Thứ nhất, xã hội Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại đều là xã hội chiếm
hữu nô lệ. Nhưng ở Hy Lạp là sự đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nô lệ. Với xã
hội Trung Quốc cổ đại đó là sự đấu tranh giữa giai cấp địa chủ mới với tầng lớp
quý tộc cũ, làm tan rã dần chế độ chiếm hữu nô lệ gia trưởng, bắt đầu hình thành
quan hệ sản xuất phong kiến
- Thứ hai, tư tưởng Triết học Trung Quốc có mầm mống từ thần thoại thời
tam đại (Hạ, Thương, Chu) với các biểu tượng như đế, thượng đế, quỷ thần…
chúng hoà quyện vào thế giới quan thần thoại – tôn giáo chi phối mạnh đời sống
tinh thần của người Trung Quốc. Còn tư tưởng Triết học Hy Lạp cổ đại là sự duy

lý hoá các hình tượng thần thoại thành các khái niệm, quá trình này dựa vào tri
thức khoa học mà Talet, Pitago và sau đó là các nhà khoa học tự nhiên khác xây
dựng nên
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 17
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính
trị Hy Lạp cổ đại và phản ánh lịch sử của đất nước này. Vì vậy, nó trải qua ba
giai đoạn : giai đoạn hình thành, giai đoạn cực thịnh và giai đoạn suy tàn; trong
đó cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng nhất nguyên duy vật và nhất nguyên
duy tâm của giai đoạn cực thịnh đã để lại dấu ấn sâu đậm nhất trong lịch sử triết
học Hy Lạp cổ đại. Về phần mình, tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại bắt đầu
có tính hệ thống được hình thành trong thời Đông Chu và nhanh chóng trở thành
nên tảng của triết học cổ-trung đại Trung Quốc, tạo nên cơ sở cho các hệ thống
thế giới quan và phương pháp luận sau này
3.1.2. Đặc điểm của hai nền triết học:
Triết học Hy Lạp cổ đại và Trung Quốc cổ đại có những đặc điểm khác
nhau:
- Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp
luận của giai cấp chủ nô thống. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật
tự xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình. Giai cấp thống trị đã dùng triết học
như một công cụ hữu hiệu trong việc củng cố và khẳng định vị trí đối với các
tầng lớp khác trong xã hội. Đối với triết học Trung Quốc cổ đại, hầu hết các học
thuyết có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức
của xã hội với nội dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã
hội lý tưởng và con đường trị nước .
- Triết học Hy lạp có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,
trường phái duy vật – duy tâm, vô thần – hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh
chính trị - tư tưởng; trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật
của Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của Platông . Về phía mình, trong các trào lưu,
học thuyết của triết học phương Đông, thường có sự đan xen các yếu tố duy vật

và duy tâm, biện chứng và siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa các chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt, quyết liệt, không thành trận tuyến rạch ròi
như trong triết học phương Tây.
- Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng
hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới
như một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Vì
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 18
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
vậy, các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực
tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học. Triết học Trung
Hoa cổ đại có tính hệ thống được hình thành vào thời Đông Chu, phần lớn các
nhà triết học đồng thời cũng là nhà chính trị và đạo đức
- Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, các trường phái triết học
Trung Hoa cổ đại không chỉ phê phán, xung đột nhau mà còn biết hấp thụ những
tư tưởng của nhau để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận của chính mình và chịu ảnh
hưởng ít nhiều bởi tư tưởng biện chứng trong kinh Dịch. Triết học Hy Lạp các
trường phái mới và cũ xuất hiện đồng thời, không kế thừa lẫn nhau, chỉ xung đột
lẫn nhau.
Những nét tương đồng về đặc điểm của hai nền triết học:
- Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, cả hai nền triết học đã
có sự xuất hiện của phép biện chứng duy vật chất phác
- Thứ hai, tuy nội dung nghiên cứu chủ yếu của triết học Hy Lạp cổ đại là
về giới tự nhiên và thế giới, nhưng triết học Hy Lạp cũng nghiên cứu về con
người. Về phía mình, triết học Trung Quốc cổ đại bên cạnh mối quan tâm về con
người và xã hội, cũng có đề cập tới vũ trụ và giới tự nhiên
3.1.3. Quan niệm đối với bản thể luận hay nguồn gốc thế giới:
Triết học Hy Lạp cổ đại cũng có điểm tưởng đồng với triết học Trung
Quốc cổ đại về vấn đề bản nguyên của thế giới thể hiện ở quan điểm của Mạnh
Tử và của Sôcrát, mọi thứ đều do thượng đế (trời) sinh ra và an bài sẵn. Ngoài ra,
nó còn thể hiện ở tư tưởng của Đạo gia và Âm Dương gia cho rằng bản nguyên

của thế giới được hình thành từ vật chất : “Đạo” và “khí âm và khí dương”; điều
này tương đồng với quan điểm của trường phái Milê(Talet, Anaximen,
Amaxomandrơ), Heraclít, Pitago, Đêmocrít…Tuy nhiên, do còn mang tính trực
quan, ước đoán, chưa có chứng minh nên các luận điểm của triết học cổ đại trung
quốc chưa khuất phục được quan điểm duy tâm, chưa giải phóng con người khỏi
quan điểm duy tâm thần bí. Ngược lại, triết học Hy Lạp cổ đại từ những quan sát
ban đầu đã xây dựng thành một hệ thống triết học duy vật chặt chẽ, có sức thuyết
phục, làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại các trào lưu duy tâm đang thịnh
hành lúc bấy giờ, mà trước hết là trào lưu duy tâm nổi tiếng của Platông. Ngoài
ra, các tư tưởng của các nhà triết học Hy Lạp còn là nguồn cảm hứng cho các nhà
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 19
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
khoa học nghiên cứu sau này như tương tưởng nguyên tử luận của Đêmôcrít, hạt
giống của Anaxago
3.1.4. Quan điểm về tư tưởng biện chứng:
Tư tưởng biện chứng của cả hai nền triết học đều là tư tương biện chứng
khách quan tự phát, đều chưa được xây dựng thành một hệ thống, phản ánh tính
chất biện chứng của tự nhiên xã hội. Có sự tương đồng rõ nét trong tư tưởng biện
chứng của Lão Tử và của Heraclít, cả hai ông đều thể hiện quan điểm của mình
về tính thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Tuy nhiên, tư tưởng biện
chứng của triết học Trung Quốc (thể hiện ở tư tưởng của Lão Tử) còn mang tính
máy móc, đơn giản, vạn vật chỉ vận động tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách buồn
tẻ mà không có sự ra đời của cái mới, nghĩa là không có sự phát triển. Ngược lại,
tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp có sự phát triển cao hơn : thể hiện tư
tưởng biện chứng trong lĩnh vực tư duy ( tư tưởng của Pácmênít và Platông), vạn
vật vận động theo quy luật nhân quả và có sự phát triển, tiến hoá (tư tưởng của
Đềmôcrít).
3.1.5. Quan điểm về tư tưởng nhận thức:
Cả hai nền triết học đều có quan điểm:
- Thứ nhất, cho rằng khả năng nhận thức là sẵn có ở con người (nhận thức

thế giới khách quan, nhận thức cảm tính), tuy nhiên không phải ai cũng có thể
nhận thức được bản chất của vạn vật (nhận thức lý tính, tư duy trừu tượng)
- Thứ hai, đề cao vai trò của nhận thức lý tính, tư duy trừu tượng
- Thứ ba, thấy được mối liên hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính.
- Thứ tư, cho rằng nhận thức không phụ thuộc vào bên ngoài (cảm tính) mà
xuất phát từ bên trong con người, thể hiện quan điểm duy tâm về nhận thức.
Quan điểm khác nhau về tư tưởng nhận thức:
- Triết học Trung Quốc cổ đại nổi bật với tư duy nhận thức trực giác, tức là
có trong sự cảm nhận hay thể nghiệm. Còn triết học Hy Lạp cổ đại nổi bật với
nhận thức theo chủ nghĩa duy giác.
- Trong khi triết học Hy Lạp cổ đại quan tâm tới việc tìm hiểu, làm rõ quá
trình nhận thức (từ nhận thức cảm tính đi tới nhận thức lý tính), nguồn gốc của
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 20
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nhận thức ( từ hiện thực khách quan – duy vật hay từ linh hồn bất tử, thế giới ý
niệm – duy tâm) để từ đó xây dựng phương pháp nhận thức, mở rộng hiểu biết
của con người về các lĩnh vực khoa học, logic học, văn hoá, nghệ thuật…thì triết
học Trung Quốc cổ đại lại thể hiện mối quan tâm về nhận thức trong lĩnh vực con
người, giáo dục, đạo đức, chính trị xã hội.
3.1.6. Quan điểm về con người và xây dựng con người:
Quan điểm khác biệt của hai nền triết học về con người”
Triết học Hy Lạp cổ đại ít quan tâm tới vấn đề con người mà chủ yếu quan
tâm tới giới tự nhiên và khoa học. Trái lại triết học Trung Quốc cổ đại quan tâm
nhiều đến vấn đề con người. Nguyên nhân khác biệt là do nguồn gốc hình thành
và phát triển của 2 nền triết học.
Tuy nhiên, cả hai nền triết học đều đề cao con người.
3.1.7. Quan điểm về đạo đức:
Cả triết học Trung Quốc cổ đại và Hy Lạp cổ đại đều có quan điểm:
- Đề cao giá trị đạo đức đối với con người, con người muốn hoàn thiện phải

có đạo đức.
- Sống có đạo đức là làm điều thiện, sống đúng mực ôn hoà, không gây hại
cho mình và cho người.
Bên cạnh đó chúng cũng có những quan điểm khác nhau:
- Triết học Trung Quốc cổ đại đề ra các tiêu chuẩn của đạo đức, còn triết
học Hy Lạp cổ đại chưa đề ra các tiêu chuẩn đạo đức
- Trong triết học Hy Lap cổ đại có quan niệm con người sống hạnh phúc là
sống có đạo đức. Mà con người chỉ sống hạnh phúc trong thế giới ý niệm, tức là
không có hạnh phúc dưới trần gian. Triết học Trung Quốc không có quan điểm
này
- Trong triết học Hy Lạp cổ đại, Socrat có quan niệm đồng nhất sự hiểu biết
với đạo đức. Còn triết học Trung Quốc cổ đại lại cho rằng muốn có đạo đức
ngoài việc tuân thủ nhân, lễ, nghĩa thì còn phải có trí (tức là có sự hiểu biết).
- Trong khi Lão Tử chủ trương vô vi để có đạo đức, tuân theo quy luật tự
nhiên thì Epiquya lại phát triển đạo đức theo hướng cá nhân
3.1.8. Quan điểm về chính trị - xã hội và xây dựng nhà nước
● Quan điểm về chính trị - xã hội của triết học Trung Quốc cổ đại
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 21
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
- Nho giáo: Quan điểm chính trị theo Khổng Tử: Xã hội, gia đình loạn là do
không có chính danh, chính danh là trên ra trên, dưới ra dưới, vua ra vua, tôi ra
tôi, ông chủ trương lấy đức trị thiên hạ “tề gia trị quốc bình thiên hạ”, thuyết
chính danh thuyết trung tâm của Nho giáo.
- Đạo gia:
Quan điểm vô vi trong triết học Lão tử:
Vô vi có nghĩa là con người sống theo lẽ tự nhiên, không hành động trái với
bản chất của tự nhiên, không làm trái với quy luật của tự nhiên.
Đạo trị nước (5 điểm):
- Điểm 1: Vô vi: vua ít can thiệp vào việc của dân, để dân thuận theo tự
nhiên mà sống, dân sẽ vui vẻ, yên ổn phát triển theo bản năng của họ. Nhà cầm

quyền càng “hữu vi”, tức can thiệp vào việc của dân bao nhiêu thì càng tai hại
bấy nhiêu. Ví dụ dân bị đói là do nhà cầm quyền thu thuế quá nặng; dân khổ do
nhà cầm quyền sống xa hoa.
- Điểm 2: Vua phải phục vụ dân, phải hy sinh cho dân.
- Điểm 3: Thực hiện khiêm nhu, tránh chiến tranh: Lão Tử khuyên vua
chúa nước lớn cũng như nước nhỏ phải khiêm nhu để tránh chiến tranh.
- Điểm 4:
+ Đánh giá con người theo Trang Tử là khó: tâm tính bên trong và diện mạo
bên ngoài của con người là trái ngược nhau: có kẻ tài giỏi mà bên ngoài như ngu
độn; có kẻ ngoài như cẩn thận, khiêm tốn mà bên trong lại kiêu căng; có kẻ ngoài
như vững vàng, thư thái mà bên trong lại cuồng rối, nóng nảy…
+ Trang tử nêu ra một loạt các biện pháp để xem xét con người như:
○ Điều động người đó đi xa để thử lòng trung thành
○ Bố trí làm việc ở gần để xem lòng thành kính
○ Sai làm nhiều việc để xem cái tài
○ Hỏi lúc vội vàng để xem cái trí
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 22
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
○ Giao cho công việc nguy hiểm để xem có khí tiết hay không
○ Cho ăn uống no say để xem cử chỉ lời nói ra sao
- Điểm 5: Trong cuộc sống đừng tham lợi mà quên tính mạng
- Mặc gia: Về chính trị, Mặc Địch tán thành chế độ phong kiến, phản đối
chiến tranh, chủ trương không trọng lễ, nhạc vì những cai đó là xa xỉ, tốn kém
mất thì giờ tiền bạc của nhân dân, ông chủ trương tiết kiệm điều ông lo nhất là
làm sao cho mọi người đủ ăn, đủ mặc.
- Pháp gia: Phép trị quốc của Hàn Phi là một học thuyết có nội dung hoàn chỉnh
được tổng hợp từ pháp, thế và thuật; trong đó, pháp là nội dung chính của chính
sách cai trị, thế và thuật là phương tiện để thực hiện chính sách đó. Cả ba pháp,
thế, thuật đều là công cụ trị nước của bậc đế vương.
 Khi xây dựng pháp luật phải tuân theo những nguyên tắc chung: 4 nguyên tắc

Nguyên tắc 1: Thiên thời, địa lợi, nhân hòa
Nguyên tắc 2: Luật pháp phải minh bạch phải được cân nhắc kỹ càng
Nguyên tắc 3: Pháp luật phải soạn thảo sao cho dân dễ hiểu, dễ thi hành, phải
được áp dụng nhất loạt với mọi người
Nguyên tắc 4: Pháp luật phải công bằng, phải mang tính phổ biến.
 Đối tượng tác động của pháp luật là toàn xã hội, tất cả thần dân; không phân
biệt đẳng cấp từ quan lại đến tướng lĩnh đã phạm tội thì phải chịu tội, tội nặng
hay nhẹ đều không được bỏ qua.
● Quan điểm về chính trị - xã hội của triết học Hy Lạp cổ đại
- Đêmôcrit: Quan niệm về chính trị - xã hội, mục đích của con người là
hướng tới tự do hạnh phúc, hạnh phúc là sự hưởng lạc chứ không phải giàu có,
hạnh phúc là sự thanh thản của tâm hồn, thượng đế là do trí tưởng tưởng của con
người mà có.
- Platon: Quan niệm của ông tập trung vào nhà nước lý tưởng, ông phê
phán kiểu nhà nước đương thời và cho rằng nhà nước lý tưởng với ba lớp người
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 23
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
làm việc khác nhau như: Tầng lớp thấp nhất của xã hội là nông dân, thợ thủ công
và thương nhân – Tầng lớp vệ quân làm công việc chiến tranh – Các nhà thông
thái, các nhà triết học là những người thừa hành xã hội.
● Quan điểm về xây dựng nhà nước
Quan điểm của hai nền triết học:
- Xây dựng xã hội có sự phân biệt đẳng cấp
- Phải sử dụng kết hợp với pháp luật trong cai trị xã hội
- Cho rằng người quản lý nhà nước phải có tri thức
- Xoá bỏ chế độ sỡ hữu tư nhân
- Quản lý nhà nước phải mang lại hạnh phúc, no đủ cho dân
Sự khác biệt của hai nền triết học về quan điểm chính trị - xã hội và xây
dựng nhà nước:
- Hy Lạp là nhà nước của giai cấp chủ nô, còn Trung Quốc là nhà nước của

giai cấp quý tộc, giai cấp địa chủ phong kiến
- Trung Quốc đề cao nhà nước đức trị, nhân trị.
- Trung Quốc xem trọng dân, bao gồm mọi tầng lớp. Hy Lạp không xem nô
lệ là con người, chỉ quan tâm tới giai cấp chủ nô
- Mô hình xã hội lý tưởng của Khổng Tử đối lập với Platong
3.2. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại:
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức và có ảnh hưởng lớn đối
với nền văn hóa Phương Đông, các quốc gia cũng như với Việt Nam.
Sự du nhập nho giáo và sự ảnh hưởng của nó có ý nghĩa rất lớn trong hệ
thống chính trị - văn hóa truyền thống Việt Nam xét cả mặt tích cực và tiêu cực
của nó. Nho giáo với hệ thống tư tưởng, chính trị của mình đã giúp xây dựng các
nhà nước trung ương tập quyền mạnh và một hệ thống quản lý xã hội chặt chẽ,
v.v … Nho giáo đã đào tạo các tầng lớp Nho sĩ Việt Nam yêu nước, tài năng kiệt
xuất phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc và phát triển kinh tế, xã hội.
Nho giáo hướng quảng đại quần chúng nhân dân vào việc giáo dục, tu
dưỡng đạo đức theo luân thường đạo lý, giúp xây dựng các quan hệ xã hội có
tính ổn định, bền chặt, có tôn ti trật tự… nhất là quan hệ gia đình. Nho giáo giúp
xây dựng tinh thần trung quân ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà
vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu, coi trọng vận mệnh quốc gia cao hơn các quan hệ
xã hội khác. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp, bài xích thương
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 24
Đề tài số 13 GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nghiệp, có tính bảo thủ không chịu tiếp nhận những cái mới có tính ưu việt
hơn…
Ngày nay, tuy không còn ảnh hưởng nhiều đến đời sống chính trị, nhưng tư
tưởng nho giáo tác động rất lớn trong đời sống văn hóa truyền thống của con
người Việt Nam. Sự ảnh hưởng đó không chỉ thể hiện về mặt tâm linh, phong tục
tập quán mà còn trên những tư tưởng: Nhân - Lễ - Nghĩa… trong các quan hệ xã
hội của con người Việt Nam hiện nay.
3.3. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại:

Đối với triết học Hy Lạp cổ đại, Hy Lạp cổ đại là nước có nền khoa học tự
nhiên phát triển, chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện
đại, và có các nhà triết học nổi tiếng. Trong đó, Platon là một trong những nhà
tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại Hy Lạp, là nhà triết học duy tâm khách quan phát
triển các tư tưởng của Xôcrát và xây dựng những nền tảng khách quan của ý thức
con người. Ông có công lớn trong việc nghiên cứu ý thức xã hội và nước đầu xây
dựng nền tảng của các khái niệm, phạm trù và tư duy lý luận. Sự tồn tại của nhà
nước lý tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hòa
các ngành nghề và giải quyết các mâu thuẫn giữa các như cầu xã hội. Sự vinh
quang của nhà nước phụ thuộc vào các phẩm chất: Sự thông thái, dũng cảm,
chính nghĩa và phong độ duy trì chuẩn mực của các nhà lãnh đạo. Trong đó sự
thông thái là tri thức cao nhất là niềm vinh quang của riêng các nhà triết học.
Nguyễn Thị Thuý Phương – Nhóm 5 – K20 – Đêm 1 Page 25

×