Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN QUAN ĐIỂM VỀ CÁCH TRỊ QUỐC CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC THỜI CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.72 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 1
Giới thiệu 1
Triết học Nho Gia 1
Triết học Đạo gia 2
Triết học Mặc gia 3
Triết học Pháp gia 4
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 7
1. Giới thiệu 7
Quan điểm Đêmocrit 8
Quan điểm Platon 10
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN 13
1. Tư tưởng trị quốc của hai nền triết học Hy Lạp và Trung Quốc: 13
1.1 Tư tưởng trị quốc của nền triết học Trung Quốc: 13
1.2 Tư tưởng trị quốc của triết học Hy Lạp: 15
2. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Trung Quốc: 16
3. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Hy Lạp: 18
KẾT LUẬN 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 21
LỜI MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề khá quan trọng trong sự phát triển của xã hội là “vấn đề
về trị quốc”. Một quốc gia phồn thịnh hay suy vong đều phụ thuộc vào đường lối,
chiến lược trị quốc. Quan điểm của các nhà triết học qua các thời kỳ khác nhau
(cổ đại, trung đại và hiện đại) cũng khác nhau. Các quan điểm được phát triển
trên từ đơn giản đến phức tạp, từ bức tranh duy vật đến duy tâm. Mỗi tư tưởng
triết học đều có nhiều quan điểm về các khía cạnh vũ trụ quan, nhận thức luận,
đạo đức, chính trị, xã hội.
Trong phạm vi đề tài này, bài viết này chỉ đi sâu vào quan điểm trị quốc của các
nhà triết học thời kỳ cổ đại. Tuy chỉ là một mảng nhỏ trong nội dung của các tư


tưởng triết học, nhưng đây là một đề tài mang tính chất bám sát vào nội dung
chương trình học, mở rộng kiến thức về cách nhìn nhận của những nhà triết học
cổ đại của cả phương Tây lẫn phương Đông và là một vấn đề mang tính chất thực
tiễn.
Để làm rõ nội dung trị quốc, cần phải tìm hiểu sơ lược về điều kiện tự nhiên,
hoàn cảnh đời sống xã hội và văn hóa. Nội dung đề tài được chia ra thành hai
mảng chính. Ở triết học phương Đông, nội dung trị quốc được phân tích thông
qua các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại như Nho gia, Mặc gia, Đạo gia,
Pháp gia. Còn đối với triết học phương Tây, khía cạnh này lại được mổ xẻ thông
qua tư tưởng Đêmôcrit và Platon của triết học Hy Lạp.
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG I: TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Giới thiệu
Trung Quốc là một nước có nhiều dân tộc với chế độ phong kiến kéo dài, chiến
tranh diễn ra liên miên. Do sự phát triển kinh tế xã hội và khoa học trong các thời
kỳ cổ đại, đặc biệt là thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc đã tạo tiền đề cho sự ra đời
các hệ thống triết học với những nhà triết gia vĩ đại mà tên tuổi của họ gắn liền
với lịch sử của nhân loại.
Triết học Trung Quốc gắn liền với chính trị và đạo đức. Thường những nhà triết
học là những nhà chính trị, những ông quan tham mưu cho các vương triều đình.
Triết học Trung Quốc trải qua nhiều thời kỳ, trong đó thời Xuân thu – Chiến
quốc là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất với nhiều học thuyết được lưu truyền đến
đời sau.
Triết học Nho Gia
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp
của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công.

Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc,
Khổng Tử phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá
các tư tưởng đó. Do đó, sau này ông được xem là người sáng lập ra Nho giáo.

Nho gia là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có
hiệu quả, cần phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này
gọi là quân tử. Theo Khổng Tử, để trở thành người quân tử, con người ta trước
hết phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có
bổn phận phải "hành đạo". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho
đến lớn - trị quốc, và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên
hạ).
Về tu thân, Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức
để làm chuẩn mực cho mọi vấn đề sinh hoạt trong xã hội. Tam cương và ngũ
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 1
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thường là chuẩn mực đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là
chuẩn mực đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng xã hội mà có mọi
người tuân theo tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được trật tự,
thái bình.
Về hành đạo, Khổng Tử đưa ra học thuyết về Nhân-Lễ-Chính danh. Nhân là tình
người, người có nhân là người biết yêu thương người khác, phải cai trị bằng tình
người. Khổng Tử từng nói "Mình muốn lập thân thì phải giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt”. Chính danh ở
đây có nghĩa là mang danh nào thì phải thực hiện cho được những điều mà danh
đó quy định. Tất cả phải có tôn ti, thực hiện đúng bổn phận của mình. Nếu tất cả
mọi người đều chính danh, xã hội tất yếu sẽ thái bình, trật tự, không loạn lạc.
Chính bởi thế mà câu nói "Nếu danh không chính thì lời nói không thuận. Lời nói
không thuận tất việc chẳng thành" của Khổng Tử đến giờ vẫn thường được mọi
người nhắc lại. Nói một cách ngắn gọn hơn, quan điểm này đã được những người
sáng lập tóm gọn trong 9 chữ: Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Triết học Đạo gia
Đạo gia là một trong sáu học phái lớn trong nền triết học Trung Quốc cổ đại, ra
đời sau thời kỳ hưng thịnh của Nho giáo. Đạo gia được Lão Tử sáng lập ra và sau
đó được Trang Tử phát triển thêm vào thời Chiến quốc (403-221 TCN) trong bối

cảnh tầng lớp quý tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên.
Kinh điển của Đạo gia chủ yếu được tập trung lại trong bộ Đạo đức kinh và bộ
Nam hoa kinh. Những tư tưởng triết học cơ bản của trường phái Đạo gia được
thể hiện chủ yếu trong lý luận về đạo và đức. Lý luận này thể hiện quan niệm
biện chứng về thế giới và là cơ sở để Lão Tử xây dựng thuyết vô vi nhằm giải
quyết những vấn đề do thời đại đặt ra.
Về quan điểm trị quốc, Lão Tử cho rằng hành động hay nhất là đừng can thiệp
đến việc đời; nhưng nếu đời cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một
cách kín đáo, khéo léo. Ông coi đây là giải pháp an bang tế thế. Đối với ông,
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 2
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phác, chính phủ tích cực làm
việc thì dân đầy tai hoạ. Lão Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải là
bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi và chủ trương xoá bỏ hết mọi ràng buộc về mặt
đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại cho con người cái bản tính tự
nhiên vốn có của nó. Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thuỷ chất
phác, mơ ước cô lập cá nhân với xã hội để hoà tan con người vào đạo (tự nhiên).
Triết học Mặc gia
Mặc gia là một trường phái triết học Trung Quốc cổ đại do Mặc tử sáng lập, phát
triển qua 2 giai đoạn: Mặc tử và giai đoạn hậu Mặc, phản ánh nguyện vọng của
tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ và tiểu chủ. Nó phát triển cùng thời với Nho
giáo, Đạo giáo, Pháp gia và là một trong bốn trường phái triết học chính trong
thời Xuân Thu và Chiến Quốc.
Mặc Tử cho rằng việc quốc trị phải chú trọng vào phương tiện để đạt cho được
cứu cánh chứ không chỉ bám vào cứu cánh mà quên đi phương tiện như Khổng
hay Mạnh. Mặc Tử nhấn mạnh đến pháp thuật chính trị cần thiết để an bang tế
thế.
Bất cứ chính sách hay phương pháp nào cũng phải giúp cho nhân loại thăng tiến.
Người quản thống quốc sự nên dựa trên căn bản hữu dụng (thực lợi) để đánh giá
tất cả các chính sách; nếu việc có lợi cho nhân dân thì nên làm, nhưng nếu không

có lợi cho nhân dân thì không làm. Lãnh tụ quốc gia khi đánh giá cái 'dụng' của
sự việc cũng không nên quên đi 'nghĩa'. Theo Mặc Tử thì 'muôn việc không việc
gì quý bằng nghĩa' (vạn sự mạc quý ư nghĩa) và 'nghĩa là lợi' (nghĩa, lợi dã)
Khuôn phép cho việc quốc trị trong nhãn quan của Mặc Tử là hành sử theo minh
ý của trời, phải biết thương dân chứ không phải tin vào bói toán một cách mù
quáng. Lãnh tụ quốc gia không thể ích kỷ để chỉ lo tư lợi mà phải tận tình chăm
lo cho đời sống của dân, giúp dân đạt được sung túc và hạnh phúc, tuyệt đối
không ra vẻ hách dịch để ức hiếp dân. Sách lược quốc trị tốt nhất cho dân tộc là
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 3
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
sách lược bác ái bao gồm các chính sách khuyến khích tinh thần bác ái trong
quốc gia và cả chính sách ngăn chận sự căm thù trong xã hội.
Trong lãnh vực quốc trị, Mặc Tử chủ trương lãnh đạo quốc gia phải biết trọng
dụng nhân tài bất kể là họ có liên hệ gia tộc hay đảng phái hay không, đưa ra
quan niệm bình đẳng hóa xã hội, phản đối hệ thống phân chia giai cấp đương thời
và đả kích tệ nạn bám víu vào quyền lực chính trị của thành phần quý tộc qua
cách bổ nhiệm thân nhân - thay vì người tài đức - vào các trách vụ quan trọng.
Về lãnh vực tài chánh, Mặc Tử chủ trương chính sách tiết kiệm, đòi hỏi lãnh đạo
quốc gia phải biết giới hạn những chi tiêu xa hoa có tính cách khoe khoang
nhưng không đem lại ích lợi gì cho nhân dân hay quốc.
Triết học Pháp gia
Phương Đông được coi là nơi khởi nguồn của nền văn minh nhân loại, với nhiều
thành tựu vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc đứng trong hàng ngũ bốn nước cổ đại
có nền văn minh rực rỡ và lâu đời, là cái nôi sớm nhất của văn minh nhân loại.
Về tư tưởng, lịch sử Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được nói đến nhiều nhất:
Xuân Thu (770 – 403 TCN) là thời kỳ sinh sống của Lão Tử và Khổng Tử và
Chiến Quốc (403 – 221 TCN) là thời kỳ sinh sống của Hàn Phi Tử, đã hội tụ
những nhân tố cho sự phát triển đến đỉnh cao. Học thuyết pháp trị của phái pháp
gia hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ bởi các tác giả xuất sắc như: Quản
Trọng, Thận Đáo, Thân Bất Hại, Thương Ưởng và được hoàn thiện bởi Hàn Phi

Tử Tư tưởng Pháp gia mà đại biểu xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt
trong sự nghiệp thống nhất đất nước và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu -
Chiến Quốc
Trong phép trị nước, Hàn Phi Tử là người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố Thế,
Thuật, và Pháp. Ông cho rằng ba yếu tố đó phải thống nhất không thể tách rời
trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong đó, "Pháp" là nội dung trong
chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ; "Thế" là công cụ, phương tiện tạo
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 4
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nên sức mạnh, còn "Thuật" là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung
chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
"Thế" là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. Pháp gia cho rằng muốn có
luật pháp rõ ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì nhà vua
phải có "Thế". Trọng Thế tức trọng sự cưỡng chế, cho nên chủ trương: 1- Chủ
quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tập trung cả vào một người là vua; 2- Vua
phải được tôn kính tuân theo triệt để: dân không được quyền làm cách mạng,
không được trái ý vua, vua bắt chết thì phải chết, không chết tức là bất trung. 3-
Đưa sự thưởng phạt lên hàng quốc sách vì thưởng và phạt là phương tiện hiệu
nghiệm nhất để cưỡng chế. Muốn cho nước trị thì vua chỉ cần dùng thưởng phạt
chứ không cần dùng giáo hóa, lễ nhạc.
"Pháp" được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng "Pháp" là thể chế quốc gia là chế
độ chính trị xã hội của đất nước; Nghĩa hẹp "Pháp" là những điều luật, luật lệ,
những luật lệ mang tính nguyên tắc và khuôn mẫu. Kế thừa và phát triển tư tưởng
Pháp trị của pháp gia thời trước, Hàn Phi Tử cho rằng: "Pháp là hiến lệnh công
bố ở các công sở, thưởng hay phạt đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng
người cẩn thận giữ pháp luật, phạt kẻ phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp".
Tính cách của pháp luật theo Hàn Phi, trên cơ sở chủ trương của Pháp gia, là vua
tượng trưng cho quốc gia, nên vua nắm hết uy quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp. Tuy vậy, khi lập pháp vua cũng phải dựa trên những nguyên tắc chính như:
1- Pháp luật phải hợp thời; 2- Pháp luật phải soạn sao cho dân dễ hiểu, dễ thi

hành; 3- Pháp luật phải công bằng; 4- Pháp luật có tính cách phổ biến. Với Hàn
Phi, "Pháp" thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định danh phận, phải trái,
tốt, xấu, thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và vạn sự đều qui về một mối, đều lấy
pháp làm chuẩn. Vì vậy, "Pháp" trở thành cái gốc của thiên hạ.
"Thuật" trước hết là cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn trong việc
tuyển người, dùng người, giao việc, xét đoán sự vật, sự việc mà nhờ nó pháp luật
được thực hiện và nhà vua có thể "trị quốc bình thiên hạ". Theo Hàn Phi, “Thuật”
có hai khía cạnh: Kỹ thuật, là phương án để tuyển, dùng, xét khả năng quan lại;
Tâm thuật tức mưu mô để chế ngự quần thần, bắt họ để lộ thâm của họ ra.Nói
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 5
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
ngược lại điều mình muốn nói để dò xét gian tình của người; Ngầm hại những kẻ
bề tôi mình không cảm hóa được…Cũng như Tâm thuật, Kỹ thuật được Hàn Phi
rất coi trọng, đặc biệt là thuật trừ gian và dùng người.
Sự nghiệp thống nhất và phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi
tư tưởng pháp trị phải phát triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế",
"Thuật", "Pháp" vừa được phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong
một học thuyết duy nhất. Hàn Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư
tưởng chủ đạo của Pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm
trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân
bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ" được.
Pháp gia của Hàn Phi Tử được coi là trường phái triết học đầu tiên chủ trương
dùng phép trị để trị nước. Học thuyết chính trị của Pháp gia đã được Tần Thủy
Hoàng vận dụng, kết quả đã đưa nước Tần đến thành công trong việc thống nhất
được đất nước Trung Quốc sau những năm dài chiến tranh khốc liệt.
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 6
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG II: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Giới thiệu
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu dài và sâu

sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử-
chế độ chiếm hữu nô lệ.
Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát triển
tất cả các lĩnh vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì vậy, nơi đây
đã hội tụ đầy đủ những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng, để thoả sức
sáng tạo ra những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng
của nhân loại, xứng đáng là chiếc nôi của nền văn minh Châu Âu và của cả nhân loại.
Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất
yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian,
trong thần thoại, trong các mầm mống của tri thức khoa học (khoa học tự nhiên).
Hy Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại là nơi để con người tưởng
tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn là nơi thể hiện đời sống
tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt của đời sống thường ngày. Thần
thoại là nơi đâù tiên để tư duy triết học ra đời và từng bước triết học tách khỏi thần
thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, đạo đức, về xã hội, về lẽ sống, về chân lý, về con
người…
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại là một tất yếu-đó là
kết quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại.
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:
- Triết học thời kỳ tiền Xôcrat (thời kỳ sơ khai)
- Triết học thời kỳ Xôcrat (thời kỳ cực thịnh)
- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá
Triết học Hy Lạp cổ đại có những đặc điểm sau:
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 7
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Đặc điểm thứ nhất, triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất của
nhận thức nhân loại từ phương thức sản xuất thứ nhất đến phương thức sản xuất thứ
hai ở phương Tây. Vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới
quan và là một hệ thống tập hợp các tri thức về tự nhiên, về con người, mặc dầu chưa
thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc nhưng cũng vô cùng phong phú, muôn hình

muôn vẻ…
Đặc điểm thứ hai, triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng
định con người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy, con
người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo
đức, giao tiếp và nhận thức.
Đặc điểm thứ ba, triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phátvà biện chứng
sơ khai, cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường
xuyên vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng
của triết học Hi Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép biện chứng.
Quan điểm Đêmocrit
Đêmôcrit - nhà bác học toàn năng và nhà triết học duy vật lớn nhất của Hy Lạp cổ đại,
sinh trưởng ở Apđerơ, một thành phố thực dân địa của Hi Lạp ở xứ Tơraxia, ven bờ
phía Bắc của biển Êgiê.
Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Ông là học trò của
Lơxíp và là người kế tục tư tưởng của Lơxip về nguyên tử và phát triển nó thành một
học thuyết gắn liền với tư tưởng của ông.
Nổi bật nhất trong triết học của Đêmôcrít là học thuyết về nguyên tử. Khái niệm
nguyên tử được xây dựng trên cơ sở các khái niệm về “tồn tại” và “không tồn tại”.
Trái với quan niệm của Platon thì tồn tại theo Đêmôcrít là cái xác định được, cái đa
dạng, cái có ngoại hình…
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 8
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Đối lập với cái tồn tại là cái không tồn tại hay cái trống rỗng. Cái trống rỗng là cái
không xác định, cái vô hình, bất động và vô hạn. Nó không ảnh hưởng gì các vật thể
nằm trong nó, nhờ đó mà vật thể vận động được trong cái trống rỗng, cái phần vật
chất thuộc cái tồn tại mà không chứa đựng trong nó một sự trống rỗng nào được gọi là
nguyên tử.
Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia được, nhỏ bé có thể cảm nhận được
bằng trực quan. Nguyên tử là vĩnh cửu, bất biến. Nguyên tử có tính đa dạng, tự thân
không vận động và khi kết hợp với nhau thì tạo thành vật thể. Đêmôcrít cho rằng mọi

sự vật trong thế giới đều được tái tạo từ các nguyên tử và khoảng không. Sự xuất hiện,
tồn tại và mất đi của các dạng vật thể là kết quả kết hợp của các nguyên tử hay phân
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 9
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
tâm của các nguyên tử. Vũ trụ nói chung theo Đêmôcrít là một khoảng không vô tận
trong đó chứa đựng vô số thế giới khác nhau được cấu tạo từ vô vàn các loại nguyên
tử.
Trong lý luận nhận thức, Đêmôcrít đưa ra khái niệm linh hồn coi đó là hoạt động tâm
lý là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt giữa thế giới vô sinh và hữu sinh. Theo ông, linh
hồn cũng là một dạng vật chất, được cấu tạo từ các nguyên tử đặc biệt có cấu hình,
linh động như ngọn lửa, có vận tốc lớn luôn chứa đựng và sinh ra nhiệt làm cơ thể
hưng phấn và vận động.
Quan điểm về linh hồn của Đêmôcrít là cái không bất tử, nó thể hiện cùng với sự tồn
tại của thể xác con người. Chức năng của linh hồn là khởi đầu sự vận động và tồn tại
của cơ thể con người. Các hình thức phản ánh trong hoạt động nhận thức của con
người theo Đêmôcrít được thể hiện do các cơ quan cảm giác và nhận thức lý tính. Sự
khác nhau giữa nhận thức cảm giác và lý tính là ở tính chất, trình độ giữa chúng, tuy
nhiên Đêmôcrít chưa phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa hai dạng nhận thức, mà
chỉ thấy sự khác nhau đơn thuần về lượng, cũng chưa thấy được sự chuyển hóa giữa
chúng, mà thực chất coi tư duy chỉ là sự hỗn hợp cái nguyên tử trong cơ thể con
người.
Trong lĩnh vực chính trị - xã hội, Đêmôcrít thể hiện lập trường của tầng lớp dân chủ
chủ nô, ông đấu tranh bảo vệ nền dân chủ Aten. Ông coi chế độ nô lệ là hợp đạo lý,
nền tảng của nó là nhà nước của giai cấp chủ nô. Ông có những quan điểm tiến bộ về
mặt đạo đức. Phẩm chất con người theo ông không phải ở lời nói mà ở việc làm. Mục
tiêu của con người, theo ông là hướng tới tự do và hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không
phải là sự giàu có, mà là sự thanh thản tâm hồn được tự do. Về vấn đề tôn giáo,
Đêmôcrít và các nhà nguyên tử luận nghiêng về lập trường vô thần.
Quan điểm Platon
Platon (427-347) tên thật là Aristoclès. Sinh trong một gia đình dòng dõi quý tộc tại

Athènes. Ông đã từng theo học với Socrate và trở thành một người đệ tử, một người
bạn trung thành đắc lực cho Socrate. Việc Socrate mất đã tác động mạnh mẽ tới tâm
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 10
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thức Platon và từ đó ông thù ghét tư tưởng dân chủ, thù ghét quần chúng và cả giai
cấp quý tộc của ông. Ông viết rất nhiều tác phẩm có giá trị cho nhân loại cả về triết
học lẫn chính trị. Trong những tác phẩm của ông, nổi tiếng và đặc biệt nhất là tác
phẩm Cộng Hoà (Republic). Có thể nói đó là một cuốn bách khoa toàn thư vô cùng
giá trị trong lịch sử nhân loại.
Quan niệm về Quốc gia lý tưởng
Toàn bộ những tư tưởng về chính trị xã hội của Platon được gói gọn trong mô hình
“Quốc gia lí tưởng” mà ông đã dày công gầy dựng suốt cả cuộc đời. Trong mô hình
quốc gia lí tưởng ấy ta thấy nó thể hiện đầy đủ tất cả các vấn đề của đời sống mà xã
hội chúng ta ngày hôm nay vẫn còn đang băn khoăn suy nghĩ. Đó là một quốc gia
trong đó mọi người luôn được sống êm đềm hạnh phúc, đầy đủ và thoả mãn với
những gì mà họ đã tạo ra.
Xã hội trong quốc gia lí tưởng của Platon được phân chia thành ba giai cấp rõ rệt
tương ứng với từng bản tính và chức năng của mỗi giai cấp: giai cấp lãnh đạo tức là
những triết gia trí thức, hai là giai cấp chiến binh tức là những người tham gia vào
quan đội cảnh sát và ba là giai cấp thương nhân tức là những người buôn bán và sản
xuất lương thực. Quốc gia lí tưởng của Platon là một quốc gia cộng sản triệt để trong
đó, tất cả mọi cái đều được gom vào thành của chung. Tất cả lợi ích là vì xã hội, nhà
nước. Người lãnh đạo lý tưởng tất nhiên không ai khác hơn là giai cấp quý tộc nhưng
những người quý tộc này không được sở hữu bất cứ tài sản nào, kể cả vợ con riêng, sự
sở hữu kinh tế nông nghiệp cũng không được có sự quá chênh lệch giữa mọi người.
Về quan hệ xã hội thì mọi người đều phải có những vai trò và nhiệm vụ riêng theo
từng giai cấp đã được phân chia. Làm đúng theo nhiệm vụ ấy là bảo vệ và xây dựng
đời sống hạnh phúc. Mọi người đều phải được học hành, không có chiến tranh, kể cả
ngoại chiến lẫn nội chiến; các quan chức lãnh đạo phải là những triết gia vì những
người như họ mới đủ khả năng sáng suốt lãnh đạo, họ không được tham nhũng vơ vét

của cải của dân. Những của cải của người dân làm ra phải được phân chia một cách
đồng đều để không ai quá giàu hoặc quá nghèo. Ông chủ trương một nhà nước lí
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 11
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
tưởng cần phải có địa hình nằm sâu vào trong đất liền để tránh giao thương buôn bán
mà chỉ phát triển về nông, thủ công nghiệp là đủ.
Và tất nhiên, xã hội đó là một xã hội quý tộc dân chủ, tất cả mọi tài năng đều có cơ
hội phát triển đồng đều, dù là con vua hay con chúa cũng bắt đầu ngang nhau. Trong
chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền con nối, nếu
không có năng lực thì sẽ bị đào thải, dù là con vua.
Một nền thể chế chính trị hay xã hội nếu làm cho trọn vẹn quá trình đào tạo “chất liệu
cấu tạo triết lý chính trị” như vậy tất nhiên đã bảo đảm được phần nội lực bên trong từ
đó tiến lên xây dựng quốc gia xã hội không còn là chuyện khó.
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 12
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT CÁ NHÂN
1. Tư tưởng trị quốc của hai nền triết học Hy Lạp và Trung Quốc:
1.1 Tư tưởng trị quốc của nền triết học Trung Quốc:
Đối với Nho giáo: Vì Nho Gia nguyên thủy khao khát cải biến xã hội từ Xuân
Thu- Chiến quốc từ loạn thành trị. Vì vậy tư tưởng trị quốc thể hiện tính nhân
bản sâu sắc. Tư tưởng trị quốc này yêu cầu với Nho giáo nguyên thủy về người
cai trị - là người quân tử không thể là dân võ biền mà phải là người có vốn văn
hóa toàn diện. Nhưng chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng của Nho giáo
hoàn toàn không dựa trên quan điểm về kinh tế- xã hội, không xuất phát từ việc
xây dựng nền sản xuất vật chất, không dựa vào quần chúng nhân dân bị trị, mà
dựa trên quan hệ đạo đức-chính trị- xã hội. Như vậy tư tưởng trị quốc này xuất
phát và gắn liền với việc giáo dục, rèn luyện nhân cách cá nhân
Đối với Đạo Gia:
Từ những tư tưởng sâu sắc độc đáo về đạo, về đức, về phép biện chứng, về vô vi
trong hệ thống triết học của Lão Tử đã nâng ông lên thành triết học hàng ðầu

trong nền triết học Trung Hoa
Vì vậy, tư tưởng trị quốc của Trung Hoa cổ đại cũng bị chi phối và ảnh hưởng
với các tư tưởng triết học Đạo gia- cụ thể là những tư tưởng lý luận của Lão Tử
và Trang Tử. Lão Tử nổi bậc trong những tư tưởng lý luận về đạo và đức, về
quan niệm biện chứng về thế giới. Đối với tư tưởng trị quốc thì Lão Tử cho rằng
hành động hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời, nhưng nếu đời cần ta phải
làm gì thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo. Tư tưởng trị
quốc của ông cho rằng, chính phủ yên tĩnh vô vi thì dân sẽ biến thành chất phát,
chính phủ tích cực làm việc thì dân sẽ đầy tai họa. Nếu Nho gia đòi hỏi người trị
vì thiên hạ là bậc Thánh nhân quân tử, sáng ngời các phẩm chất đạo đức; thì Lão
Tử cho rằng bậc Thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi.
Tư tưởng trị quốc mong muốn đưa xã hội về thời đại nguyên thủy chất phác, mơ
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 13
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
ước cô lập cá nhân với xã hội để hòa tan con người vào đạo. Xã hội lý tưởng của
ông là những nước nhỏ, dân ít, có thuyền xe nhưng không đi, có gươm giáo
nhưng không dung, bỏ văn tự, từ tư lợi, không học hành. Dẫn hai nước cạnh
nhau, dù cách nhau bờ dậu nhỏ hay con mương cạn, cùng nghe tiếng chó sủa tối,
tiếng gà gáy sáng…nhưng đến già đến chết họ không bao giờ qua lại thăm nhau.
Nếu xét về khía cạnh nguồn góc trong tư tưởng trị quốc thì cả hai tư tưởng của
Nho gia và Đạo Gia thì ở Nho gia coi trong việc học hành, giao dục và vần đề
này gắn liền với tư tưởng trị quốc của Nho Gia, nhưng Đạo gia thì quan trọng
hơn tư tưởng về mặt đạo đức, mong muốn xây dựng một xã hội lý tưởng dân ít
được giáo dục hơn, hướng về thiên nhiên ( đạo) sẽ tạo một cuộc sống yên lành.
Đối với Mặc Gia: Do Mặc tử sáng lập nên tư tưởng trị quốc của phái này gắn liền
và phản ánh rõ nét nguyện vọng của tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ, tiểu
chủ. Vì vậy trong tư tưởng trị quốc của Mặc gia thì gắn liền với việc xây dựng
một xã hội lý tưởng, tại đó luôn có tầng lớp dân cư tự do, sản xuất nhỏ, tiểu chủ.
Tư tường trị quốc cũng gắn liền với quyền lợi của nhóm này. Mặc Tử trở thành
một trong những triết gia lớn vào thời Chiến quốc nhờ thuyết kiêm ái, thuyết tam

biểu. Thái độ của ông đối với tín ngưỡng tôn giáo mang tính chất thỏa hiệp. Nó
thể hiện bản chất nhu nhược của tầng lớp tiểu tư hữu bị phá sản dưới chế độ
chiếm hữu nô lệ đang suy tàn trong xã hội Trung Hoa cổ đại. Vào cuối thời chiến
quốc, các triết gia Hậu Mặc đã khắc phục triệt để yếu tố thần bí, phát triển khá
đầy đủ các yếu tố duy vật trong quan niệm về tự nhiên và nhận thức của Mặc tử.
Đối với Pháp Gia: Lấy chủ trương pháp luật trong tư tưởng trị quốc, chủ trương
nhà cầm quyền không phải chú trọng nhiều vào việc tu thân theo nghĩa là đặt ra
pháp luật rõ ràng và ban bố cho mọi người tuân theo nghiêm chỉnh. Vì vậy về
nguyên tắc chủ trương pháp trị đối lập với chủ trương nhân trị. Nhưng xét cho
cùng, pháp trị cũng là một hình thức cụ thể của nhân trị mà thôi. Bởi vì muốn thi
hành được các chủ trương của phái Pháp gia nêu ra, xã hội cần có một đấng minh
quân, một nhà vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình theo
nguyên tắc đó. Trong thời đại bấy giờ, chủ trương của Pháp gia dùng pháp luật trị
quốc là đúng đắn; nhưng mặt khác, phái này quá nhấn mạnh biện pháp trừng trị
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 14
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
nặng nè, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục đi ngược lại xu
hướng phát triển của văn minh nhân loại.
1.2 Tư tưởng trị quốc của triết học Hy Lạp:
Do đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và
phương pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nên nó là công cụ lý luận để giai
cấp này duy trì trật tự xã hội và củng cố vai trò thống trị của mình
Democrit là đại biểu của tầng lớp chủ nô, ông luôn xuất phát từ quan điểm duy
vật để bảo về quyền lợi của tầng lớp mình, bảo về chế độ dân chủ chủ nô. Vì vậy
tư tưởng trị quốc này gắn liền với quyền lợi của giai cấp chủ nô. Tư tưởng trị
quốc thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa chủ nô và nền thương mại sản xuất thủ
công, nó cũng gắn liền với tình nhân ái, tính ôn hòa và lợi ích chung của công
dân tự do, chứ không phải nô lệ. Tư tưởng trị quốc thể hiện cụ thể trong việc
phục tùng mệnh lệnh của nô lệ đối với ông chủ. Nhà nước cộng hòa dân cử là
nền tảng của chế độ dân chủ chủ nô phải tự biết điều hành hoạt động của mình

theo các chuẩn mực đạo đức và pháp lý.
Theo quan niệm của Planton: Ba bộ phận cấu thành trong linh hồn của con người
không giống nhau nên trong xã hội có ba loại người: triết gia, chiến binh và nông
dân, thợ thủ công, thương gia…- những người mà bộ phận cảm xúc trong linh
hồn họ đóng vai trò chủ đạo, họ thích nghi với lao động chân tay và đam mê vật
chất; Thượng đế sinh ra họ để đảm bảo đời sống vật chất cho xã hội. Platon coi
nô lệ không phải là con người mà là động vật biết nói. Ông lý luận rằng “ do
không có lý trí nên nô lệ không biết nhận thức, do không nhận thức nên không có
đời sống đạo đức, do không có đạo đức nên nằm ngoài chính trị. Nhà nước hình
thành để đảm bảo sự phân công trên thực hiện được. Vì vậy tư tưởng trị quốc này
gắn liền với đảm bảo quyền lợi của chế độ sở hữu tư nhân, nhằm đảm bảo quyền
lợi của giai cấp.
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 15
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Trung Quốc:
Tư tưởng triết học Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng trong việc trị quốc thời bấy
giờ. Trong bối cảnh có nhiều hệ thống triết học đã ra đời và phát triển nhằm đưa
ra những phương cách khác nhau cho những vấn đề thực tiễn chính trị- đạo đức-
xã hội mà thời đại đặt ra. Tư tưởng triết học này có mầm mống từ thần thoại đến
thời Tam Đại (Hạ, Thương, Chu) với các biểu tượng như đế, thượng đế, quỷ
thần…Chúng hòa quyện vào thế giới thần thoại- tôn giáo chi phối mạnh đời sống
tính thần của người Trung Quốc.
Những tư tưởng triết học ra đời trong hoàn cảnh này nhằm tạo nên một hệ thống
tư tưởng trị quốc ở giai cấp thống trị, là nền tảng trong triết học cổ, tạo cơ sở cho
hệ thống thế giới quan và phương pháp luận sau này. Thời đại tư tưởng được giải
phóng, trí thức được phổ cập, nhiều học giả đưa ra học thuyết của mình nhằm
đóng góp phần biến đổi xã hội, ý nghĩa trong trị quốc, khắc phục tình trạng loạn
lạc bấy lâu nay.
Sự phát triển mạnh tư tưởng triết học thời kỳ này là cở sở để dân tộc Trung hoa
sáng tạo nên một nền văn hóa huy hoàng trong thời kỳ cực thịnh của phong kiến.

Giá trị văn hóa phong phú này ảnh hưởng mạnh nên vấn đề trị quốc của Trung
Hoa thời bây giờ. Đối với những thời kỳ phát triển của Trung Quốc, gắn liền với
thời kỳ hưng thịnh và phát triển rực rỡ của triết học cũng ảnh hưởng sâu sắc đến
vấn đề trị quốc. Chẳng hạn như với trường phải triết học Nho gia, tiêu biểu nhất
Khổng Tử. Đối với ông, trong hoạt động chính trị- xã hội ông chủ trương dùng
đức trị - tức là cai trị dân phải dùng mệnh lệnh, đưa dân vào khuôn phép mà dùng
hình phạt thì dân có thể tránh được tội lỗi nhưng không biết liêm sỉ, cai trị dân
mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ và
thực lòng quy phục và thực hành chính danh ( danh không chính mà ngôn cũng
chẳng thuận, ngôn chẳng thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ
nhạc bất hưng, lễ nhạc bất hưng thì hình phạt không trúng lý, hình phạt không
trúng lý thì dân biết bám víu vào đâu). Nôi dung đường lối đức trị của Khổng Tử
hướng đến thực hiện ba điều: dân đông, kinh tế phát triển, dân được học hành.
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 16
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Mạnh Tử và Khổng Tử đều chủ trương thực hành đường lối đức trị dựa trên tinh
thần quý dân. Cả hai triết gia này đều nhất trí coi chuẩn mực đạo đức là tiêu
chuẩn của người quân tử, và muốn trở thành người quân tử phải tu thân. Để tu
thân thì phải đạt đạo. Để hành động hiệu quả người quân tử phải thực hiện đường
lối nhân trị ( cai trị bằng tình người, bằng sự yêu thương, coi người như bản thân
mình…). Thuyết nhân trị phát sinh được hiểu là sự cai trị đất nước đặt trên cơ sở
bản thân nhà cầm quyền, sự hưng suy của xã hội đều do nơi giá trị của bản thân
nhà cầm quyền mà ra và vấn đề cốt lõi tập trung ở chỗ làm sao cho người cai trị
đủ tài đủ đức, nghĩa là bên cạnh khả năng, nhà cầm quyền phải có đủ đức hạnh.
Thuyết nhân trị còn hiểu là cách cai trị, trị quốc, theo đó nhà cầm quyền phải lấy
đạo đức mà giáo hóa, dẫn dắt dân chúng chứ không cần dùng đến cưỡng chế,
trừng phạt. Vai trò của đạo đức theo Nho giáo là phương tiện chủ yếu để cai trị
đất nước và là điều kiện quan trọng để hình thành và hoàn thiện con người góp
phần củng cố và duy trì trật tự xã hội. Biện pháp cơ bán để thực hiện nhân trị, là
chính danh, lễ, vai trò tài đức của người cầm quyền và vai trò của dân với ý nghĩa

là gốc là nền tảng của chính trị.
Đối với Pháp gia thì tư tưởng cai trị gắn liền với pháp luật, lấy pháp luật làm căn
bản trong việc cai trị đất nước. Về nguyên tắc thì chủ trương pháp trị đối lập với
chủ trương nhân trị nhưng xét cho cùng thì pháp trị cũng chính là hinh thức cụ
thể của nhân trị. Tư tưởng trị vị này có ảnh hưởng sâu rộng đến thời kỳ trị vị của
Trung Quốc thời bấy giờ, nhờ vậy nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất
được Trung Quốc. Nhưng mặt khác phái này quá nhấn mạnh biện pháp trừng
phạt nặng nè, phủ nhận tình cảm đạo đức, thủ tiêu văn hóa giáo dục là đi ngược
lại xu hướng phát triển của văn minh nhân loại. Vì vậy, do thực hành triệt để
pháp trị mà nhà Tần đã thống nhất được đất nước và cũng do thực hành triệt để
pháp trị mà nhà Tần mất nước. Từ thời Hán về sau, dù pháp gia không chính thức
được công nhận, nhưng những tư tưởng có giá trị của phái này đã được các học
phái khác hấp thụ để bổ sung và hoàn thiện quan điểm của mình.
Tóm lại, tư tưởng triết học Trung Quốc có đóng góp to lớn của tư tưởng Trung
Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất Trung Hoa thời bấy giờ. Cần
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 17
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
khắng định rằng, trong bối cảnh Trung Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng triết
học, tiêu biểu là của Pháp gia mà Hàn Phi là tiêu biểu nhất có nhiều yếu tố tích
cục đáp ứng nhu càu phát triển của lịch sử, và đóng góp vai trò to lớn trong tư
tưởng trị quốc cùa thời đại.
3. Ý nghĩa trị quốc của các tư tưởng triết học Hy Lạp:
Trong tư tưởng triết học Hy Lạp đều xoay quanh vấn đề về chiếm hữu nô lệ và
chế độ cộng hòa quý tộc. Hầu hết các triết gia thời kỳ này xuất phát từ tầng lớp
chủ nô nên quan điểm lý luận của họ hầu hêt đều đứng trên lập trường và quyền
lợi của giai cấp chủ nô. Họ xây dựng những quan niệm và học thuyết duy vật để
bảo vệ tầng lớp mình, bảo vệ chế độ chủ nô. Chẳng hạn như, Democrit là đại
biểu của tầng lớp chủ nô dân chủ, ông luôn xuất phát từ quan niệm duy vật để
bảo vệ quyền lợi của tầng lớp mình, bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô. Do đó, tư
tưởng triết học này ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng trị quốc của giai cấp thống trị

lúc bấy giờ. Tất cả các hành động hay trong đường lối trị vì đều gắn liền và phục
vụ cho lợi ích của tầng lớp chủ nô. Ông cho rằng nô lệ không phải là con người,
nô lệ phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Một triết gia khác trong thời đại này
là Planton, tư tưởng triết học của Platon cũng có tương tự như Democrit. Ông coi
nô lệ không là con người, mà là động vật biết nói, do đó lý trí của nô lệ không
biết nhận thức, cho nên không có đạo đức và nằm ngoài vòng chính trị. Nhà nước
được hình thành nhằm đảm bảo cho sự phân công trên được thực hiện. Tuy nhiên
chế độ sở hữu tư nhân không chỉ làm cho nhà nước không thực hiện được sứ
mệnh cao cả của mình mà còn làm cho nhà nước bị tha hóa, gây ra sự băng hoại
đời sống đạo đức, phá hoại tính hài hòa của xã hội.
Vì vậy, tư tưởng trị quốc là cần phải xóa bỏ sở hữu tư nhân, phải xây dựng chế
độ sở hữu công xã với tài sản chung, cha mẹ con cái chung……trên cơ sở thực
hiện quy trình giáo dục, tuyển lựa đào tạo đặc biệt có chú trọng đến thành phàn
tinh túy trong xã hội. Theo Platon, chế độ xã hội tốt nhất phải là chế độ cộng hòa
quý tộc, do một vị vua triết gia nhất lãnh đạo. Qua đó, có thể thấy rằng, quan
điểm này đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn. Bởi vì ông vừa đòi xóa bỏ chế độ tư
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 18
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
hữu, lại vừa đòi hỏi phải bảo vệ chế độ đắng cấp và sự bất bình đẳng trong xã
hội, vừa kêu gọi phải xây dựng cho bằng được nhà nước cộng hòa lý tưởng; lại
vừa ra sức bảo vệ cho bằng được lợi ích và địa vị của tầng lớp chủ nô quý tộc
chống lại nhà nước dân chủ Athene.
Còn đối với những tư tưởng triết học của các triết gia khác (Arixtot) coi chính trị
là sự khai triển đạo đức vào trong đời sống xã hội. Sứ mạng của nhà nước là đảm
bảo cho mọi người (trừ nô lệ) trong cộng đồng một cuộc sống hạnh phúc với mức
độ phù hợp ngày càng cao. Để thực hiện sứ mệnh này, nhà nước phải tiến hành
trên ba lĩnh vực là lập pháp, hành chính và xét xử. Theo ông, chính quyền không
nên thuộc về người giàu và cũng chẳng nên rơi vào tay người nghèo, chính quyền
nên thuộc tầng lớp chủ nô trung lưu. Chế độ chính trị tốt nhất không phải là chế
độ quân chủ mà là chế độ cộng hòa quý tộc. Trật tự xã hội chiếm hữu nô lệ

không phải là một trật tự tốt, nhưng nó là một trật tự cần thiết, và phải cần bảo vệ
nó.
Những nhà triết học lỗi lạc thời bấy giờ đều nêu lên quan điểm chung về tư tưởng
thuộc tầng lớp mình, bảo vệ quyền lời của chính tầng lớp mình; do vậy tư tưởng
quốc trị nó cũng thấm sâu vào từng giai cấp ở từng thời kỳ, đường lối chính sách
quốc trị cũng đi đôi với quyền lợi giai cấp. Nhìn chung, tư tưởng quốc trị thời kỳ
này đã có phần phát triển và tiến bộ rõ nét. Tư tưởng triết học thời kỳ này có
phản ảnh rõ nét tư tưởng trị quốc của giai cấp chủ nô, ảnh hưởng đến đường lối
chính sách giai thống trị.
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 19
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng triết
học qua từng thời kỳ. Hầu hết các triết gia đều đứng trên quan điểm duy vật và
duy tâm để lý luận về quan niệm chính trị xã hội. Những lý luận của các triết gia
lỗi lạc có thể khác nhau nhưng đều đứng trên quan điểm lập trường của giai cấp
của mình, đưa ra những chuẩn mực xã hội sâu rộng, giá trị con người, và đặc biệt
là quan điểm về cách trị quốc.
Tư tưởng trị quốc này ra đời và dựa trên nền tảng và cơ sở của triết học cổ đại.
Những tư tưởng này có ý nghĩa hết sức quan trọng cho đến ngày nay.
Bên cạnh có ý nghĩa quan trọng trong việc trị quốc thì những tư tưởng này đều
nhằm nhấn mạnh đến việc giáo dục đào tạo giá trị con người. Các chuẩn mực đạo
đức và con người được đề cao trong tư tưởng triết học và giá trị này vẫn coi trọng
cho đến ngày nay.
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 20
Đề số 13: Quan điểm về cách trị quốc của triết học cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Bùi Văn Mưa, TS. Trần Nguyên Ký, PGS TS Lê Thanh Sinh, TS
Nguyễn Ngọc Thu, TS. Bùi Bá Linh, TS. Bùi Xuân Thanh, Triết học,
phần 1, đại cương về lịch sử triết học ( Dùng cho học viên cao học &

nghiên cứu sinh không thuộc ngành triết học), ĐHKT TPHCM, 2010
2. PTS. Đinh Ngọc Thạch- Triết học Hy Lạp Cổ Đại – NXB Chính trị Quốc
Gia, 1999
3. TS. Nguyễn Ngọc Thu, TS Bùi Văn Mưa – Giáo trình Đại cương lịch sử
triết học- NXB Tổng hợp TP.HCM, 2003
4. TS. Bùi Văn Mưa, Triết học và Bức Tranh Vật Lý Học về Thế Giới, NXB
Đại Học Quốc Gia TPHCM 2008
SVTH: Võ Thị Uyên Phương- K20Đ1- STT 079 Page 21

×