Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.85 KB, 41 trang )

Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Lời mở đầu
Các tổ chức tài chính trung gian là một thành phần rất quan trọng trong nền kinh tế. Một
nền kinh tế phát triển lành mạnh và ổn định không thể thiếu kênh dẫn vốn từ những người có tiền
nhưng muốn chi tiếu ít hơn tới những người ít tiền nhưng lại muốn chi tiêu nhiều hơn. Nghiên
cứu vềvthị trường tài chính cho ta biết có hai kênh dẫn vốn chính là tài chính trực tiếp và tài
chính gián tiếp. Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam thì tài chính gián tiếp là
kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế đang diễn ra sôi động , môi trường kinh doanh ngày một trở nên
khắc nghiệt hơn, khó khăn hơn thì hoạt động của các trung gian tài chính càng trở nên linh hoạt
và cần thiết. Việc huy động vốn của các tổ chức trung gian tài chính trong bối cảnh nền kinh tế
hiện nay góp phần lớn trong sự thúc đẩy và phát triển kinh tế cho đất nước. Với các kênh huy
động vốn linh hoạt của các trung gian tài chính, nền kinh tế đã có được một nguồn vốn dồi dào từ
những người có vốn. Và cũng thông qua các trung gian tài chính mà lượng vốn lớn được đầu tư
một cách có hiệu quả nhất giúp ổn định và phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh đó, các tổ
chức trung gian tài chính vẫn còn những hạn chế như sự phát triển quá mức của các trung gian
tài chính đã có lúc khiến thị trường tài chính Việt Nam được ví như một “lờ hơi”, hay sự chạy
đua về đầu tư của các trung gian tài chính mà xem ra hiệu quả của các dự án đầu tư được th
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tìm hiểu về thị trường tài chính và đặc biệt các
trung gian tài chính, chúng em nhận ra rằng Ngân hàng thương mại là một trong những trung
gian tài chính đóng vai trò quan trọng trong tình hình kinh tế hiện nay.
Vì vậy nhóm chúng em quyết định chọn để tài là “Thực trạng hoạt động của các
Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay”
Thực tế có nhiều sinh viên cũng như những chuyên gia kinh tế đã nghiên cứu về vấn đề
này. Đây là thuận lợi cho chúng em trong quá trình tìm kiếm, thu thập thong tin; kế thừa những
kinh nghiệm trong việc nghiên cứu khoa học. Nhưng đó cũng chính là khó khăn khi thời gian có
hạn m trình độ, kiến thức tích lũy cũng như kinh nghiệm nghiên cứu của chúng em chưa nhiều.
Cho nên, bài tiểu luận của chúng em sau đây chắc chắn sẽ còn thiếu sót. Chúng em r mong nhận
được lời góp ý của cô và các bạn để bài làm được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
Nhóm 2 Page 1


Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
I. Tổng quan chung:
1. Trung gian tài chính:
1.1. Khái niệm:
Các trung gian tài chính là những tổ chức chuyên hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tài
chính tiền tệ. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của các tổ chức này là thông qua việc cung
cấp các dịch vụ tài chính – tiền tệ mà thu hút, tập hợp các khoản vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế
rồi cung ứng cho những nơi có nhu cầu vốn.
Các trung gian tài chính đóng vai trò như một trung gian, cầu nối giữa những người có vốn và
những người cần vốn, giúp cho việc luân chuyển vốn được thuận lợi hơn.
Các trung gian tài chính đã thực hiện các chức năng chủ yếu là tạo vốn thông qua huy động vốn
nhàn rỗi; cung ứng vốn cho nền kinh tế; kiểm soát nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra đối
với các hợp đồng vay và cho vay.
Hoạt động huy động và cho vay vốn của các trung gian tài chính có thể diễn ra trực tiếp với các
chủ thể kinh tế hoặc thông qua thị trường tài chính.
Lợi nhuận của các trung gian tài chính dưới dạng khoản chênh lệch giữa lãi suất mà chúng cho
vay và đi vay và các khoản phí từ cung cấp dịch vụ tài chính – tiền tệ.
1.2. Vai trò của các trung gian tài chính:
Các trung gian tài chính ngày càng quan trọng trong hệ thống tài chính. Các tổ chức này
đã thực sự đem lại lợi ích trọn vẹn và đầy đủ cho người có vốn, cần vốn, cho cả nền kinh tế xã
hội và bản thân nó. Vai trò của nó thể hiện thông qua việc nó góp phần giảm bớt các chi phí phát
sinh khi thực hiện đầu tư vốn hoặc huy động vốn cho mỗi cá nhân và toàn bộ nền kinh tế; đáp
ứng đủ và kịp thời yêu cầu giữa người cần vốn và người có vốn cần đầu tư sinh lãi; thực hiện
hiệu quả các dịch vụ tư vấn, môi giới, tài trợ, trợ cấp và phòng ngừa rủi ro;…
Để có thể thấy được vai trò của các trung gian tài chính, cần tìm hiểu những hạn chế của các thị
trường tài chính trong việc lưu chuyển vốn, qua đó thấy được các trung gian tài chính đã làm như
thế nào để khắc phục những hạn chế đó để trở thành kênh tài chính quan trọng của nền kinh tế.
1.3.Chức năng của trung gian tài chính:
Trung gian tài chính có 3 chức năng chủ yếu sau:
 Chức năng tạo vốn: Các trung gian tài chính huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, hình

thành c quỹ tiền tệ tập trung. Bằng cách trả lãi suất, các trung gian tài chính đem lại lợi ích
cho người có tiền tiết kiệm và đồng thời cũng làm lợi ích cho chính mình trong gian đoạn
cung ứng vốn.
 Chức năng cung ứng vốn : Trong nền kinh tế thị trường, người cần vốn là các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh doanh trong và ngoài nước. Tổ chức tài chính trung sẽ đáp ứng đầy đủ, kịp
Nhóm 2 Page 2
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
thời nhu cầu vốn và nhận được một khoản lợi nhất định thong qua việc cho vay với lãi suất
vay lớn hơn lãi suất các tổ chức này trả cho người tiết kiệm.
 Chức năng kiểm soát: Các tổ chức trung gian sẽ kiểm soát nhằm giảm tới mức tối thiểu sự rủi
ro bằng cách thường xuyên hoặc định kỳ kiểm soát trước khi cho vay, trong và sau khi các
doanh nghiệp vay vốn
1.4.Phân loại trung gian tài chính:
Có nhiều cách để phân loại trung gian tài chính.
 Cách 1:
 Cách 2: Phân loại một cách tổng hợp trung gian tài chính bao gồm:
- Các loại hình tài chính trung gian ( NHTM, NH phát triển, NH đầu tư, NH chính sách )
- Các loại hình tài chính phi ngân hàng ( Công ty bảo hiểm, Quỹ đầi tư, Quỹ hưu trí…… )
2.Ngân hàng thương mại
2.1.Khái niệm
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam xác
định: "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho
vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
2.2. Chức năng của NHTM: gồm 3 chức năng cỏ bản.
Nhóm 2 Page 3
Trung gian tài chính
Trung gian đầu tư Tổ chức tiết kiệm theo hợp
đồng
Trung gian nhận tiền gửi

-Công ty bảo hiểm
-Quỹ hưu trí
-Ngân hàng đầu tư
-Công ty tài chính
-Quỹ đầu tư
-Ngân hàng thương mại.
-Các tổ chức tiết kiệm.
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
• Chức năng trung gian tín dụng:
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương
mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người
thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai
trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch
giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia:
người gửi tiền và người đi vay
• Chức năng trung gian thanh toán:
Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán
theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu
khác theo lệnh của họ.
Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm
chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có
thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải
giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà
họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ
thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức
năng này vô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu
chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.
• Chức năng tạo tiền:
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của ngân NHTM. Với mục tiêu là

tìm kiếm lợi nhuận như là một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM
với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình chung thực hiện chức năng tạo
tiền cho nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín
dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số
vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa,
thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được
coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ…
Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ
lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với nhtm. do vậy ngân hàng trung
ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.
2.3.Vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường:
Với chức năng của mình, Ngân hàng thương mại giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế thể
hiện qua các nội dung sau:
Nhóm 2 Page 4
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
 Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Thực tế cho thấy, để phát triển kinh tế các đơn vị kinh tế cần phải có một lượng vốn lớn đầu tư
cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Nhưng điều khó khăn hơn lợi ích là
cần có người đứng ra tập trung tiền nhàn dỗi ở mọi nơi mọi lúc và kịp thời cung ứng cho nơi cần
vốn. Bằng vốn huy động được trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương mại
đã cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình
sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại và đặc biệt là hoạt động tín
dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ để
tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho xã hội.
 Ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường.
Bước sang cơ chế thị trường, đòi hỏi sự phát triển của tín dụng Ngân hàng đã làm biến đổi hoạt
động ruỗng lát trong các nhà máy, xí nghiệp khơi dậy sức sống bằng các dây chuyền sản xuất
hiện đại năng suất cao, thực hiện chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Điều không thể

thực hiện bằng vốn tự có của các doanh nghiệp vốn dĩ đã rất ít ỏi. Bên cạnh đó, tín dụng ngân
hàng còn cung cấp một phần vốn không nhỏ trong việc tăng cường nguồn vốn lưu động của các
doanh nghiệp. Một vấn đề luôn là mối lo thường trực của các doanh nghiệp. Một khía cạnh khác
đòi hỏi sự có mặt của tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp. Đó là một ngân quỹ để dành cho
việc đào tạo đội ngũ lao động phù hợp với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật - công nghệ cao.
Đặc biệt trong điều kiện nước ta vẫn còn thiếu nhiều những chuyên gia đầu ngành, những cán bộ
có năng lực và những công nhân lành nghề.
 Ngân hàng thương mại là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được chia làm hai cấp: Ngân hàng
Nhà nước và các Ngân hàng chuyên doanh (NHTM). NHCT được Nhà nước cấp vốn cho hoạt
động và sử dụng như công cụ để quản lý hoạt động tiền tệ, điều tiết chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường thông qua hoạt động tín dụng và
thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại trong hệ thống từ đó góp phần mở rộng khối lượng
tiền cung ứng trong lưu thông và thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh
tế, Ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền tập hợp và phân chia vốn của thị
trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả.
 Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự hội nhập kinh tế quốc gia với thế giới
đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Một
trong các điều kiện quan trọng góp phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh
tế thế giới đó là nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc gia là cầu nối với nền tài chính quốc
tế thông qua hoạt động của Ngân hàng thương mại trong các lĩnh vực kinh doanh như nhận tiền
gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại hối và các nghiệp vụ khác. Đặc biệt là các
hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng Nhà nước
của Ngân hàng thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp tác động góp phần thúc đẩy hoạt động thanh
Nhóm 2 Page 5
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
toán xuất nhập khẩu và thông qua đó Ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết tài
chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế.
II.Thực trạng hoạt động của các ngân hàng thương mại ở

Việt Nam:
Hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM ) tại Việt Nam ngày càng đa dạng, từng bước
hoàn thiện và phát triển cùng với thế giới. Thực trạng hoạt động NHTM có nhiều yếu tố tích cực
nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều thiếu xót và tiêu cực. Cụ thể là:
1.Hoạt động vốn và các vấn đề về vốn:
1.1.Vốn tự có:
1.1.1.Khái niệm:
Về mặt kinh tế, vốn tự có là vốn riêng của Ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp và nó
còn được tạo ra trong qúa trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại.
Vốn tự có cơ bản bao gồm vốn điều lệ (vốn ngân sách cấp, vốn cổ phần thường, vốn cổ
phần ưu đãi vĩnh viễn), quỹ dự trữ, dự phòng, lợi nhuận không chia và các khoản khác (các tài
sản nợ khác theo qui định của NHNN).
Với nền kinh tế thị trường, vốn tự có là cơ sở hình thành pháp lý kinh doanh cho các
doanh nghiệp, đồng thời cũng là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản
nợ đối với khách hàng. Với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, vốn tự có còn là yếu tố có ý nghĩa quyết
định sống còn đến sự hình thành và phát triển lâu dài của Ngân hàng. Giai đoạn từ năm 2006 cho
đến nay đã chứng kiến việc đua nhau tăng vốn của các Ngân hàng cổ phần, nhất là khối các
NHTMCP trong nước.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, mặc dầu vốn tự có bình quân của các NHTMCP có tăng
nhưng kết quả việc tăng vốn vẫn chưa đáp ứng hết được những mong đợi của các Ngân hàng.
Việc tăng vốn tự có nhanh trong một khoảng thời gian ngắn mà không kèm theo những thay đổi
chưa chắc đã giúp các NHTMCP nâng cao vị thế và tạo ra những ảnh hưởng tốt đến các quyết
định của thị trường, ngược lại có thể tạo thêm nhiều nguy cơ rủi ro tiềm ẩn lớn hơn. Để rõ hơn về
thực trạng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, dưới đây là một số kết quả đã đạt được của các
NHTM trong thời gian qua, bên cạnh đó là những mặt còn hạn chế và giải pháp để từng bước
khắc phục những hạn chế đó.
1.1.2.Thực trạng:
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, tính đến 31/7/2012 có số liệu
Nhóm 2 Page 6
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam

Tổng tài sản, vốn tự có, vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng qua các tháng năm 2012 - Nguồn:
Ngân hàng Nhà nước
=>Vốn tự có của các tổ chức tín dụng có xu hướng giảm. Cụ thể, tính đến ngày 30/4/2012, vốn
tự của các tổ chức tín dụng đạt 414.153 tỷ đồng, sau 1 tháng tăng thêm hơn 19.000 tỷ đồng lên
433.519 tỷ đồng vào ngày 31/5. Tuy nhiên, đến ngày 31/7, con số này lại giảm về 416.322 tỷ
đồng.
Vốn tự có của các nhóm tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Chính sách xã hội) tính
đến 31/7/2012 (đơn vị: tỷ đồng) - Nguồn: Ngân hàng Nhà nước.
=>Có thể thấy vốn tự có của Ngân hàng thương mại nhà nước và Ngân hàng thương mại cổ phần
là chiếm đa số trong tổng vốn.
V à điểm đáng nổi bật trên thị trường tài chính thời gian qua là Nghị định 141/2006/NĐ-
CP, đến cuối năm 2010 vốn điều lệ của các NHTM CP phải đạt 3.000 tỷ đồng. Các tổ chức tín
dụng (TCTD) đều rất nỗ lực để hoàn thành việc tăng vốn điều lệ theo đúng lộ trình quy định của
Nhóm 2 Page 7
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Chính phủ. Tuy nhiên, quá trình tăng vốn điều lệ đã chịu tác động của một số nguyên nhân khách
quan như bối cảnh nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng chưa có dấu hiệu thực sự khả quan.
Bên cạnh đó, việc Chính phủ có chủ trương hạn chế các Tổng công ty, doanh nghiệp Nhà
nước góp vốn ra ngoài lĩnh vực chính cũng là một khó khăn lớn cho các TCTD cổ phần có cổ
đông hiện hữu là các Tổng công ty, doanh nghiệp Nhà nước khi thực hiện tăng vốn điều lệ.
Ngoài ra, một số TCTD cổ phần đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán cũng gặp phải
một số quy định về thời gian khi phát hành cổ phiếu ra công chúng mà không thể hoàn tất việc
tăng vốn điều lệ đúng thời hạn quy định.
Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận đề xuất giãn lộ trình tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ
đồng đối với các ngân hàng thương mại đến 31-12-2011 theo như đề xuất của ngân hàng Nhà
nước.
Cho đến thời điểm có quyết định gia hạn, có khoảng 17 trên tổng số hơn 40 Ngân hàng và
các tổ chức tín dụng vẫn chưa thể hoàn thành mục tiêu tăng vốn điều lệ theo Nghị định 141. Mặc
dù lộ trình tăng vốn điều lệ của các Ngân hàng đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận ngay từ
cuối tháng 9, vẫn có khá nhiều nguyên nhân khiến việc thực hiện kế hoạch gặp nhiều khó khăn ở

một số Ngân hàng.
Để tăng vốn điều lệ, các Ngân hàng chủ yếu huy động từ 3 nguồn chính: phát hành ra
công chúng qua thị trường chứng khoán, phát hành cho các cổ đông hiện hữu và phát hành cho
các cổ đông chiến lược nước ngoài.
Tuy nhiên, bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước khiến thị trường chứng khoán trong những
năm trồi sụt và ảm đạm, các cổ đông hiện hữu là các tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước hay
Ngân hàng lớn của nhà nước bị hạn chế góp vốn cho các hoạt động ngoài lĩnh vực chính, thậm
chí còn bị yêu cầu thoái vốn từ các tổ chức tài chính, trong khi kinh tế thế giới phục hồi chậm lại
khiến sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài không còn mặn mà.
Các nguồn huy động này còn đặc biệt khó khăn hơn nữa đối với các Ngân hàng nhỏ, chưa
có thương hiệu và còn đang gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Ước tính còn khoảng 10
nghìn tỷ đồng mà các Ngân hàng này cần phải huy động thêm nếu muốn thực hiện đúng quy
định, điều mà khó có thể hoàn thành trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại của năm 2010.
Rõ ràng, việc giãn thời gian tăng vốn điều lệ là không thể tránh khỏi, nếu Ngân hàng Nhà
nước không muốn những biến động khó kiểm soát trong hệ thống tài chính trong bối cảnh kinh
tế vĩ mô trong nước năm 2010 vẫn chưa ổn định.
Ví dụ, ở thời điểm hiện tại, việc sát nhập những Ngân hàng nhỏ và năng lực điều hành
kém có thể sẽ là giải pháp mang lại nhiều xáo trộn, Ngân hàng Nhà nước khó giám sát phòng
ngừa và ngăn chặn rủi ro.
Nhóm 2 Page 8
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Vậy, việc gia hạn thêm thời gian cho các NHTM hoàn thành lộ trình tăng vốn điều lệ theo
Nghị định là một việc làm mang lại lợi ích hay gây khó khăn cho các NHTM? Để trả lời cho câu
hỏi đó, ta cần xét đến tác động của nó trong ngắn hạn và dài hạn.
Trước hết, trong ngắn hạn, tác động dễ thấy nhất của quyết định gia hạn trên thị trường
chứng khoán là do không còn áp lực tăng vốn, hiện tượng phát hành ồ ạt thêm cổ phiếu hoặc trả
cổ tức bằng cổ phiếu của các Ngân hàng và áp lực bán tháo cổ phiếu Ngân hàng để cổ đông có
tiền cho những đợt tăng vốn sẽ không còn.
Ngoài ra, những dòng vốn từ công chúng hay cổ đông hiện hữu, thay vì phải được huy
động vào hệ thống Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu tăng vốn điều lệ, thì nay có thể tìm đến thị

trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Cộng với tâm lý không còn quá bi quan với cổ phiếu
ngành Ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, thị trường chứng khoán trong ngắn
hạn sẽ hưởng lợi từ việc hoãn hạn chót tăng vốn.
Mặc dù các Ngân hàng vẫn phải tăng vốn cho đến 31/12/2011, nhưng với số vốn bổ sung
thêm chỉ còn 10 nghìn tỷ đồng, hiện tượng cổ phiếu ngành Ngân hàng bị pha loãng có thể sẽ
không tái diễn, khi các Ngân hàng có tới một năm để thu xếp các nguồn vốn cần thiết, trong kỳ
vọng chính sách tiền tệ có thể không còn quá thắt chặt vào quý 2 năm 2011.
Trong khi đó, các Ngân hàng quy mô nhỏ có thể quẳng gánh lo tăng vốn điều lệ trong
ngắn hạn để tập trung khả năng và nguồn lực để giải quyết những vấn đề nội tại như đảm bảo các
điều kiện an toàn theo Thông tư 13, đảm bảo thanh khoản cho thời điểm cuối năm và giáp Tết,
hoàn thành các chỉ tiêu tín dụng và lợi nhuận và củng cố khả năng cạnh tranh trong bối cảnh lãi
suất gia tăng.
Một phần nguồn tiền của các cổ đông hiện hữu, bên cạnh đầu tư vào thị trường chứng
khoán, cũng có thể tìm đến hệ thống Ngân hàng như những khoản đầu tư tiết kiệm, và theo đó,
sức ép thanh khoản đáp ứng nhu cầu vốn cuối năm của hệ thống sẽ được giảm nhẹ, cuộc đua lãi
suất có thể vì thế mà bớt đi căng thẳng.
Tuy nhiên, việc hoãn tăng vốn điều lệ đến một năm có thể phải trả giá trong dài hạn.
Không phải vô cớ mà Ngân hàng Nhà nước muốn các Ngân hàng thương mại tăng vốn điều lệ
năm 2010 là 3.000 tỷ đồng, và có lộ trình tăng lên 5 nghìn tỷ (năm 2012) và 10 nghìn tỷ (năm
2015).
Một hệ thống tài chính gồm quá nhiều Ngân hàng quy mô nhỏ, năng lực tài chính yếu
luôn là một rủi ro đến an toàn hệ thống. Những hiện tượng như cuộc đua lãi suất bắt nguồn từ
những Ngân hàng nhỏ do tình trạng khát vốn, cho vay lãi suất cao trong khi khả năng quản trị
điều hành kém, vay ngắn hạn trên thị trường liên Ngân hàng để cho vay dài hạn và đẩy lãi suất
liên Ngân hàng tăng cao là những ví dụ cho thấy việc tồn tại song song những Ngân hàng có
quy mô khác biệt lớn có thể gây bất ổn đến hệ thống như thế nào.
Nhóm 2 Page 9
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Việc trì hoãn tăng vốn trong vòng 1 năm tới cũng đồng nghĩa với việc những hiện tượng
trên nhiều khả năng sẽ còn tiếp tục tái diễn, và theo đó, nỗ lực giảm lãi suất và bình ổn thị trường

vốn sẽ còn gặp rất nhiều cam go.
Ngoài ra, quy định hệ số an toàn vốn CAR trong Thông tư 13 sẽ tiếp tục là cản trở các
Ngân hàng không thể tăng mạnh được tài sản đã điều chỉnh rủi ro, nếu phần tử số - vốn tự có -
vẫn ở quy mô thấp.
Do đó, mức lãi suất đầu ra ở các Ngân hàng, đặc biệt các Ngân hàng nhỏ, sẽ tiếp tục gặp
khó trong quá trình điều chỉnh giảm. Hơn nữa, động thái gia hạn thêm với thời gian tương đối dài
là không cần thiết, khi các Ngân hàng nhỏ đã có rất nhiều nỗ lực để tăng vốn điều lệ trong suốt
năm qua, và số vốn mà các Ngân hàng còn thiếu thực ra không quá lớn, nếu có với quy mô và
khả năng của cả hệ thống tài chính.
Và cuối cùng nhưng chắc chắn chưa phải là hồi kết, những quan ngại “kinh niên” về tính
nhất quán và hiệu lực của các quy định hay chính sách của Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ám ảnh
thị trường. Niềm tin, điều tối quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả và theo đó
ảnh hưởng đến ổn định trong dài hạn, vẫn tiếp tục là điều phải chờ đợi.
Vấn đề cơ bản của quy định về vốn điều lệ của một Ngân hàng không hẳn ở chỗ một nền
kinh tế có quá nhiều hay quá ít Ngân hàng, hay Ngân hàng quá nhỏ. Mấu chốt của vấn đề vốn
điều lệ là đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính, nên việc tăng vốn theo quy định cần thực hiện
đồng bộ với các giải pháp như phân loại và quản lý nợ theo chuẩn mực quốc tế thì mới đạt mục
đích đề ra.
Một hệ thống tài chính an toàn khi các Ngân hàng có hệ số an toàn vốn (CAR – capital
adequacy ratio) cao, nói cách khác có đủ vốn để “chịu trận” khi lỗ. Nếu vốn thấp mà lỗ nặng,
Ngân hàng sẽ phá sản và vì đặc thù của loại hình kinh doanh này sẽ rất dễ kéo toàn hệ thống sụp
đổ theo, liên luỵ cho cả nền kinh tế.
Hệ số an toàn vốn (vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro, capital adequacy ratio – CAR) là một
chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài chính của các Ngân hàng. Chỉ tiêu này được dùng để
xác định khả năng của Ngân hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với
các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành.
Điều quan trọng là hệ số này phụ thuộc vào hai yếu tố: tử số là vốn điều lệ và mẫu số là
tổng tài sản. Như vậy để tăng độ an toàn cho một Ngân hàng hay toàn bộ hệ thống, nhà quản lý
hoặc chặn không cho Ngân hàng tăng tổng tài sản quá cao hoặc yêu cầu Ngân hàng phải tăng
vốn. Việc NHNN yêu cầu các Ngân hàng tăng vốn tối thiểu lên 3.000 tỉ đồng có thể coi là một vế

của kế hoạch tăng hệ số an toàn vốn cho toàn hệ thống, nhưng chỉ yêu cầu tăng vốn điều lệ tối
thiểu là không đủ và có thể còn làm tăng rủi ro.
+ Thứ nhất, nếu Ngân hàng tăng vốn điều lệ đồng thời tăng tổng tài sản thì hệ số an toàn
vốn có thể không tăng. Đây là khả năng rất dễ xảy ra vì một Ngân hàng khi đi huy động vốn điều
lệ họ không thể nói tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của Ngân hàng này sẽ giảm,
Nhóm 2 Page 10
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
như thế không ai bỏ tiền mua cổ phiếu của Ngân hàng đó. Để ROE không giảm trong khi hệ số
an toàn vốn tăng, Ngân hàng buộc phải tăng tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), một điều
không dễ trong hoàn cảnh hoạt động Ngân hàng ở Việt Nam còn rất khó khăn như hiện nay. Liệu
có ai tin một Ngân hàng không mấy tên tuổi có ROA cao hơn hẳn mặt bằng chung của toàn hệ
thống? Ngược lại, để thu hút nhà đầu tư trong khi hàng loạt Ngân hàng đang phải cạnh tranh
nhau huy động vốn, các Ngân hàng nhỏ sẽ phải quảng cáo ROE cao, cổ tức cao, bằng cách âm
thầm giảm bớt hệ số an toàn vốn (tăng đòn bẩy – leverage). Nghĩa là cuộc chạy đua tăng vốn
điều lệ sẽ làm hệ thống Ngân hàng rủi ro hơn.
+ Thứ hai, vấn đề phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu đó của
các Ngân hàng vẫn còn khoảng cách so với chuẩn mực quốc tế. Cứ giả sử NHNN thành công
trong việc tăng hệ số an toàn vốn của toàn hệ thống, nhưng nếu nợ xấu vẫn được giấu kỹ ở đâu
đó thì hệ số an toàn vốn mà các Ngân hàng báo cáo chỉ là số ảo, con số thực sẽ thấp hơn nhiều và
rủi ro tiềm ẩn cao hơn nhiều. Tạm thời bỏ qua các khoản nợ xấu trong lịch sử, việc yêu cầu tăng
vốn điều lệ sẽ buộc các Ngân hàng phải chạy đua tăng ROE/ROA như đề cập ở trên để cạnh
tranh thu hút vốn. Trường hợp này rủi ro nợ xấu sẽ tăng lên, do vậy không giải quyết được vấn
đề phân loại và theo dõi nợ xấu. Yêu cầu tăng vốn điều lệ (để tăng hệ số an toàn vốn) do đó
không giải quyết được bài toán an toàn cho hệ thống.
Và trên thực tế, thì tình trạng nợ xấu của các ngânh hang ngày càng trở nên nghiêm trọng
và điều đó làm ảnh hưởng đến việc tăng vốn điều lệ của các ngân hàng. Cụ thể:
Theo số liệu của Agribank, BIDV , Vietcombank và Vietinbank, tổng nợ xấu đến cuối năm 2012
của 4 ngân hàng này là hơn 46.600 tỷ đồng.
Nhóm 2 Page 11
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam

=> Nợ xấu của toàn ngành ngân hang ngày càng tăng đến tháng 5 năm 2012 tỷ lệ nợ xấu
(10,00%) gấp gần 4,63 lần so với tháng 12 năm 2012 ( 2,16%)
+ Thứ ba, khi các Ngân hàng không đáp ứng đủ điều kiện về vốn điều lệ, thì buộc phải
sáp nhập. Về mặt số học, đây là giải pháp sai lầm vì hai Ngân hàng có hệ số an toàn vốn thấp sau
khi sáp nhập hệ số này không thể tăng dù vốn điều lệ tăng. Kể cả nếu bỏ qua hệ số an toàn vốn,
liệu rủi ro hệ thống có giảm đi khi các Ngân hàng nhỏ sáp nhập lại với nhau không? NHNN lập
luận rằng với số Ngân hàng ít đi họ sẽ giám sát chặt chẽ hơn và bản thân các Ngân hàng sẽ cẩn
thận hơn và điều hành tốt hơn là những Ngân hàng nhỏ manh mún hiện nay. Trước hết cần xác
định, Ngân hàng càng lớn thì hoạt động và sản phẩm càng phức tạp, NHNN sẽ càng khó giám sát
và kiểm tra để phòng ngừa hay ngăn chặn rủi ro. Ngoài vấn đề quá lớn để thất bại (too-big-to-
fail), nhiều nhà kinh tế như Krugman, Johnson đã cảnh báo hiện tượng “quá lớn để quản lý”
(too-big-to-regulate). Nghĩa là Ngân hàng lớn sẽ có nhiều cách để “lách luật”, hoặc tệ hơn nữa là
tìm cách ảnh hưởng tới quá trình làm luật và các chính sách để có lợi cho mình.
Lập luận cho rằng các Ngân hàng nhỏ hiện nay thiếu chuyên môn và hoạt động quá liều lĩnh có
một phần chính xác. Tuy nhiên giải pháp sáp nhập các Ngân hàng nhỏ và/hoặc buộc tăng vốn
điều lệ không giải quyết được nguyên nhân căn bản. Chuyên môn và nghiệp vụ Ngân hàng
không phải là điều quá khó để các Ngân hàng nhỏ có thể học được (với sự giúp đỡ của NHNN).
Việc điều hành những Ngân hàng nhỏ có 1 – 2 chi nhánh đơn giản hơn nhiều so với một Ngân
hàng lớn có chi nhánh toàn quốc và cả ở nước ngoài. Việc tăng chuyên môn phụ thuộc vào sự
đào tạo, giúp đỡ, giám sát của NHNN nhiều hơn là vào việc sáp nhập. Các Ngân hàng nhỏ sau
Nhóm 2 Page 12
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
khi sáp nhập với nhau không có nghĩa đội ngũ nhân viên và lãnh đạo tự nhiên có trình độ chuyên
môn tăng lên.
Và tới thời điểm hiện nay thì nhiều ngân hang nhỏ do không đủ vốn đã phải sáp nhập với nhau
như:
• Cuối năm 2011, hợp nhất 3 ngân hàng là SCB, TinNghiaxBank, FicomBank thành Ngân
hàng TMCP Sài Gòn (SCB)
• Ngân hàng Habubank sáp nhập vào SHB
• Và mới nhất là tin tức về khả năng hợp nhất giữa ngân hàng Eximbank và Sacombank

+ Thứ tư, điểm cuối cùng và không kém phần quan trọng, cần phải xác định đâu là
nguyên nhân chính khiến các Ngân hàng nhỏ hoạt động quá rủi ro (ví dụ chạy đua lãi suất hay
vay ngắn hạn trên thị trường liên Ngân hàng để cho vay dài hạn). Đó không phải là vì họ nhỏ và
thiếu chuyên môn mà đó là hậu quả tất yếu của việc các Ngân hàng quốc doanh và một vài Ngân
hàng lớn được hưởng nhiều ưu đãi (vô tình hay cố ý) nên các Ngân hàng nhỏ không còn cách
nào khác là phải liều lĩnh hơn để đạt được ROE như đã hứa với các cổ đông.
Tỷ trọng vốn tự có/tổng tài sản của các Ngân hàng thương mại nhìn chung còn thấp chỉ
đạt trên dưới 5%. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và đảm bảo phòng ngừa rủi ro
trong kinh doanh thì các Ngân hàng thương mại nên tăng tỷ lệ này lên khoảng từ 8% - 10 % là
hợp lý.
Mặt khác vốn tự có/ nợ phải trả cho ta biết được cán cân vốn_nợ của Ngân hàng. Khi các
Ngân hàng sử dụng các biện pháp tăng vốn, huy động vốn sẽ gây ra sự mất cân đối cán cân này.
Nếu tỷ lệ vốn tự có/nợ phải trả quá cao thì tức là Ngân hàng đang kinh doanh phần lớn
bằng nguồn vốn của mình, khá độc lập với thị trường vốn, nhưng nếu như vậy lại dẫn đến chi phí
sử dụng vốn cao vì không tận dụng được vốn của người khác để kinh doanh.
Nếu vốn tự có/nợ phải trả thấp tức là Ngân hàng phụ thuộc khá nhiều vào thị trường vốn
dẫn đến sức ép của nợ nần, tăng rủi ro cho hoạt động kinh doanh. Song nếu quản lý và sử dụng
tốt nguồn vốn vay thì sẽ mang lại khoản lợi nhuận lớn.
1.2.Vốn pháp định:
1.2.1. Khái niệm:
Theo quy định tại Điều 4 Luật Doanh nghiệp (2005) thì khái niệm vốn pháp định được
hiểu là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp. Điều
này có nghĩa là Nhà nước sẽ đặt ra mức sàn tối thiểu về vốn đối với một số ngành nghề cụ thể và
nhà đầu tư phải đáp ứng số vốn đó từ bằng hoặc lớn hơn mức mà nhà nước đặt ra thì mới được
thành lập doanh nghiệp và hoạt động trong ngành nghề đó.
Quy định về vốn pháp định là việc làm cần thiết để nhằm tạo ra sự an toàn cho xã hội và
đảm bảo trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp trước đối tác và chủ nợ. Vì thực chất những ngành
nghề như kinh doanh tiền tệ – tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán trên thế
Nhóm 2 Page 13
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam

giới nhiều quốc gia cũng đã và đang áp dụng mức vốn pháp định, cho nên ở Việt Nam cũng
không là ngọai lệ.
1.2.2. Thực trạng:
Theo Nghị định 10/2011/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về ban hành Danh mục mức vốn pháp định của
các tổ chức tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sẽ
phải có biện pháp bảo đảm số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức
vốn pháp định theo quy định, chậm nhất vào ngày 31/12/2011, thay cho quy định cũ thời hạn này
là ngày 31/12/2010.
Với các Ngân hàng thương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm 2011 là 3.000
tỷ đồng; chi nhánh Ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với Ngân hàng chính sách, Ngân
hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng; Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng hợp tác và quỹ tín dụng Nhân
dân Trung ương là 3.000 tỷ đồng; với công ty tài chính là 500 tỷ đồng; công ty cho thuê tài chính
là 150 tỷ đồng.
Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP, các NHTM có thời gian 4 năm để thực hiện việc tăng
vốn điều lệ với 2 giai đoạn cụ thể (giai đoạn 1 kết thúc 31/12/2008 và giai đoạn 2 kết thúc
31/12/2012
Nhóm 2 Page 14
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Nhóm 2 Page 15
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Tuy nhiên, quá trình tăng vốn điều lệ đã chịu tác động của một số nguyên nhân khách
quan, khiến việc tăng vốn điều lệ từ các nguồn khác nhau của nhiều NHTM trong nước gặp phải
một số khó khăn.
Vì vậy, việc gia hạn thời gian tăng vốn điều lệ cho các NHTM đến 31/12/2011 là một
trong những chủ trương đúng đắn. Bởi sẽ giảm bớt áp lực về thời gian tăng vốn cho các NHTM
chưa thể tăng đủ ngay mức vốn pháp định, nhưng đảm bảo có sự công bằng đối với những
NHTM thời gian qua đã nỗ lực tăng vốn để đảm bảo đủ mức vốn pháp định theo chỉ đạo của
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước.
Dù được gia hạn việc nâng vốn pháp định lên 3.000 tỉ đồng thêm một năm nữa nhưng kết

thúc năm 2010 (31-12), nhiều Ngân hàng thương mại vẫn nâng vốn pháp định đảm bảo quy định
pháp luật.
Như Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VIETBANK) đến ngày 30-12 mới chính
thức hoàn thành các thủ tục pháp lý tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ đồng.
VIETBANK cho biết việc tăng vốn điều lệ này được thực hiện theo công văn chấp thuận
tăng vốn lên 3.000 tỉ đồng của Ngân hàng Nhà nước ngày 21-9 và nằm trong kế hoạch của Ngân
Nhóm 2 Page 16
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
hàng theo đúng lộ trình. Không chỉ có VIETBANK mà Đại Á và Tiên Phong cũng nâng vốn
đúng thời hạn.
Các Ngân hàng trên cho biết dù được gia hạn thời gian thêm 12 tháng nhưng có ít Ngân
hàng ỉ lại và nhiều Ngân hàng vẫn hoàn thành việc tăng vốn theo đúng lộ trình (31-12-2010).
Việc tăng vốn như quy định nhằm nâng cao năng lực tài chính cũng như vị thế cạnh tranh trong
những năm tới.
Và quan trọng, là vẫn đảm bảo tiếp tục duy trì mục tiêu tăng vốn điều lệ để nâng cao
năng lực tài chính của các NHTM, tiếp tục khuyến khích các NHTM tăng vốn điều lệ để sớm đạt
được mức vốn pháp định.
1.3.Huy động vốn và lãi suất huy động:
1.3.1.Thực trạng:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho
vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Hầu hết các Ngân hàng
thương mại chỉ có từ 20-30 % là vốn tự có, còn lại là vốn đi vay.Vì vậy, việc thu hút vốn là vấn
đề hàng đầu của các Ngân hàng thương mại và vốn cũng là một câu hỏi lớn nhất của nền kinh tế
Việt Nam.
Nhóm 2 Page 17
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng nguồn vốn đầu tư khá cao, tuy nhiên tỷ trọng nguồn vốn
trung và dài hạn lại thấp, mà chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn.
=>Huy động vốn trên thị trường 1 thì đang có xu hướng giảm, còn thị trường 2 thì tăng => việc

huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế đang ngày càng gặp khó khăn nhưng nó vẫn là
kênh huy động vốn chủ yếu của các ngân hàng
Có nhiều hạn chế gây khó khăn trong việc huy động vốn của cac NHTM, trước hết là về phía bản
thân các NHTM.
Thứ nhất, mức độ cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng cao.
Việc huy động vốn của các NHTM phải cạnh tranh với các kênh thu hút vốn khác như tiết kiệm
bưu điện, bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư bất động sản, đầu tư cổ phiếu, trái phiếu trên thị
trường tài chính.
Thứ hai, nội lực của chính các Ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế,
trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực.
Công nghệ Ngân hàng hiện đại và dịch vụ tuy đã có bước phát triển, nhưng vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu.
Nhóm 2 Page 18
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Hệ thống dịch vụ Ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định
hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ Ngân hàng truyền thống. Các Ngân hàng huy
động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động.
Chưa có sự phân đoạn thị trường để có những sản phẩm huy động vốn, sản phẩm dịch vụ
riêng cho từng nhóm khách hàng riêng biệt. Một chính sách Marketing tốt phải đưa ra chiến lược
quản lý khách hàng, trong đó việc thực hiện phân đoạn thị trường theo các tiêu chí như vùng địa
lý, các yếu tố nhân khẩu học, các yếu tố tâm lý, các yếu tố thuộc thói quen hành vi… Không phải
mọi khách hàng đều có nhu cầu như nhau đối với các dịch vụ Ngân hàng và mang lại lợi nhuận
như nhau cho Ngân hàng, nên cần có sự phân đoạn để có những chính sách chăm sóc khách hàng
phù hợp. Các sản phẩm hiện nay mà các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng cung cấp ra thị
trường mang tính chất đại trà cho tất cả các khách hàng, không có sự phân biệt tới từng nhóm đối
tượng.
Thứ ba, dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ
này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định.
Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ Ngân hàng đã khiến các Ngân hàng
thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng

Lãi suất là một trong những công cụ để các NHTM thu hút vốn, tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ
có tác dụng ở mức giới hạn nhất định. Sức ép cạnh tranh đã khiến các Ngân hàng gần như đồng
loạt công bố tăng lãi suất huy động vốn. Đáng lo ngại trước tình trạng lãi suất đang chạm sát với
giới hạn sinh lãi, khả năng an toàn các các Ngân hàng và tác động tới tăng trưởng kinh tế. Cạnh
tranh trong việc thu hút vốn đã tạo ra cuộc chạy đua lãi suất trên thị trường nhằm giảm bớt
những nguy cơ rủi ro thanh khoản đang có chiều hướng gia tăng.
Nhiều NHTM đã liên tục tăng lãi suất với tần suất thay đổi có khi tới 3 đến 4 lần/tuần, và
không chỉ diễn ra ở các NHTM cổ phần nhỏ mà còn đối với cả các NHTM cổ phần hàng đầu và
các NHTM Nhà nước.
NHNN cho biết, thời gian gần đây lãi suất huy động của các NHTM CP có mức điều chỉnh tăng
từ 0,2-0,5%/năm. Các NHTM Nhà nước cũng có mức điều chỉnh tăng từ 0,1-0,3%/năm. Lãi suất
huy động USD tăng khoảng từ 0,2-0,4%/năm, tập trung chủ yếu ở nhóm NHTM cổ phần.
Theo nhìn nhận của các chuyên gia, hiện lãi suất huy động vốn mà các NHTM đang áp
dụng là quá cao, ngay cả khi lạm phát ở mức 10%. Thông thường các NHTM chỉ nên đưa ra mức
lãi suất huy động bảo đảm nguyên tắc lãi suất dương, có lợi cho người gửi tiền là được.
Tuy nhiên, quan trọng hơn là nguyên tắc lãi suất dương cần được thực hiện phù hợp với
thực tế thị trường để tạo cơ sở bảo đảm cho thị trường tín dụng tăng trưởng trong thế ổn định. Đó
chính là lý do vì sao Hiệp hội Ngân hàng đã đưa ra và kêu gọi đồng thuận với mức lãi suất trần
huy động là 12%/năm vào những tháng đầu năm 2010. Nhưng diễn biến lãi suất, cả huy động và
cho vay hiện nay, lại không theo cái "lẽ phải thông thường" đó. Biểu hiện bất thường, ẩn chứa
nhiều bất ổn của lãi suất có thể thấy ở hai khía cạnh lớn của vấn đề. Thứ nhất là nhiều NHTM,
Nhóm 2 Page 19
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
tuy chỉ niêm yết mức lãi suất huy động 12%/năm, nhưng cộng thêm các chi phí khuyến mãi
(bằng cả thưởng tiền "nóng", thưởng lãi suất…) khiến lãi suất huy động trong thực tế đã vượt xa
niêm yết. Có Ngân hàng thực hiện ghi lãi suất huy động trên sổ chỉ 12%/năm, nhưng lại kèm
theo cam kết bằng văn bản trả thêm 3% lãi suất cho món tiền gửi đó khi đáo hạn. Tình trạng
khuyến mãi huy động không chỉ diễn ra đối với NHTM nhỏ, mà ở cả các NHTM lớn. Thứ hai là
có một số NHTM công khai "vượt trần" lãi suất huy động 12%/năm.
Trường hợp “xé rào" đầu tiên là NHTM CP Sài Gòn (SCB). Từ ngày 7/4/2008, SCB đã

triển khai kế hoạch phát hành 3.000 tỷ đồng kỳ phiếu kéo dài cho tới 4/6/2008. Kỳ phiếu có thời
hạn 270 ngày và 360 ngày, với lãi suất trả trước là 1%/tháng, tương đương 12%/năm. Như vậy
lãi suất thực khách hàng được trả khi mua kỳ phiếu lên tới trên 13%/năm. Đặc biệt là khách hàng
còn được khuyến mại thông qua tham gia chương trình quay số dự thưởng của SCB với tổng trị
giá giải thưởng là 2,5 tỷ đồng; trong đó có giải đặc biệt là 2kg vàng SJC trị giá hơn 1 tỷ đồng,
kèm theo rất nhiều giải khác có giá trị.
NHTM CP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) cũng triển khai chương trình tiết kiệm nhận ngay
tiền lãi, với 7 loại gửi tiết kiệm đồng Việt Nam kỳ hạn từ 1 tháng đến 6 tháng trả lãi trước là
10,5%/năm; các kỳ hạn từ 7 đến 13 tháng cũng trả lãi trước, với lãi suất 11,0%/năm. Nhìn bề
ngoài thì lãi suất của SHB thực hiện theo đúng thoả thuận giữa các NHTM thành viên do Hiệp
hội Ngân hàng chủ trì, nhưng do lãi trả trước nên tính thực ra lãi suất khách hàng được hưởng lên
tới 12%/năm.
Một số NHTM cổ phần quy mô nhỏ khác, hay NHTM CP nông thôn, NHTM CP nông
thôn mới chuyển lên thành NHTM CP đô thị cũng cho biết đang chuẩn bị điều chỉnh lãi suất huy
động vốn đồng Việt Nam lên trên 11%/năm. Các NHTM CP này kêu ca rằng họ đang ở vào thế
bất lợi so với các NHTM NN và NHTM CP quy mô lớn, quy mô khá, do đó vốn huy động từ khi
áp dụng trần lãi suất thỏa thuận không tăng, thậm chí cá biệt có Ngân hàng còn giảm.
NHTM CP nào cũng vì lợi ích kinh doanh của mình, của cổ đông. Thêm vào đó, lãi suất
trần huy động vốn tối đa chỉ mang tính thỏa thuận giữa các thành viên do Hiệp hội Ngân hàng,
không mang tính ràng buộc, không phải là quy định của cơ quan quản lý Nhà nước, tức là không
có tính pháp lý và không có chế tài xử phạt. Nên việc thực hiện đúng các thỏa thuận đó là điều
khó có thể đảm bảo.
Thực tế đã chứng minh, trong quá trình hoạt động cũng đã nảy sinh nhiều diễn biến phức
tạp như đã trình bày, khiến 2 tháng cuối năm hoạt động của thị trường tín dụng dường như đã có
lúc nằm ngoài tầm với của chính sách kinh tế. Lại một lần nữa vấn đề lãi suất thực dương đã
được các chuyên gia kinh tế đưa ra.
Việc các NHTM đồng loạt tăng lãi suất đang gây ra nhiều lo ngại. Đại diện một NHTM
phân tích, lãi suất huy động USD tăng cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của cả doanh
nghiệp và Ngân hàng. Bởi khi lãi suất huy động tăng thì lãi suất cho vay khách hàng cũng phải
tăng. Điều này sẽ khiến chi phí của doanh nghiệp đội lên cao, gây áp lực tăng giá, một trong

những nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Cứ như thế, lạm phát tăng buộc các Ngân hàng lại phải
Nhóm 2 Page 20
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
tăng lãi suất huy động để đảm bảo thực dương. Đồng thuận với việc cần đảm bảo lãi suất thực
dương là câu hỏi: Vậy lãi suất thực dương ở mức nào thì hợp lý? Lo ngại lớn nhất sau khi lãi suất
huy động USD lên cao chính là việc tỷ giá VND/USD sẽ chịu nhiều áp lực. Bởi khi lãi suất USD
tăng cũng đồng nghĩa với việc USD lên giá, khi đó VND bị coi là giảm giá so với USD. Điều
này sẽ gây ra nhiều phản ứng tiêu cực trên thị trường tiền tệ đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế
đang có nhiều biến động hiện nay.
Lãi suất là giá cả của đồng vốn trong nền kinh tế. Một khi lãi suất huy động vốn cao sẽ
dẫn đến lãi suất cho vay cao làm hạn chế nhu cầu vay vốn của các đối tượng sản xuất kinh
doanh, ảnh hưởng tới tăng trưởng chung của nền kinh tế và tạo thêm việc làm mới trong xã hội.
Mặt khác lãi suất cho vay vốn của NHTM ở mức cao làm tăng chi phí đầu vào, tăng chi phí sử
dụng vốn vay của DN, hộ sản xuất kinh doanh, tăng giá thành của sản phẩm và dịch vụ, tăng giá
bán trên thị trường, tác động ngược chiều đến kiềm chế lạm phát.
Sau những ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống kinh tế của cuộc chay đua lãi suất, cuối năm
2010, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận và cùng với các biện pháp
điều hành tiền tệ linh hoạt lãi suất huy động và cho vay VND của các Ngân hàng thương mại
giảm dần (mức giảm khoảng 1%). Hiện nay, các Ngân hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy
động VND không vượt quá 14%/ năm.
Thứ tư, những NHTM trong nước hiện đang nắm giữ khoảng gần 90% thị phần. Nhưng
đây không phải là lợi thế của chúng ta mà chỉ là kết quả tất yếu của sự bảo hộ trong suốt thời
gian qua.
Bên cạnh những hạn chế của bản thấn các NHTM, cũng phải kể đến những hạn chế
khách quan từ môi trường vĩ mô.
Chính sách nhà nước về cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (trong đó có
NHTMNN) còn chậm và nhà nước còn can thiệp vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Yếu tố giá cả tăng mạnh trong 2 năm gần đây gây ra tâm lý e ngại gửi tiền: Người dân e
ngại gửi tiền VND dài hạn vào hệ thống Ngân hàng, dẫn đến việc người dân chuyển sang đầu tư
vào bất động sản, hoặc tích trữ dưới dạng USD và vàng.

Về phía khách hàng, tốc độ tăng trưởng kinh tế dù được duy trì ở mức cao trong nhiều
năm nhưng thu nhập quốc dân bình quân đầu người vẫn còn thấp, tiết kiệm và tích lũy trong dân
cư tuy đã tăng nhưng còn ở mức khiêm tốn và dân cư vẫn chưa thực sự tin tưởng khi gửi tiết
kiệm.
Chẳng hạn như: Nguồn vốn huy động của các Ngân hàng chỉ tập trung ở đô thị. Trong khi
đó, thị trường nông thôn còn bỏ ngỏ, nhưng nơi đây nguồn vốn có nhiều tiềm năng, nhất là mấy
năm gần đây nông thôn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhiều trang trại, các hộ nuôi thủy sản, trồng
cây ăn trái đặc sản, chăn nuôi mỗi năm thu nhập hàng trăm triệu đồng và thậm chí cả tỷ đồng.
Nhóm 2 Page 21
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Có khoản tiền lớn trong tay, họ xây dựng nhà, mua sắm phương tiện sinh hoạt, mua vàng cất
trữ, không gởi tiền vào Ngân hàng nhưng đến khi cần vốn đầu tư cho sản xuất lại tiếp tục vay
Ngân hàng. Như tỉnh Trà Vinh có hơn 2.300 trang trại vay Ngân hàng gần 200 tỉ đồng, có nhiều
trang trại lãi ròng hàng trăm triệu nhưng hỏi ra không có mấy trang trại gởi tiền tiết kiệm Ngân
hàng. Không chỉ riêng Trà Vinh mà là thực trạng chung của các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long.
Các tỉnh địa bàn nông thôn sâu lại càng khó huy động vốn. Nhiều xã vùng sâu, vùng xa thì nhu
cầu vay vốn lớn, nhưng ngược lại huy động vốn rất ít.
Qua thực tế trên cho thấy hiện nay, các Ngân hàng chưa tiếp cận các nguồn vốn ở nông thôn,
chưa hướng người dân thay đổi tập quán cất vàng chuyển sang gởi tiền tiết kiệm tại các Ngân
hàng.
1.4. Cổ phiếu:
1.4.1 Khái niệm:
Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu là
chứng chỉ do công ty cổ phầnphát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc
một số cổ phần của công ty đó.
Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành.
1.4.2 Thực trạng:
Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ
phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở
hữu một hoặc một số cổ đông của công ty đó. Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng

thời là chủ sở hữu của công ty phát hành.
Thực tế không chỉ những cổ đông cá nhân thoái vốn, các NHCP lớn trước đây đã mạnh
tay đầu tư vốn vào các Ngân hàng nhỏ cũng đang tìm cách thoái vốn để đảm bảo chỉ tiêu an toàn
vốn (CAR) theo quy định tại Thông tư 13 của NHNN (có hiệu lực 1-10-2010).
Sức cung cổ phiếu ngày càng tăng trong khi tỷ suất cổ tức của các Ngân hàng nhỏ vẫn ở
mức thấp so với lãi suất Ngân hàng, dù cổ tức ngành này tương đối ổn định.
Nhưng thực tế từ đầu năm 2010 đến nay các NHTM đang phải nỗ lực chạy đua trước
hàng loạt chỉ tiêu cơ quan quản lý quy định, đã tác động không chỉ đến hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng mà còn ảnh hưởng tâm lý nhà đầu tư quan tâm đến cổ phiếu ngành này.
Cổ phiếu ngành Ngân hàng lình xình trong một thời gian dài đã khiến thị trường chứng
khoán (TTCK) Việt Nam chưa thể có một đợt sóng lớn trong năm 2010. Nhiều số liệu cho thấy
cổ phiếu Ngân hàng (CPNH) đang được giao dịch ở mức giá hấp dẫn nhưng vẫn không thuyết
phục nhà đầu tư mua vào.
TTCK Việt Nam hiện tại vẫn chưa phản ánh hết toàn bộ giá trị của các Ngân hàng vì nhiều
CPNH vẫn chưa niêm yết đầy đủ.
Với một thị trường mà nhà đầu tư, các công ty chứng khoán và quỹ đều chấp nhận chơi ngắn hạn
sẽ rất khó để CPNH được ưa chuộng. Khối lượng cổ phiếu lưu hành quá lớn khiến cho những
1.5.Trái phiếu:
1.5.1. Khái niệm:
Nhóm 2 Page 22
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay
tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường
là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn, và như
vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có
quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền
tham gia vào những vấn đề của bên phát hành.
Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:
+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ

kinh tế, động thái chính sách của Ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của chính
phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi suất sẽ
quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn chung
thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
1.5.2. Thực trạng:
Trong quá trình cổ phần hóa NHTMNN hiện nay sự thiếu minh bạch trong quá trình phát
hành trái phiếu tăng vốn gây rủi ro cho các nhà đầu tư và làm ảnh hưởng đến uy tín của Ngân
hàng trong tiến trình cổ phần hóa.
Hiện tượng phát hành trái phiếu không minh bạch như trên có nhiều lí do. Về
phía Ngân hàng, do sức ép tài chính và yêu cầu đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa mà phải tăng vốn
càng nhanh càng tốt, lãi suất huy động càng thấp càng tốt. Về phía nhà đầu tư, do chưa tìm hiểu
kĩ về cơ chế phát hành cũng như tâm lí đầu tư theo đám đông mua trái phiếu của Ngân hàng.
Cách thức phát hành trái phiếu huy động vốn như vậy có thể giúp cho NHTMNN đạt
được mục tiêu tăng vốn một cách nhanh chóng với lãi suất thấp. Nhưng về lâu về dài mà nói thì
nó sẽ gây ảnh hưởng rất lớn tới uy tín của Ngân hàng.
2. Hoạt động tín dụng của NHTM
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó là nghiệp vụ sinh
lợi chủ yếu và luôn chiếm một phần lớn trong tổng tài sản của các ngân hàng thương mại, do đó
nó có vị trí rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng.
2.1.Khái niệm tín dụng ngân hàng:
Nhóm 2 Page 23
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
2.1.1.Tín dụng :
Trong nền kinh tế hàng hóa, trong cùng một thời gian luôn có một số người tạm thời thừa
vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay. Hiện tượng này đã làm nảy sinh mối quan
hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm thời thừa sang nơi thiếu với
điều kiện trả vốn và lãi tiền vay là lợi nhuận thu được do sử dụng tiền vay. Đây chính là quan hệ
tín dụng.

Như vậy, tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm theo lợi tức, nó
để thỏa mãn nhu cẩu của cả hai bên, do đó nó là một quan hệ bình đẳng, cả hai bên cùng có lợi
và mang tính thỏa thuận lớn.
Quan hệ tín dụng đã hình thành và ra dời từ rất lâu, thậm chí mối quan hệ tín dụng thô sơ
nhất được phát sinh ngay từ sau khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã. Quan hệ tín dụng đã
phát triển qua nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. cùng với sự phát triển
của kinh tế thị trường, qua từng thời kì, từng giai đoạn phát triển mà dần hình thành nên các hình
thức tín dụng mới có trình độ cao hơ, đó là các hình thức tín dụng sau: tín dụng nặng lãi, tín dụng
thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước và tín dụng tiêu dùng. Mỗi một hình thức tín
dụng đều có điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, tuy nhiên, trong sự phát triển cuẩ mình, các hình
thức tín dụng trước không hề mất đi mà vẫn tồn tại và phát huy tác dụng khi có sự ra dời một
hình thức tín dụng mới. Ngày nay, tất cả các hình thức tín dụng trên đều còn tồn tại và bổ sung
lẫn nhau và nó có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế.
2.1.2.Tín dụng ngân hàng:
Trong các hình thức trên thì tín dụng ngân hàng là một hình thức vô cùng quan trọng, nó
là một quan hệ tín dụng chủ yeeud, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp,
các cá nhân khác trong nền kinh tế. Với công nghệ ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng trở
thành một hình thức tín dụng không thể thiếu ở cả trong nước và quốc tế.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng còn một bên là các tác
nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các cá nhân và doanh
nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời
thừa đến nơi tạm thời thiếu mà đó là quan hệ dich chuyển vốn gián tiếp thong qua một tổ chức
trung gian, đó là ngân hàng. Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín
dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau môt thời gian nhất định, là quan hệ
chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên cùng có lợi.
a.Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
Nhóm 2 Page 24
Tài chính học Thực trạng hoạt động của các NHTM Việt Nam
• Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ: cho vay bằng tiền tệ là loại hình

thức tín dụng phổ biến, linh hoạt và đáp ứng mọi đối tượng trong nền kinh tế quốc dân.
• Tín dụng ngân hàng chủ yếu cho vay bằng tiền vốn đi vay của các thành phần trong xã hội chứ
không hoàn toàn là vốn thuộc sở hữu của chính mình như tín dụng nặng lãi hay tín dụng thương
mại.
• Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng độc lập tương đối với sự vận động và
phát triển của quá trình tái sản suất xã hội. Có những trường hợp mà tín dụng ngân hàng gia tăng
nhưng sản xuất và lưu thong hàng hóa không tăng, nhất là trong tình trạng kinh tế khủng hoảng,
sản xuất và lư thong hàng hóa bị co hẹp nhưng tín dụng ngân hàng vẫn tăng để chống tình trạng
phá sản. Ngược lại trong thời kì kinh tế hưng thịnh, các doanh nghiệp mở mang sản xuất, hàng
hóa lưu chuyển mạnh nhưng tín dụng ngân hàng lại không đáp ứng kịp. Đây là một hiện tượng
bất thường của nền kinh tế.
• Tín dụng ngân hàng có một số ưu điểm nổi bật so với các hình thức khác đó là:
-Tín dụng ngân hàng có thể thỏa mãn tối đa nhu cầu về vốn của các tác nhân và thể nhân trong
nền kinh tế vì nó có thể tăng vốn bằng cách huy động nguồn vốn từ tiền nhàn rỗi trong xã hội với
nhiều hình thức và khối lượng lớn.
-Tín dụng ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú, có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn do ngân hàng có thể điều chỉnh giữa các nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời hạn
vay.
-Tín dụng ngân hàng là rộng lớn vì nguồn vốn bawbgf tiền là thích hợp với mọi chủ thể trong
nền kinh tế, do đó nó có thể cho nhiều đối tương vay.
b.Phân loại tín dụng ngân hàng:
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng ngân hàng dựa vào các căn cứ khác nhau tùy theo mục
đích nghiên cứu. Tuy nhiên, người ta thương phân loại theo một số tiêu thức sau:
• Theo thời gian sử dụng tín dụng, tín dụng ngân hàng được chia làm 3 loại:
Nhóm 2 Page 25
Tín dụng ngân hàng
Tín dụng dài hạn: là
loại tín dụng có thời
hạn sử dụng trên 5
năm, được sử dụng để

cung cấp vốn cho xây
dựng cơ bản, cải tiến và
mở rộng sản xuất có
quy mô lớn.
Tín dụng trung hạn: có thời
gian từ 1 đến 5 năm, được
dùng để cho vay vốn mua
tài sản cố định, cải tiến và
đổi mới kĩ thuật, mở rộng
và xây dựng các công trình
nhỏ có thời hạn thu hồi vốn
nhanh.
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín
dụng có thời gian sử dụng
dưới một năm, thường được
sử dụng vào nghiệp vu thanh
toán, vay bổ sung thiếu hụt
tạm thời về vốn lưu động của
các doanh nghiệp hay cho vay
phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu
dùng của các cá nhân.

×