Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

luật và chính sách trong chính sách quản lý chất thải rắn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.39 KB, 53 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Lời mở đầu
1.2. Nội dung nghiên cứu
1.3. Phương pháp nghiên cứu
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI
RẮN VÀ CHẤT THẢI NGUY HẠI
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Khái niệm chất thải
2.1.2. Khái niệm chất thải rắn, chất thải rắn thông thường
2.1.3. Khái niệm về quản lý CTR
2.1.4. Khái niệm về chất thải nguy hại
2.1.5. Khái niệm về quản lý CTNH
2.2. Quan niệm và vai trò của pháp luật về quản lý chất thải rắn và CTNH
2.2.1. Quan niệm pháp luật về quản lý CTR TT và CTNH
2.2.2. Vai trò của pháp luật về quản lý CTR và CTNH
2.2.3. Các yếu tố tác động tới pháp luật quản lý CTR và CTNH
CHƯƠNG 3: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CTR VÀ CTNH
3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong quản lý chất thải nguy hại
3.1.1. Trung Quốc
3.1.2. Hàn Quốc
3.1.3. Thái Lan
3.1.4. Cộng Hòa Liên Bang Đức
3.1.5. Ấn Độ
3.2. Sự phát triển của pháp luật quản lý chất thải rắn Việt Nam
3.3. Một số kinh nghiệm cho Việt Nam
CHƯƠNG 4: LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH VỀ QUẢN LÝ CTR VÀ CTNH CỦA NƯỚC TA


4.1. Pháp luật về quản lý CTR và CTNH
4.1.1. Pháp luật về quản lý CTR
4.1.2. Pháp luật về quản lý CTNH
4.2. Chính sách quản lý CTR và CTNH
4.2.1. Chính sách áp dụng cơ chế quản lý 3R (Giảm thiểu, Tái sử dụng, tái chế)
4.2.2. Chính sách về xã hội hóa quản lý chất thải rắn sinh hoạt
4.2.3. Chính sách phát triển công nghiệp và công nghệ xử lý CTR
4.2.4. Chính sách về thuế và phí BVMT đối với CTR
CHƯƠNG 5: ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ CTR VÀ CTNH CỦA NƯỚC TA
5.1. Hiện trạng luật và chính sách quản lý CTR
1
5.2. Chất thải rắn sinh hoạt
5.2.1. Quản lý CTR ở Đà Nẵng
5.2.2. Quản lý CTR ở Bình Dương
5.2.3. Quản lý chất thải rắn ở TP.HCM
5.2.4. Quản lý chất thải rắn đô thị ở Đồng Bằng sông Hồng
5.3. Chất thải rắn công nghiệp
5.3.1. Phát thải chất thải rắn công nghiệp
5.3.2. Công tác xử lý
5.4. Chất thải rắn y tế
5.4.1. Thống kê mức độ phân loại, thu gom chất thải trong các bệnh viện
5.4.2. Công tác xử lý chất thải rắn y tế nguy hại
5.4. Nhận xét, đánh giá
CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
6.1. Kết luận
6.1.1. Hệ thống pháp luật
6.1.2. Công tác quản lý CTR
6.1.2. Hạn chế trong hệ thống luật và chính sách về công tác quản lý CTR
6.2. Kiến nghị

TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC HÌNH
2
DANH MỤC BẢNG
3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CTR : Chất thải rắn
CTR TT : Chất thải rắn thông thường
CTNH : Chất thải nguy hại
BVMT : Bảo vệ môi trường
ĐTM : Đánh giá tác động môi trường
BTNMT : Bộ Tài nguyên và Môi trường
BKH&ĐT : Bộ Khoa học và Đào tạo
KCN : Khu công nghiệp
CSSX : Cơ sở sản xuất
CSYT : Cơ sở Y tế
CTCC : Công trình công cộng
CTRSH : Chất thải rắn sinh hoạt
BXD : Bộ Xây dựng
BCL : Bãi chôn lấp
UNEP : United Nations Environment Programme - Chương trình
Môi trường Liên Hợp Quốc
RCRA : Resource Conservation and Recovery Act - Bảo tồn và
Phục hồi tài nguyên Mỹ
4
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
CHƯƠNG 1:
GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Lời mở đầu
Tốc độ phát triển kinh tế quá nhanh chóng và sự bùng nổ dân số thế giới đã khiến

cho môi trường sống của nhân loại ngày càng bị suy giảm nghiêm trọng. Con người đã
và đang đối diện với hàng loạt các sự cố môi trường như động đất, núi lửa, sóng thần,
… Ô nhiễm môi trường đã trở thành vấn đề của toàn cầu mà không phải của từng quốc
gia hay lãnh thổ. Biến đổi khí hậu đã và đang có tác động mạnh mẽ tới sản xuất và
sinh hoạt của nhiều nước trên thế giới.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến ỗ nhiễm môi trường, trong đó nguồn cơ bản là ô
nhiễm do chất thải rắn (đặc biệt là chất thải nguy hại). Chất thải nguy hại (CTNH)
không chỉ gây tác động xấu tới môi trường mà còn đe dọa tới sức khỏe và tính mạng
con người. Các hoạt động sản xuất, sinh hoạt hàng ngày của con người đều phát sinh
chất thải rắn và CTNH thải bỏ vào môi trường.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, đang trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Nước ta cũng đã
chủ động hội nhập kinh tế khu vực (khối ASEAN năm 1995) và thế giới (WTO năm
2000). Sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ ngày càng cao, sự phát triển theo quy mô
ngày càng rộng nhưng hẹp về chiều sâu đã làm cho nguồn tài nguyên vốn được coi là
“rừng vàng, biển bạc” bị khai thác triệt để đưa vào sản xuất. Và đi kèm với đó là nỗi lo
về môi trường, đặc biệt vấn đề chất thải rắn như chất thải sinh hoạt, chất thải công
nghiệp, chất thải nông nghiệp, chất thải y tế, chất thải xây dựng, chất thải nguy hại,
Việc thu gom, vận chuyển, xử lý và tiêu hủy chất thải rắn đã và đang trở thành một bài
toán khó đối với các nhà quản lý tại hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các
nước có nền kinh tế đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, văn bản đầu tiên về bảo vệ môi trường là luật BVMT năm 1993, quy
chế quản lý chất thải nguy hại ra đời năm 1999 (là văn bản pháp luật đầu tiên quy định
về quản lý CTNH ở Việt Nam). Từ đó tới nay, công tác quản lý chất thải rắn đã nhận
được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, thể hiện bằng các chính sách, pháp luật quản
lý CTR theo hướng bền vững là một trong bảy chương trình ưu tiên của “Chiến lược
Bảo vệ môi trường Quốc gia 2001-2010 và định hướng đến năm 2020” và là một nội
dung thuộc lĩnh vực ưu tiên trong chính sách phát triển của Chương trình nghị sự 21 -
Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.
Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2011 – chủ đề Chất thải rắn, các

chiến lược này đã đặt ra các mục tiêu cụ thể có ý nghĩa định hướng cho các công
tác quản lý CTR hiện nay. Tuy nhiên, kết quả đạt được trên thực tế vẫn còn
hạn chế so với yêu cầu của Chiến lược đề ra, các mục tiêu quản lý CTR đặt ra
còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc triển khai thực hiện cũng như hoàn thành mục
tiêu. Theo đánh giá của Báo cáo môi trường quốc gia hàng năm, hầu hết các chỉ
tiêu bảo vệ môi trường về CTR đã được xác định trong Chiến lược và trong Nghị
định số 59/2007/NĐ-CP3 đều không đạt.
Vậy trong những năm qua ở nước ta công tác quản lý CTR đã đạt được những
thành tựu và hạn chế như thế nào trong quá trình thực hiện. Đó chính là lý do nghiên
cứu “Luật và chính sách trong chính sách quản lý CTR” ở nước ta.
HVTH: Nhóm 1 Trang 5
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
1.2. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu các văn bản pháp luật và những chính sách trong việc quản lý chất
thải rắn và CTNH.
- Đánh giá hiện trạng công tác quản lý chất thải rắn và CTNH ở nước ta.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
- Từ các tài liệu, đề tài,… thu thập được, tổng hợp, nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu
vấn đề.
- Sử dụng các phần mềm Microsoft Office trình bày kết quả nghiên cứu.

CHƯƠNG 2:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN
VÀ CHẤT THẢI NGUY HẠI
2.1. Các khái niệm
2.1.1. Khái niệm chất thải
- Theo cách hiểu thông thường, chất thải là những chất mà con người bỏ đi, không
tiếp tục sử dụng nữa. Khi bị thải bỏ, những chất này tồn tại trong môi trường dưới
những trạng thái nhất định và có thể gây ra rất nhiều tác động bất lợi cho môi trường
cũng như sức khoẻ con người.

- Dưới góc độ ngữ nghĩa, chất thải được hiểu là những “chất” không còn sử dụng
được nữa bị con người “thải” ra trong các hoạt động khác nhau. Chất thải được sản
sinh trong các hoạt động khác nhau của con người thì được gọi với những thuật ngữ
khác nhau như: Chất thải rắn phát sinh trong sinh hoạt thì gọi là rác thải; Chất thải phát
sinh sau khi sử dụng nguyên liệu trong quá trình sản xuất thì gọi là phế liệu; Chất thải
phát sinh sau quá trình sử dụng nước thì gọi là nước thải…
HVTH: Nhóm 1 Trang 6
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
- Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa “Chất thải là rác thải và
những đồ vật bị bỏ đi nói chung”. Theo cách hiểu của khái niệm này, chất thải bao
gồm rác là những thứ vụn vặt bị vất bỏ vương vãi, làm bẩn và đồ vật không có giá trị,
không có tác dụng nên không giữ lại.
- Khái niệm chất thải cũng được sử dụng trong pháp luật quốc tế về môi trường,
được đề cập tại Công ước Basel. Điều 2 khoản 1 Công ước Basel. Ngoài ra, khái niệm
chất thải còn được đề cập trong pháp luật của khối liên kết chính trị - kinh tế. Liên
minh Châu Âu (EU). Điều 1 Nghị định 259/93 của EU về vận chuyển chất thải ngày
1/2/1993 có hiệu lực từ ngày 6/5/1994 và Điều 3 khoản 1 Luật khuyến khích kinh tế
tuần hoàn và đảm bảo xử lý các chất thải phù hợp với môi trường ngày 27/9/1994
được sửa đổi bổ sung ngày 25/8/1998 của CHLB Đức.
Cả hai định nghĩa trên đều có một điểm chung là “vật chất được xác định là chất
thải khi nó nằm trong Phụ lục I của Luật”. Như vậy, cả hai luật này đều quan tâm đến
việc đưa vật chất nào và không đưa vật chất nào vào trong Phụ lục của mình. Giả sử có
những vật chất chưa được đưa vào Phụ lục nhưng nó lại có nguy cơ gây ảnh hưởng
đến môi trường khi chủ sở hữu thải bỏ thì sẽ được xác định như thế nào, đây là hạn
chế mà các nhà làm luật cần phải bổ sung. Hơn nữa, điều này sẽ khó khi áp dụng vào
Việt Nam bởi chúng ta chưa đảm bảo được yếu tố về mặt kỹ thuật, công nghệ khi xác
định các dạng vật chất nằm trong danh mục chất thải thuộc sở hữu của các chủ thể
khác nhau.
- Pháp luật Việt Nam có quy định khác so với hai văn bản pháp luật trên, pháp luật
Việt Nam đã liệt kê cụ thể các dạng vật chất phát sinh trong các hoạt động của con

người và tồn tại dưới các dạng khác nhau: Khí, lỏng, rắn… Điều 2 khoản 2 Luật bảo
vệ môi trường (BVMT) 1993 và Điều 3 khoản 10 Luật BVMT 2005 đều đưa ra định
nghĩa về chất thải: Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.
- Từ các định nghĩa và dựa vào các tiêu chí khác nhau ta có thể phân loại chất thải
thành các nhóm loại khác nhau:
+ Dựa vào dạng tồn tại của chất thải, chất thải tồn tại dưới dạng rắn (chất thải
rắn), lỏng (chất thải lỏng), khí (khí thải), nhiệt lượng, tiếng ồn…
+ Phụ thuộc vào sự độc hại của chất thải, chất thải bao gồm chất thải độc hại
nguy hiểm và chất thải thông thường.
+ Phụ thuộc vào nguồn sản sinh chất thải, chất thải được chia thành chất thải
sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế…
+ Phụ thuộc vào chu trình sản sinh ra chất thải, chất thải bao gồm nguyên liệu
thứ phẩm, phế liệu, vật liệu thứ phẩm, sản phẩm, đồ vật hư hỏng hoặc quá hạn sử
dụng.
2.1.2. Khái niệm chất thải rắn, chất thải rắn thông thường
- Chất thải rắn (CTR): Theo Điều 3 khoản 2 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày
09 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ Về quản lý chất thải rắn thì “Chất thải rắn là chất
thải ở thể rắn, được thải ra từ quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc
các hoạt động khác. Chất thải rắn bao gồm chất thải rắn thông thường và chất thải
rắn nguy hại.
Chất thải rắn phát thải trong sinh hoạt cá nhân, hộ gia đình, nơi công
cộng được gọi chung là chất thải rắn sinh hoạt. Chất thải rắn phát thải từ hoạt động sản
xuất công nghiệp, làng nghề, kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động khác được gọi
chung là chất thải rắn công nghiệp.”
HVTH: Nhóm 1 Trang 7
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
- Chất thải rắn thông thường (CTR TT): Thuật ngữ Chất thải rắn thông thường
được sử dụng nhiều trên thực tế và tại một số văn bản quy phạm pháp luật. Chương
VIII, mục 3 Luật BVMT 2005 và Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm

2007 của Chính phủ Về quản lý chất thải rắn có nhiều điều, khoản đề cập đến đến
thuật ngữ CTR TT, nhưng chưa có văn bản nào trực tiếp định nghĩa CTR TT.
CTR TT có thể được hiểu là: một dạng vật chất ở thể rắn, không phải là thể
lỏng, thể khí, không phải là chất thải nguy hại và được thải ra từ các hoạt động khác
nhau của con người như sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…;
Phân loại CTRTT: Theo Điều 77 Luật BVMT 2005, CTR TT được phân thành
hai nhóm chính:
+ Chất thải có thể dùng để tái chế, tái sử dụng;
+ Chất thải phải tiêu huỷ hoặc chôn lấp.
2.1.3. Khái niệm về quản lý CTR
- Quản lý: Theo Từ điển Tiếng Việt, “quản lý” được hiểu là việc tổ chức và điều
khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định. Trong cuộc sống hàng ngày, con
người không chỉ tiêu thụ và sử dụng một số lượng lớn các nguyên liệu, sản phẩm từ
thiên nhiên, từ sản xuất để tồn tại và phát triển đồng thời cũng vứt, thải lại cho thiên
nhiên và môi trường sống các phế thải, rác thải. Đã từ lâu, ở các nước phát triển, nhà
nước và cộng đồng đã đưa ra các biện pháp xử lý rác thải, đưa vào quy hoạch phát
triển kinh tế xã hội; xây dựng hệ thống cống ngầm thoát nước, quy định những nơi
chôn rác sinh hoạt, những quy chế, phương pháp thu gom, phân loại, tái chế và quản lý
rác…
- Quản lý chất thải: Để quản lý hiệu quả loại các loại chất thải (bao gồm cả CTR
TT), trên thế giới hiện có ba phương thức quản lý, với ba cách tiếp cận không giống
nhau. Đó là phương thức quản lý cuối đường ống sản xuất, phương thức quản lý dọc
theo đường ống sản xuất và phương thức quản lý nhấn mạnh vào khâu tiêu dung.
+ Khái niệm về quản lý chất thải được định nghĩa đầu tiên tại Thông tư số
1590/TTLT-BKHCN&MT ngày 17 tháng 10 năm 1997 của Bộ Khoa học Công nghệ
và Môi trường hướng dẫn thi hành Chỉ thị số 199/TTg ngày 3 tháng 4 năm 1997 của
Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách trong quản lý chất thải rắn ở các đô
thị và khu công nghiệp.
+ Ngoài ra trong một số văn bản khác như: Nghị định 175/NĐ-CP ngày
18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993; Quyết định số 152/1999/QĐ-

TTg về việc phê duyệt chiến lược quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công
nghiệp Việt Nam đến 2020; Chỉ thị số 23/2005/CT- TTg ngày 21 tháng 6 năm 2003
của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn tại các khu đô thị
và công nghiệp; Nghị định 80/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về việc quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT cũng đưa ra các định nghĩa về quản
lý chất thải rắn.
+ Theo Điều 3 của Luật bảo vệ môi trường 2005 thì “quản lý chất thải” là hoạt
động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy,
thải loại chất thải. Còn theo Công ước Basel (1989) về kiểm soát, vận chuyển xuyên
biên giới các chất thải nguy hại và tiêu hủy chúng thì “quản lý chất thải” là việc thu
thập, vận chuyển và tiêu hủy các phế thải nguy hiểm hoặc các phế thải khác, bao gồm
cả việc giám sát các địa điểm tiêu hủy. Như vậy, có thể hiểu quản lý chất thải nói
chung là một quy trình khép kín và tuần tự, chúng luôn chịu sự giám sát chặt chẽ ở tất
cả các khâu. Việc quản lý chất thải được thực hiện bởi nhiều hoạt động khác nhau.
HVTH: Nhóm 1 Trang 8
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
Những hoạt động này phải luôn đảm bảo có sự gắn kết, chặt chẽ và tuần tự nhằm tiêu
hủy triệt để sự nguy hại của chất thải từ giai đoạn phát sinh đến giai đoạn xử lý và tiêu
hủy hoàn toàn.
- Quản lý CTR: Theo Điều 3 khoản 1 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP thì “Hoạt
động quản lý chất thải rắn bao gồm các hoạt động quy hoạch quản lý, đầu tư xây dựng
cơ sở quản lý chất thải rắn, các hoạt động phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái
sử dụng, tái chế và xử lý chất thải rắn nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu những tác động có
hại đối với môi trường và sức khoẻ con người.”
Sau khi đã tìm hiểu các định nghĩa khác nhau về quản lý chất thải, ta có thể đưa
ra định nghĩa phù hợp về quản lý CTR TT như sau: Quản lý chất thải rắn thông thường
là một quá trình thực hiện liên tục các hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm
thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải rắn thông thường.
2.1.4. Khái niệm về chất thải nguy hại
- Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP): Chất thải nguy hại

(CTNH) là các chất thải (không bao gồm các chất phóng xạ) có khả năng phản ứng
hóa học hoặc có khả năng gây độc, gây cháy, ăn mòn, có khả năng gây nguy hại cho
sức khỏe con người hay môi trường khi tồn tại riêng lẻ, hoặc khi tiếp xúc với các chất
khác.
- Theo luật Bảo tồn và Phục hồi tài nguyên Mỹ (RCRA): CTNH là chất thải rắn
hoặc tổ hợp các chất thải rắn do lượng hoặc nồng độ hay do đặc tính vật lý, hoá học
hoặc truyền nhiễm mà chúng có thể: (1)Tạo ra hoặc góp phần đáng kể vào việc tăng
khả năng tử vong hay là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nguy kịch không thể cứu
chữa; (2)Tạo ra sự nguy hại đến sức khỏe con người hoặc môi trường trong khi xử lý,
bảo quản, vận chuyển.
- Philippin: CTNH là các loại vật liệu có khả năng gây nguy hiểm cho con người,
động vật, có khả năng gây độc, ngộ độc, ăn mòn, dị ứng, nhạy cảm cao, gây cháy nổ.
- Nhìn chung, định nghĩa CTNH ở các nước tuy có khác nhau về cách diễn đạt,
nhưng bản chất đều nhấn mạnh đến tính chất độc hại của loại chất thải này đến môi
trường và sức khỏe con người.
- Ở Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm CTNH được đề cập đến một cách chính thức
tại quy chế quản lý CTNH ban hành kèm theo QĐ 155/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Tại Khoản 2 Điều 3 Quy chế quy định: “CTNH là chất thải có chứa các
chất hoặc hợp chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ,
làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác) hoặc tương
tác với các chất khác gây nguy hại đến môi trường và sức khỏe con người”.
Đến năm 2005, định nghĩa này đã được sửa đổi và hoàn thiện hơn với cách diễn
đạt rất ngắn gọn và súc tích tại Khoản 11 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005. Theo
đó, CTNH là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ
lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác.
- Khi đối chiếu khái niệm CTNH ở hai văn bản pháp luật trên, có thể dễ dàng nhận
thấy về mặt hình thức thì khái niệm CTNH trong Luật Bảo vệ môi trường (2005) đã
rút gọn đi rất nhiều về số lượng câu, chữ, cách diễn đạt cũng rõ ràng hơn và súc tích
hơn. Tuy nhiên, điều đó vẫn không làm giảm hay sai lệch phần nội dung mà khái niệm
muốn đề cập đến: CTNH là một loại chất thải, có các đặc tính lý, hóa hoặc sinh học có

thể gây nguy hại trực tiếp hay gián tiếp khi tương tác với các chất khác.
- Có nhiều tiêu chí để phân loại CTNH như: Phân loại theo nguồn thải đặc thù, phi
đặc thù; phân loại theo chất thải công nghiệp; phân loại theo loại nguy hại; theo nhóm
HVTH: Nhóm 1 Trang 9
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
hóa học; theo thành phần hóa học ban đầu; theo tình trạng vật lý… Theo Quyết định số
23/2006/QĐ-BTNMT ban hành ngày 26/12/2006 về việc ban hành danh mục CTNH,
CTNH được phân loại theo các nhóm nguồn hoặc dòng thải chính như: Chất thải từ
ngành thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, dầu khí và than; chất thải từ ngành sản
xuất hóa chất vô cơ, hữu cơ; chất thải từ ngành luyện kim; chất thải từ ngành sản xuất
vật liệu xây dựng và thủy tinh; chất thải từ ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản; chất
thải từ ngành y tế và thú y; chất thải từ các cơ sở tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải, xử lý
nước cấp sinh hoạt và công nghiệp…
2.1.5. Khái niệm về quản lý CTNH
- Tại Khoản 3 Điều 3 quy chế quản lý CTNH ban hành kèm theo Quyết định số
155/1999/QĐ-TTg ngày 16/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ quy định: quản lý
CTNH là các hoạt động kiểm soát CTNH trong suốt quá trình từ phát sinh đến thu
gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu giữ, xử lý và tiêu huỷ CTNH.
- Theo Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26/12/2006 (sau đây gọi tắt là
Thông tư 12) quy định tại mục 2.1: quản lý CTNH gồm các hoạt động liên quan đến
việc phòng ngừa, giảm thiểu, phân loại, thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý (kể cả tái
chế, thu hồi), tiêu huỷ CTNH.
- Như vậy, khái niệm quản lý CTNH lần đầu tiên được quy định tại quy chế quản
lý CTNH, sau đó khái niệm này đã được chỉnh sửa tại Thông tư 12. Tại thông tư này,
khái niệm quản lý CTNH được diễn đạt một cách cụ thể, rõ ràng, có nội hàm rộng hơn
và đầy đủ hơn so với quy định tại Khoản 3 Điều 3 của quy chế. Các nhà làm luật đã
liệt kê hàng loạt hoạt động của việc quản lý CTNH theo một quy trình chặt chẽ hơn,
bao gồm cả những hoạt động liên quan đến việc phòng ngừa, giảm thiểu, phân loại
CTNH. Như vậy, trách nhiệm quản lý chất thải của cơ quan Nhà nước và các tổ chức,
cá nhân có liên quan đến việc quản lý CTNH không chỉ có từ khi chất thải đó phát

sinh, mà các chủ thể trên còn có trách nhiệm trong việc phòng ngừa, giảm thiểu bằng
việc áp dụng mọi biện pháp kĩ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến… nhằm hạn chế
lượng CTNH phát sinh trên thực tế.
- Theo quy định trên, quản lý CTNH có những đặc điểm sau:
i) Trách nhiệm quản lý chất thải thuộc về cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quản lý CTNH và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Các cơ quan Nhà nước có trách
nhiệm quản lý CTNH trong phạm vi chức năng luật định. Các tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm quản lý CTNH là những chủ thể có những hoạt động liên quan trực tiếp
đến CTNH như: chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển, xử lý, tiêu huỷ.
ii) Nội dung quản lý CTNH là các hoạt động mà các cơ quan quản lý Nhà nước
về bảo vệ môi trường và các tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện. Cụ thể là:
các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quản lý CTNH, thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm… các
tổ chức, cá nhân có liên quan phải tiến hành những hoạt động phân loại, thu gom, vận
chuyển, xử lý… CTNH.
- Quy trình quản lý CTNH được thực hiện theo 5 giai đoạn. Đó là:
+ Giai đoạn 1: Quản lý nguồn phát sinh CTNH. Đây là việc tiến hành các biện
pháp để quản lý CTNH ngay tại chính nguồn phát sinh ra chất thải đó. Kiểm soát
CTNH tại nguồn là một công việc khá phức tạp. Cách thông thường nhất được nhiều
quốc gia sử dụng để giải quyết những vấn đề trên là tiến hành thủ tục đăng ký cấp giấy
phép đối với các chủ nguồn thải CTNH, đặc biệt là trong ngành công nghiệp.
HVTH: Nhóm 1 Trang 10
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
+ Giai đoạn 2: Phân lập, thu gom và vận chuyển CTN nước. Giai đoạn này
được thực hiện bằng việc phân loại, thu gom toàn bộ CTNH tại tất cả các nguồn phát
sinh ra chúng. Sau khi tiến hành việc thu gom, chất thải sẽ được vận chuyển đến khu
xử lý và thải bỏ hoặc đến trạm trung chuyển hay đến nơi lưu giữ tạm thời [24, tr. 79].
+ Giai đoạn 3: Xử lý trung gian. Giai đoạn này được tiến hành bởi những
phương pháp xử lý khác nhau như: xử lý cơ học, xử lý hóa học, sinh học và nhiệt…
nhằm làm giảm khối lượng CTNH, giảm thiểu hoặc loại bỏ độc tính để phù hợp hơn

với khâu thải bỏ cuối cùng.
+ Giai đoạn 4: Chuyên chở CTNH đi xử lý tiếp. CTNH sau khi xử lý trung gian
sẽ được vận chuyển bằng những phương tiện chuyên dụng đến nơi xử lý cuối cùng của
quy trình.
+ Giai đoạn 5: Thải bỏ chất thải. Những phần chất thải khi không còn được tái
chế và tái sử dụng sẽ được thải bỏ bằng những cách thức khác nhau như:chôn lấp hoặc
thiêu đốt.
- Việc quản lý CTNH có thể được thực hiện bằng nhiều công cụ như: kinh tế, pháp
lý, kĩ thuật… trong đó công cụ pháp lý được coi là phương tiện hiệu quả hàng đầu
trong công tác quản lý CTNH, thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật và hệ thống các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường.
- Từ khái niệm trên ta thấy quản lý CTR TT có nhiều điểm khác so với hoạt động
quản lý chất thải nguy hại bởi:
+ Hoạt động quản lý chất thải nguy hại cần phải có nguồn đầu tư, tập trung
nguồn lực, khoa học kỹ thuật và nguồn tài chính lớn để xử lý, loại bỏ hoàn toàn các
đặc tính nguy hại của chất thải nguy hại như: Dễ cháy, dễ nổ, dễ lây nhiễm… để biến
nó thành CTR TT.
+ Quản lý CTNH từ các khâu phân loại, thu gom, bảo quản, vận chuyển, xử lý,
tiêu huỷ đều đòi hỏi nghiêm ngặt về công nghệ và kỹ thuật. CTNH phải được xử lý tuỳ
theo tính chất và thành phần của từng loại CTNH.
+ Đối với quản lý chất thải nguy hại đòi hỏi các chủ thể phải có một trình độ
chuyên môn nhất định để nhận biết, kiểm soát và xử lý.
2.2. Quan niệm và vai trò của pháp luật về quản lý chất thải rắn và CTNH
2.2.1. Quan niệm pháp luật về quản lý CTR TT và CTNH
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, hệ thống pháp luật Bảo vệ môi trường
của Việt Nam hiện nay điều chỉnh 2 vấn đề cơ bản: (1) bảo tồn và sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên. (2) kiểm soát, ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Trong đó,
các quy định về quản lý CTR và CTNH nằm trong mảng thứ hai. Kinh nghiệm của
nhiều nước đã chứng minh rằng, muốn quản lý chất thải tốt thì trước tiên phải có hệ
thống quản lý chất thải rõ ràng và hoạt động có hiệu quả; thứ hai là phải có cơ sở pháp

lý để quản lý; thứ ba là phải có phương tiện và điều kiện để quản lý như thiết bị đo
lường, kiểm tra, kiểm soát nguồn thải; thứ tư là có công nghệ xử lý chất thải thích hợp
Như vậy, hệ thống pháp lý quy định về quản lý CTR và CTNH chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng trong hệ thống các công cụ được sử dụng để quản lý CTNH mà các quốc
gia trên thế giới cũng như Việt Nam đang sử dụng.
 Chất thải rắn thông thường
- So với các lĩnh vực pháp luật khác, pháp luật môi trường là một lĩnh vực khá mới
mẻ trong hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Các nhà luật học Australia,
một trong những quốc gia tiên phong trong bảo vệ môi trường bằng pháp luật đã đánh
HVTH: Nhóm 1 Trang 11
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
giá rằng, không dễ dàng định nghĩa chính xác phạm vi của Luật môi trường như chúng
ta có thể làm với Luật hợp đồng hay luật về các vi phạm ngoài hợp đồng
- Khái niệm "quản lý chất thải" được hiểu là tổng thể các hoạt động gồm phân loại,
thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, xử lý, tiêu huỷ, thải loại chất thải
- Tại Điều 3 khoản 2 Luật BVMT 2005 và Điều 3 khoản 1 Nghị định số
59/2007/NĐ-CP đưa ra định nghĩa về hoạt động quản lý chất thải rắn. Dựa vào các
định nghĩa nêu trên ta có thể đưa ra định nghĩa về pháp luật về quản lý chất thải rắn
thông thường như sau:
Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường là một hệ thống các quy phạm
pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể phát sinh chất thải rắn thông thường
với cơ quan quản lý nhà nước và với nhau để thực hiện liện tục các hoạt động phân
loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy chất thải rắn
thông thường nhằm bảo vệ, tái tạo môi trường và bảo đảm nâng cao sức khỏe cộng
đồng.
 Chất thải nguy hại
- Pháp luật quản lý chất thải nguy hại là một bộ phận của pháp luật môi trường,
bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể
tiến hành hoạt động liên quan đến chất thải nguy hại với cơ quan quản lý Nhà nước về
môi trường và giữa các chủ thể tiến hành hoạt động liên quan đến chất thải nguy hại

với nhau trong quy trình quản lý chất thải nguy hại nhằm bảo vệ môi trường và sức
khoẻ cộng đồng.
2.2.2. Vai trò của pháp luật về quản lý CTR và CTNH
 Chất thải rắn thông thường
- Thực tế đã chứng minh, pháp luật với tư cách là công cụ điều chỉnh các quan hệ
xã hội, luôn có tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ xã hội
- Pháp luật về quản lý chất thải rắn thông thường có vai trò quan trọng khi đặt ra
những quy định cho các chủ thể phát thải chất thải, quy định các loại phí giúp cho các
chủ thể có quyền dễ thực hiện trong việc thu lệ phí đối với các chủ thể xả, thải chất
thải; quy định rõ cách thức thu gom, phân loại, giảm thiểu, tái chế, xử lý …chất thải.
- Pháp luật về quản lý CTRTT không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại ngày nay,
nó góp phần không nhỏ trong việc làm trong sạch môi trường, phòng ngừa, khắc phục
ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường.
- Pháp luật về quản lý CTRTT được quy định sẽ dần dần góp phần nâng cao ý thức
bảo vệ môi trường của người dân để đảm bảo cho họ được hưởng quyền sống trong
môi trường không ô nhiễm.
- Góp phần nâng cao nhận thức của toàn dân theo hướng có lợi cho việc bảo vệ
môi trường.
 Chất thải nguy hại
- Pháp luật quản lý CTNH điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tiến hành hoạt
động có liên quan đến CTNH với cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường và mối
quan hệ giữa các chủ thể tiến hành hoạt động có liên quan đến CTNH với nhau: Các
quan hệ phát sinh giữa cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường với các tổ chức, cá
nhân tiến hành hoạt động liên quan đến CTNH, bao gồm quan hệ giữa chủ nguồn thải,
chủ thu gom, vận chuyển, xử lý CTNH với các cơ quan quản lý Nhà nước về môi
trường. Các quan hệ này chính là những quan hệ phát sinh trong quá trình tiến hành
các quan hệ quản lý Nhà nước về CTNH (quan hệ phát sinh từ hoạt động quy hoạch
quản lý CTNH, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm hoạt động xử lý
HVTH: Nhóm 1 Trang 12
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.

CTNH…). Mối quan hệ giữa các chủ thể tiến hành hoạt động liên quan đến CTNH với
nhau, bao gồm các quan hệ phát sinh trong quá trình thu gom, vận chuyển, tiêu hủy
CTNH, bồi thường thiệt hại do CTNH gây ra…
- Mục đích của pháp luật quản lý CTNH là bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng
đồng thông qua vấn đề đặt ra các khung pháp luật quy định về trách nhiệm của các cơ
quan Nhà nước về môi trường, quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân liên quan đến
CTNH. Pháp luật quản lý CTNH đã phân định rõ ràng quyền hạn cho các cơ quan
quản lý Nhà nước sẽ giúp hoạt động quản lý Nhà nước đối với vấn đề này đạt được
hiệu quả cao hơn; định hướng xử sự và hành vi của các chủ thể liên quan đến quản lý
CTNH nhằm mục đích ngăn ngừa, hạn chế số lượng CTNH phát sinh vào môi trường
và giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với môi trường và sức khỏe con
người.
2.2.3. Các yếu tố tác động tới pháp luật quản lý CTR và CTNH
- Thứ nhất, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước;
- Thứ hai, ý thức của người dân;
- Thứ ba lợi ích kinh tế của doanh nghiệp;
- Thứ tư, trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ.
CHƯƠNG 3:
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CTR VÀ CTNH
3.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong quản lý chất thải nguy hại
3.1.1. Trung Quốc
Trung Quốc là một nước có tốc độ phát sinh chất nguy hại rất cao nên hiện Trung
Quốc rất chú trọng đến công nghệ tái chế để tận dụng lại phần lớn CTNH. Phần lớn
các cơ sở sản xuất ở đây có khả năng xử lý chất thải tại chỗ, điều này đó giỳp cỏc cơ
sở sản xuất có thể tiết kiệm khá nhiều chi phí trong quá trình quản lý chất thải. Bên
cạnh đó Trung Quốc cũng rất chú trọng đến việc hoàn thiện hệ thống pháp luật quy
HVTH: Nhóm 1 Trang 13
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
định về quản lý CTNH. Luật Ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm chất thải rắn (1995) của
Trung Quốc được kết cấu và điều chỉnh theo hai tiêu chí gồm mức độ nguy hại của

chất thải và nguồn phát thải. Trong chất thải thông thường lại chia thành chất thải cơ
bản, chất thải công nghiệp và chất thải đô thị. Năm 1995, “luật kiểm soát và phòng
ngừa nhiễm bẩn do chất thải rắn” được ban hành, trong đó quy định các ngành công
nghiệp phải đăng ký việc phát sinh chất thải, nước thải,… đồng thời phải đăng ký việc
chứa đựng, xử lý và tiêu huỷ chất thải, liệt kê các chất thải từ các ngành công nghiệp
Do công nghiệp điện tử của Trung Quốc hiện đang có những bước phát triển mạnh,
khả năng gây ô nhiễm của các sản phẩm điện tử cao vì vậy pháp luật Trung Quốc đã
quy định các sản phẩm điện tử sản xuất sau ngày 1/3/2007 buộc phải dán nhãn chỉ rõ
có hay không có độc chất trong sản phẩm nhằm hạn chế những tác động bất lợi do
ngành công nghiệp sản xuất điện tử mang lại.
3.1.2. Hàn Quốc
Đối với Hàn Quốc hoạt động quản lý chất thải và quản lý chất nguy hiểm, độc hại
được tách riêng để quy định trong hai đạo luật khác nhau và có sự gắn kết chặt chẽ với
quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này cho thấy, Hàn Quốc rất coi trọng vấn đề này
để BVMT trước quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế; đồng thời, tạo cơ chế
để gắn liền trách nhiệm BVMT với các doanh nghiệp.
3.1.3. Thái Lan
Thái Lan là một trong những quốc gia đầu tiên trong khu vực châu Á ban hành các
đạo luật về BVMT. Vào năm 1967, quốc gia này đã ban hành Luật Vật chất độc hại
năm 1967 để quản lý chất thải. Đến Hiến pháp năm 1974, đã có quy định về BVMT
được đưa vào như nguyên tắc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Năm 1975, Thái Lan đã ban hành Luật Tăng cường và Bảo vệ Chất lượng môi
trường Quốc gia năm 1975 để cụ thể hóa quy định này của Hiến pháp. Đây là đạo luật
quan trọng, quy định tập trung những vấn đề về BVMT như Thành lập ra Ban Môi
trường Quốc gia (NEB) và đưa ra 3 công cụ chính trong công tác BVMT bao gồm:
- Các tiêu chuẩn môi trường và phương pháp quan trắc do Bộ Khoa học, Công
nghệ và Năng lượng ban hành;
- Công cụ đánh giá tác động môi trường của các dự án trước trong khi lập kế
hoạch;
- Trao quyền cho Thủ tướng hành động trong những trường hợp khẩn cấp do ô

nhiễm hoặc sự cố môi trường.
Tuy nhiên, do hệ thống văn bản pháp luật trong giai đoạn này còn thiếu cơ chế
phối hợp giữa các bộ ngành và sự mâu thuẫn với các lợi ích kinh tế nên việc thực thi
gặp nhiều khó khăn và chưa đạt được kết quả như mong muốn. Hệ quả điển hình là số
lượng các dự án ở Thái Lan thực hiện lập báo cáo ĐTM là rất ít hoặc nếu có thì chất
lượng của báo cáo này cũng rất thấp.
Chính vì vậy, vào năm 1992, Thái Lan đã tiến hành sửa đổi, bổ sung các đạo luật
có liên quan như Luật Tăng cường và Bảo vệ Chất lượng Môi trường Quốc gia và Luật
Vật chất độc hại năm 1967 (sửa thành Luật Vật chất Nguy hại).
Luật Tăng cường và Bảo vệ Chất lượng Môi trường Quốc gia năm 1992 đã có sự
thay đổi lớn và quan trọng nhất đó là thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa
phương trong việc tự lập kế hoạch môi trường để tạo sự chủ động cho chính quyền địa
phương trong việc đưa ra các giải pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
của từng khu vực; đồng thời, giảm áp lực quản lý hành chính nhà nước cho các cơ
HVTH: Nhóm 1 Trang 14
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
quan BVMT ở trung ương. Tiếp đó, trong lần sửa đổi Hiến pháp năm 1997, nhiều quy
định có liên quan đến BVMT đã được bổ sung như quyền của công dân trong việc tiếp
cận thông tin, tiếp cận công lý; quyền tham gia vào các hoạt động chung. Ví dụ: Điều
59 Hiến pháp quy định về quyền tiếp cận thông tin của người dân đối với việc ra các
quyết định của chính quyền liên quan đến khai thác tài nguyên.
Hoạt động quản lý vật chất nguy hại được điều chỉnh bởi một đạo luật riêng là
Luật Vật chất độc hại năm 1967, sau này được thay thế bằng Luật Vật chất Nguy hại
năm 1992. Luật này đưa ra quy định về quản lý vật chất nguy hại từ khâu sản xuất,
nhập khẩu, xuất khẩu, phân phối đến khâu sử dụng và thải bỏ. Vật chất nguy hại bao
gồm các hóa chất độc hại, vật liệu phóng xạ và các chế phẩm sinh học nguy hại cho
môi trường.
3.1.4. Cộng Hòa Liên Bang Đức
Cộng hoà liên bang Đức đã đưa ra các biện pháp chiến lược để quản lý các chất
thải nguy hại như: ngăn ngừa ngay từ nguồn thải, giảm thiểu số lượng, xử lý và tái sử

dụng CTNH. Trong vòng 20 năm trở lại đây, Cộng hoà liên bang Đức đã ban hành
nhiều đạo luật về quản lý chất thải. Có khoảng 2000 điều luật, quyết định, quy định về
hành chính với nội dung phân loại các chất độc hại trong chất thải khí, rắn, nước
về thu thập, vận chuyển, xác định biện pháp giải quyết chất thải. Mỗi lần thay đổi luật,
quy định mới lại khắt khe và chặt chẽ hơn. Đó là những biện pháp xử lý bằng pháp
luật rất nghiờm cỏc trường hợp làm phát sinh các CTNH mà chưa xử lý hoặc quá giới
hạn cho phép, có thể áp dụng biện pháp phạt tiền hoặc đình chỉ hoạt động của các nhà
máy, xí nghiệp hay cơ sở sản xuất đã vi phạm pháp luật, bắt bồi thường thiệt hại gây ra
hoặc truy tố trước pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật của Cộng hoà liên bang Đức
khuyến khích việc đổi mới công nghệ và thiết bị, thực hiện giảm thuế hoặc cho vay
tiền với lãi suất thấp trả dần nếu đầu tư vào công nghệ mới hay thiết bị xử lý chất thải
nguy hại, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân nhận thức được tác hại nguy
hiểm của loại chất thải này. Sự phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước, các kỹ
thuật gia, các nhà sinh học, hoá học trong lĩnh vực chất thải nguy hại đã đưa cộng hoà
liên bang Đức trở thành một trong những quốc gia đứng hàng đầu về công nghệ bảo vệ
môi trường nói chung và trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại nói riêng.
3.1.5. Ấn Độ
Năm 1989, Chính phủ Ấn Độ đã ban hành các điều lệ về quản lý CTNH. Trong
thời gian đầu chủ yếu xác định cỏc hoỏ chất nguy hiểm và độc hại, cỏc hoỏ chất dễ
cháy nổ và chất nổ. Bất kỳ tổ chức nào xử lý chất thải nguy hiểm đều phải tiến hành
các bước thích hợp nhằm đảm bảo thu gom, lưu trữ và xử lý thích hợp loại chất thải
này trực tiếp hoặc thông qua bộ phận vận hành của cơ sở xử lý. Hiện nay, chính phủ
Ấn Độ đang đẩy mạnh việc huy động vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế để thúc đẩy
việc xây dựng thiết bị xử lý và chôn lấp chất thải.
Đối với Việt Nam, trong điều kiện nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, nhận thức
của cộng đồng chưa được nâng cao thì chúng ta cần phải quan tâm, chú ý tới việc học
tập kinh nghiệm của các nước và áp dụng phù hợp với tình hình thực tế của đất nước
nhằm mục đích đạt được hiệu quả cao nhất trong công tác quản lý CTNH.
3.2. Sự phát triển của pháp luật quản lý chất thải rắn Việt Nam
Tình hình kinh tế xã hội ngày càng phát triển, hệ thống pháp luật ngày càng được

hoàn thiện nên công tác bảo vệ môi trường, trong đó có lĩnh vực quản lý CTNH ngày
HVTH: Nhóm 1 Trang 15
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
càng được quan tâm. Sự quan tâm này được đánh dấu bằng sự ra đời của LBVMT
1993.
Trong LBVMT 1993 đã đưa ra một số quy định chung về quản lý chất thải. Quản
lý CTNH đã được phân cấp theo các nội dung quản lý môi trường nói chung, theo đú
cỏc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp theo chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của mình phải có trách nhiệm trong việc quản lý chất thải, đặc
biệt là CTNH. Như vậy về mặt pháp lý vấn đề quản lý CTNH đã bước đầu được nhà
nước ta đề cập tới. Ngày 28/10/1994 Chính phủ ban hành Nghị định 175/CP về hướng
dẫn thi hành LBVMT 1993 đã khẳng định nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ khoa học,
Công nghệ và Môi trường và các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường…. trong
quản lý CTNH
Một loạt các văn bản khác đề cập đến các khía cạnh khác nhau trong lĩnh vực quản
lý CTNH cũng đã ra đời như: Nghị định số 02/CP ngày 05/01/1995 của Chính phủ quy
định hàng hoá cấm kinh doanh thương mại và hàng hóa dịch vụ kinh doanh thương
mại có điều kiện ở thị trường trong nước; Thông tư số 1350/TTKCM ngày 02/08/1995
của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn việc thực hiện nghị định trên
đối với hàng hoá là hoá chất độc mạnh, chất phóng xạ, phế liệu, phế thải kim loại và
phế liệu, phế thải cú hoỏ chất độc hại và một số loại vật tư kỹ thuật cao cấp kinh doanh
có điều kiện thị trường ở trong nước; Thông tư liên bộ số 2880-KCM/TM ngày
19/12/1996 của Bộ Khoa học, Công nghệ và môi trường, Bộ Thương mại quy định tạm
thời về nhập khẩu các phế liệu…
Ngày 16/07/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành “quy chế quản lý CTNH”
kèm theo Quyết Định 155/1999/QĐ-TTg nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu tối đa việc
phát sinh các tác động nguy hại đối với môi trường và sức khoẻ con người. Cùng với
các văn bản hỗ trợ như: quyết định số 1970/1999/QĐ-BKHCNMT về ban hành quy
trình công nghệ tiêu huỷ thuốc BVTV phốt pho hữu cơ tồn đọng và cấm sử dụng,
Quyết định số 1791/ 1999/QĐ-BKHCNMTvề ban hành quy trình công nghệ tiêu huỷ

và tái sử dụng Xyanua…
Ngày 29/11/2005 LBVMT 2005 ra đời thay thế LBVMT 1993, với hẳn một
chương riêng quy định về việc quản lý CTNH mục 2 chương VIII đã tạo ra một ý
nghĩa lớn trong công tác bảo vệ môi trường nói chung và quản lý CTNH nói riêng, đó
là tạo ra cơ sở thống nhất trong việc quản lý CTNH. Sự ra đời của LBVMT 2005 đã
chứng tỏ tầm nguy hiểm của CTNH đối với môi trường và sức khoẻ con người cũng
như sự quan tâm đúng đắn của nhà nước ta đối với vấn đề này. Trong luật này, việc
quản lý CTNH được chú trọng ở các nội dung: Lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép và mã số
hoạt động quản lý chất thải nguy hại; Phân loại, thu gom, lưu giữ tạm thời chất thải
nguy hại; Vận chuyển chất thải nguy hại; Xử lý chất thải nguy hại…
Cùng với sự ra đời của LBVMT 2005 thì một loạt các văn bản dưới luật được ra
đời để làm rõ cho LBVMT 2005 và tạo điều kiện cho việc áp dụng LBVMT 2005 của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân được hiệu quả như: Nghị định của Chính Phủ số
80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật bảo vệ môi trường 2005. Quyết định số 23/2006/QĐ-BTNMT ngày
26 tháng 12 năm 2006 về việc ban hành danh mục CTNH. Nghị định của Chính Phủ
số 81/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường. Quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ số 155/1999/QĐ-TTg ngày
16/7/1999 về việc ban hành quy chế quản lý CTNH. Thông tư của Bộ TN&MT số
HVTH: Nhóm 1 Trang 16
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
12/2006/TT-BTNMT ngày 26/12/2006 hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập
hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý CTNH….
Có thể nói với hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay thì vấn đề bảo vệ môi
trường nói chung và quản lý CTNH đã phần nào đạt được những hiệu quả nhất định.
Tuy nhiên do sự phát triển của nền kinh tế-xã hội cùng với đó là những hạn chế trong
lĩnh vực lập pháp, kinh nghiệm quản lý… nên chúng ta còn chưa đạt được nhiều kết
quả trong việc quản lý CTNH trên phạm vi cả nước. Vì thế việc làm rõ và hoàn thiện
hệ thống pháp luật về quản lý CTNH luôn luôn được đặt ra như một yêu cầu cấp bách
hiện nay.

3.3. Một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Việc thiết kế hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường của các quốc gia trên thế giới
rất đa dạng. Có quốc gia chia các quy định theo các thành phần môi trường gồm đất,
nước, không khí và tiếng ồn, độ rung. Có quốc gia lại phân loại theo các hoạt động
kinh tế, xã hội của con người gồm công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, sinh hoạt, xử lý
chất thải. Lại có quốc gia phân chia theo các biện pháp bảo vệ môi trường như ngăn
ngừa ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm, xử lý tranh chấp. Mỗi phương pháp phân loại có
những ưu điểm, nhược điểm riêng và chỉ phù hợp với những điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội nhất định. Do đó, tìm ra một phương án phù hợp với điều kiện Việt Nam
không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, với những đánh giá ở mức độ chung nhất,
nghiên cứu này có thể chỉ ra một số điểm nhấn như là các bài học kinh nghiệm có giá
trị nghiên cứu tham khảo:
• Một là, trong bối cảnh các vấn đề môi trường, chính sách BVMT chưa ổn định thì
mô hình một luật khung và nhiều luật “vệ tinh” có nhiều ưu điểm hơn so với mô
hình một đạo luật lớn.
Mô hình luật khung kèm theo nhiều luật vệ inh là kinh nghiệm Trung Quốc, đặc
biệt là Hàn Quốc. Mô hình này làm tăng tính ổn định và tính điều chỉnh kịp thời của
pháp luật. Đạo luật khung này giống như một bản hiến pháp trong lĩnh vực môi trường
với những quy định về mục tiêu, nguyên tắc và các công cụ, chính sách có thể được áp
dụng để BVMT. Các luật “vệ tinh” giải quyết từng vấn đề môi trường cụ thể tùy thuộc
vào thực tiễn phát sinh. Các đạo luật “vệ tinh” không nhất thiết phải được xây dựng
theo đủ các thành phần môi trường hay bao quát hết tất cả các hoạt động của con
người, mà chỉ cần giải quyết được từng vấn đề môi trường cụ thể. Trong quá trình ban
hành các đạo luật “vệ tinh”, cần đặc biệt lưu ý sự thống nhất và tránh chồng chéo với
các đạo luật khác. Mô hình này khá giống với Việt Nam bởi hệ thống pháp luật bảo vệ
môi trường dường như đang đi theo xu hướng này.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào hệ thống pháp luật của một số quốc gia phát triển như
Thụy Điển và Đức thì lại cho thấy điều ngược lại. Thụy Điển pháp điển hóa 15 đạo
luật khác nhau về bảo vệ môi trường ban hành trước đó và xây dựng thành Bộ luật
Môi trường vào năm 1998. Các nguyên tắc riêng trong 15 đạo luật được thay thế bởi

các nguyên tắc chung. Đức là quốc gia cũng đã và đang có những bước đi tương tự.
Đây là cách thức thiết kế của các quốc gia có trình độ phát triển cao, các quan hệ xã
hội và chính sách bảo vệ môi trường rất ổn định, ít thay đổi. Xu hướng này cũng là
một lựa chọn đáng phải suy nghĩ trong tương lai và có thể là một chỉ dấu của sự thay
đổi, phát triển pháp luật bảo vệ môi trường thế giới.
• Hai là, nghiên cứu việc tách pháp luật về đánh giá tác động môi trường của các dự
án đầu tư (ĐTM) ra thành một đạo luật riêng.
HVTH: Nhóm 1 Trang 17
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
Cần tách riêng quy định về đánh giá tác động môi trường của các dự án đầu tư
(ĐTM) ra thành một đạo luật riêng, bởi chế định này có nhiều đặc điểm riêng, không
chỉ là công cụ để BVMT mà còn là một sự thể hiện của dân chủ xã hội thông qua các
quyền như tiếp cận thông tin về môi trường, quyền tham gia vào các công việc chung
của cộng đồng. Hơn nữa, chế định này liên quan rất nhiều đến pháp luật về đầu tư và
kinh doanh và cần phải được quy định sao cho tương thích với các ngành luật này như
quy định của Hàn Quốc, Liên bang Nga.
• Ba là, đối tượng tác động và hiệu lực không gian của pháp luật về BVMT nên được
quy định rộng hơn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nga, không chỉ bao gồm các
hành vi diễn ra trên lãnh thổ quốc gia mà cả trên biển.
Trên cơ sở chủ quyền quốc gia và phù hợp với pháp luật quốc tế, việc bảo vệ môi
trường biển (bao gồm cả những vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia…) là nội
dung cần được tiếp tục xem xét đặt ra một cách toàn diện, đầy đủ hơn khi mà nhu cầu
về quản lý biển đảo theo hướng ngày càng tăng cường hiệu lực, hiệu quả, gắn với yêu
cầu phát triển bền vững đang là mối quan tâm lớn của Việt Nam.
• Bốn là, các quy định về quản lý chất thải nên được tách ra khỏi hệ thống pháp luật
chung về BVMT.
Cần tránh quan niệm cho rằng chất thải luôn luôn gây tác động xấu đến môi
trường mà cần nhìn nhận cả khía cạnh “tài nguyên” của chất thải, coi quản lý chất thải
chỉ là một khâu của quá trình sản xuất, tiêu dùng. Điều này sẽ giúp làm giảm tình trạng
nhiều chủ thể sản xuất, tiêu dùng không quan tâm đến việc mình thải ra cả những vật

chất còn khả năng tái chế như quy định của Hàn Quốc.
• Năm là, thống nhất công tác quản lý vật chất nguy hại, cả trong quá trình sử dụng
lẫn sau khi thải bỏ.
Việc thống nhất công tác quản lý vật chất nguy hại, cả trong quá trình sử dụng lẫn
sau khi thải bỏ là kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Hiện nay, Việt Nam có Luật Hóa chất, trong đó có quy định việc quản lý các loại
hóa chất nguy hại từ khâu sản xuất, vận chuyển, sử dụng. Đến khi các hóa chất này bị
thải bỏ thì lại được quản lý theo các quy định về chất thải nguy hại theo Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005. Việc khác nhau về các quy định quản lý cùng với khác biệt về
cơ quan chịu trách nhiệm (Bộ Công thương và Bộ Tài nguyên và Môi trường) có thể
gây ra nhiều vướng mắc và giảm hiệu quả của quá trình áp dụng thực tiễn.
Lĩnh vực quản lý vật chất nguy hại nên được tách riêng và quản lý thống nhất từ
khâu sản xuất cho đến khâu thải bỏ, không nên cắt đoạn công tác quản lý chất thải
nguy hại như quy định của Thái Lan.
• Sáu là, nên đặt ra quy chế đặc biệt nhằm BVMT tại những khu vực cần được bảo
vệ đặc biệt và những khu vực đã chịu ô nhiễm nghiêm trọng.
Việc đặt ra quy chế đặc biệt nhằm BVMT tại những khu vực cần được bảo vệ đặc
biệt và những khu vực đã chịu ô nhiễm nghiêm trọng sẽ giúp cho các cơ quan nhà
HVTH: Nhóm 1 Trang 18
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
nước chủ động hơn khi phải đối phó với các vấn đề môi trường nghiêm trọng tại một
khu vực xác định như quy định của Thái Lan.
• Bảy là, việc bảo vệ môi trường trong các đô thị và khu dân cư đông đúc luôn phải đi
kèm với công tác bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Việc bảo vệ môi trường trong các đô thị và khu dân cư đông đúc luôn phải đi kèm
với công tác sức khỏe cộng đồng là kinh nghiệm của Singapore. Điều này cũng là hợp
lý, bởi lẽ, tại các khu đô thị tập trung, các điều kiện tự nhiên sẽ không còn nhiều để
phải lưu tâm, trong khi đó, sức khỏe của người dân là mục tiêu quan trọng của công
tác bảo vệ môi trường. Kinh nghiệm này có thể được nghiên cứu tham khảo, nhất là tại
các khu vực đô thị ở nước ta.

• Tám là, việc đưa các quy định về chế tài vào ngay trong văn bản luật là điểm đáng
chú ý.
Việc đưa các quy định về chế tài vào ngay trong văn bản luật là điểm đáng chú ý
theo kinh nghiệm của Trung Quốc và Hàn Quốc. Xét ở một khía cạnh nhất định, việc
quy định theo hướng này có thể phần nào tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thực thi,
áp dụng pháp luật một cách kịp thời trong thực tiễn đặt trong bối cảnh việc ban hành
văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành còn có không ít trường hợp chưa bảo
đảm tính kịp thời như hiện nay.
CHƯƠNG 4:
LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH VỀ QUẢN LÝ CTR VÀ CTNH CỦA NƯỚC TA
Việc phân loại CTR có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Nếu phân chia theo
nguồn gốc phát sinh, có thể chia ra CTR sinh hoạt đô thị, CTR xây dựng, CTR nông
thôn, nông nghiệp và làng nghề, CTR công nghiệp, CTR y tế. Mặt khác, nếu phân chia
theo tính chất độc hại của CTR thì chia ra làm 2 loại: CTR nguy hại và CTR thông
thường. Với mỗi cách phân loại khác nhau, sẽ có những đặc điểm khác nhau về lượng
và thành phần CTR.
Quá trình phát sinh CTR gắn liền với quá trình sản xuất, mỗi giai đoạn của quá trình
sản xuất đều tạo ra CTR, từ khâu khai thác, tuyển chọn nguyên liệu đến khi tạo ra sản
phẩm phục vụ người tiêu dùng.
HVTH: Nhóm 1 Trang 19
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
Bảng : CTR theo các nguồn phát sinh khác nhau (Nguồn: TCMT tổng hợp)
4.1. Pháp luật về quản lý CTR và CTNH
Trong thời gian qua, các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT nói chung và quản
lý, xử lý CTR nói riêng đã được ban hành cả ở cấp Trung ương và địa phương. Các
quy định được điều chỉnh đối với các vấn đề như quản lý CTR, chất thải nguy hại; quy
định về tái chế; nhập khẩu phế liệu; cơ sở hạ tầng quản lý chất thải; quy hoạch quản lý
CTR, quy hoạch các công trình xử lý CTR; phí và lệ phí quản lý CTR, chế tài xử phạt
các hành vi vi phạm pháp luật và các TCVN, QCVN về môi trường.
Bảng : Danh sách các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến CTR và CTNH

T
T
Văn bản quy phạm pháp luật
Thời gian
ban hành
1 Văn bản chung về BVMT

Luật Bảo vệ môi trường ngày 29/11/2005, có hiệu lực từ ngày
1/7/2006
2005

Luật Thuế Bảo vệ môi trường ngày 15/11/2010, có hiệu lực từ
ngày 01/1/2012
2010

Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt kế hoạch quản lý các cơ sở gây ô nhiễm
nghiêm trọng
2003

Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ
ban hành Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường (có hiệu lực từ ngày 30/12/2013, thay thế nghị
định 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009)
2009

Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/08/2011 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế BVMT
2011
HVTH: Nhóm 1 Trang 20

Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
2 Quy định về CTR và chất thải nguy hại

Chỉ thị số 199/TTg ngày 3/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về các
biện pháp khẩn cấp để quản lý chất thải rắn ở vùng đô thị và khu
công nghiệp
1997

Quyết định số 152/1999/QĐ-TTg ngày 10/7/1999 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về quản lý chất thải rắn
ở khu công nghiệp và đô thị tới năm 2020
1999
Quy chế 155/1999/QĐ-TTg ngày 16/11/1999 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành quy chế quản lý chất thải nguy hại
1999

Quyết định số 60/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 7/8/2002 của Bộ
trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường về việc ban hành
Hướng dẫn kỹ thuật chôn lấp chất thải nguy hại
2002

Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 của Chính phủ về
quản lý chất thải rắn
2007

Quyết định số 2149/2009/QĐ-TTg ngày 17/12/2009 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về Quản lý chất thải rắn
đến năm 2025, tầm nhìn tới năm 2050
2009


Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/4/2011 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường quy định về quản lý chất thải nguy hại
2011
3 Quy định về tái chế

Quyết định số 03/2004/QĐ-BTNMT ngày 2/4/2004 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về việc ban hành Quy định về bảo vệ môi
trường đối với phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất
2004
4 Quy định về cơ sở hạ tầng quản lý chất thải

Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BKHCNMT-BXD ngày
18/1/2001 hướng dẫn các quy định về bảo vệ môi trường đối với
việc lựa chọn địa điểm, xây dựng và vận hành bãi chôn lấp chất
thải rắn
2001

Quyết định số 1440/2008/QĐ-TTg ngày 6/10/2008 của Thủ tướng
chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch xây dựng khu xử lý chất
thải rắn 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía
Nam đến năm 2020
2008
5 Phí và lệ phí quản lý chất thải rắn

Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006 của Bộ Tài chính
sửa đổi, bổ sung Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/07/2002
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các Quy định pháp luật về
phí và lệ phí
2006


Nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về
phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn
2007

Thông tư 39/2008/TT-BTC ngày 19/5/2008 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007
của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn.
2008
HVTH: Nhóm 1 Trang 21
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.

Thông tư số 121/2008/TT-BTC ngày 12/12/2008 của Bộ Tài chính
hướng dẫn cơ chế ưu đãi và hỗ trợ tài chính cho hoạt động đầu tư
quản lý chất thải rắn
2008
6 Hệ thống các QCVN và TCVN

TCVN 6696:2000 Tiêu chuẩn Việt Nam về chất thải rắn - Bãi chôn
lấp hợp vệ sinh
2000

TCVN 6705:2000 tiêu chuẩn Việt Nam về chất thải không nguy
hại - Phân loại
2000

TCVN 6706:2000 Tiêu chuẩn Việt Nam về chất thải nguy hại -
phân loại
2000
TCXDVN 261:2001 Tiêu chuẩn thiết kế - Bãi chôn lấp 2001


TCXDVN 320:2004 Tiêu chuẩn thiết kế - Bãi chôn lấp chất thải
nguy hại
2004

TCVN 7629:2007 Tiêu chuẩn Việt Nam về ngưỡng chất thải nguy
hại
2007

TCVN 6707:2009 Tiêu chuẩn Việt Nam về chất thải nguy hại -
Dấu hiệu cảnh báo
2009

QCVN 02:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải
lò đốt chất thải y tế
2008

QCVN 07: 2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
ngưỡng chất thải nguy hại
2009

QCVN 25:2009/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước
thải của bãi chôn lấp chất thải rắn
2009

QCVN 07:2010/BXD - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về hạ tầng kỹ
thuật đô thị
2010

QCVN 31:2010/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường đối với phế liệu sắt, thép nhập khẩu

2010

QCVN 32:2010/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường đối với phế liệu nhựa nhập khẩu
2010

QCVN 33:2010/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường đối với phế liệu giấy nhập khẩu
2010
4.1.1. Pháp luật về quản lý CTR
Luật Bảo vệ Môi trường 2005
Nghị định 59/2007/NĐ-CP
Nghị định 142/2007/NĐ-CP
Thông tư 13/2007/TT-BXD
Thông tư 39/2008/TT-BTC
Nghị định 179/2013/NĐ-CP
Hướng dẫn
Hướng dẫn
Hướng dẫn
Thực thi
Văn bản xử phạt
HVTH: Nhóm 1 Trang 22
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
4.1.1.1. Các quy định pháp luật chung về quản lý CTR
 Đối với cá nhân, tổ chức:
- Điều 66, 68 Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định, các cá nhân, tổ chức trong
hoạt động của mình mà làm phát sinh chất thải thì phải có những trách nhiệm sau:
+ Áp dụng các biện pháp làm giảm thiểu phát sinh chất thải: Các biện pháp giảm
thiểu việc phát sinh chất thải rất đa dạng, từ việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ
thuật, sử dụng tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu; sử dụng vật liệu bao bì đóng gói cho

tới các biện pháp quản lý; áp dụng các phương pháp sản xuất sạch hơn, sử dụng công
nghiệ sạch trong sản xuất Các biện pháp giảm thiểu chất thải có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong hoạt động quản lý chất thải bởi nó loại trừ được nguyên nhân làm
phát sinh chất thải.
+ Có biện pháp thu gom đến mức tối đa lượng chất thải mà mình tạo ra: Trong
trường hợp không thể loại trừ việc phát sinh chất thải, người sản sinh chất thải có trách
nhiệm thu gom chất thải, không được để chất thải thoát ra ngoài môi trường. Khả năng
thực hiện biện pháp thu gom phụ thuộc vào dạng tồn tại của chất thải. Thực hiện biện
pháp thu gom chất thải là điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ tiếp theo của người sản
sinh chất thải.
+ Phân loại chất thải ngay từ nguồn: Việc phân loại chất thải từ nguồn nhằm mục
đích tránh tình trạng lây nhiễm các chất độc hại từ chất thải này sang chất thải khác và
phục vụ cho hoạt động tái chế, tái sự dụng chất thải. Phân loại chất thải ngay từ nguồn
áp dụng chủ yếu với chất thải rắn. Có nhiều tiêu chí khác nhau để tổ chức việc phân
loại chất thải, phân loại giữa chất thải độc hại và chất thải không độc hại, phân loại
chất thải có thể hay không thể tái chế, tái sử dụng Quá trình phân loại chất thải để tái
chế, tái sử dụng nhằm mục đích giảm lượng chất thải phải xử lý tiêu hủy.
+ Có trách nhiệm xử lý chất thải: Trách nhiệm xử lý chất thải là trách nhiệm của
người sản sinh ra chất thải. Người sản sinh chất thải có thể tự mình thực hiện các biện
pháp xử lý như chôn lấp, đốt hoặc phải chi trả chi phí để xử lý. Trong trường hợp
người sản sinh chất thải không có thiết bị xử lý thì phải có hợp đồng với một đơn vị có
chức năng quản lý chất thải để thu gom và xử lý triệt để; và phải trả chi phí quản lý và
xử lý chất thải.Việc áp dụng các biện pháp xử lý phải phù hợp với các yêu cầu của
pháp luật, không được làm ô nhiễm môi trường.
- Ngoài ra, pháp luật còn quy định các tổ chức, cá nhân khi thực hiện hoạt động
lưu giữ, vận chuyển, xử lý chất thải phải sử dụng phương tiện, công nghệ thích hợp
nhằm phòng tránh ô nhiễm môi trường. Thông thường, các doanh nghiệp thực hiện
HVTH: Nhóm 1 Trang 23
Hình : Cơ sở pháp quản lý CTR
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.

hoạt động lưu giữ, vận chuyển, xử lý chất thải là loại hình doanh nghiệp công ích, chịu
sự quản lý và điều hành của Ủy ban nhân dân các cấp. Tuy nhiên trong xu thế xã hội
hóa công tác bảo vệ môi trường, Nhà nước khuyến khích các loại hình doanh nghiệp,
các tổ chức tự quản tham gia vào hoạt động này. Thực thế trong thời gian qua tại các
địa phương như Lạng Sơn, Hà Nội và một số tỉnh, thành phố khác đã chứng minh hiệu
quả rõ rệt về kinh tế và môi trường khi đa dạng hóa các hình thức hoạt động lưu giữ,
vận chuyển và xử lý chất thải.
- Bên cạnh đó, theo điều 67 Luật bảo vệ môi trường 2005 chủ các cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ còn phải có trách nhiệm thu hồi sản phẩm đã hết hạn sử dụng hoặc
thải bỏ dưới đây:
+ Nguồn phóng xạ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
+ Pin, ắc quy.
+ Thiết bị điện tử, điện dân dụng và công nghiệp.
+ Dầu nhớt, mỡ bôi trơn, bao bì khó phân hủy trong tự nhiên.
+ Sản phẩm thuốc, hóa chất sử dụng trong công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản,
thuốc chữa bệnh cho người.
+ Phương tiện giao thông.
+ Săm, lốp.
+ Sản phẩm khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
 Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước:
- Các cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực thi
nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân. Cụ thể là theo điều 69 Luật bảo vệ môi trường 2005,
Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm:
+ Lập quy hoạch, bố trí mặt bằng cho việc tập kết chất thải rắn sinh hoạt, xây
dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tập trung, khu chôn lấp chất thải.
+ Đầu tư, xây dựng, vận hành các công trình công cộng, phục vụ quản lý chất
thải thuộc phạm vi quản lý của mình.
+ Kiểm tra, giám định các chương trình quản lý chất thải của tổ chức, cá nhân
trước khi đưa vào sử dụng.
+ Ban hành và thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho hoạt động quản lý chất

thải theo quy định của pháp luật.
4.1.1.2. Các quy định đối với chủ thể phát sinh chất thải rắn thông thường
- Để đưa ra những quy định áp dụng đối với chủ thể phát sinh CTRTT là điều
không dễ. Bởi các chủ thể này không chỉ đơn thuần là các chủ doanh nghiệp, các khu
công nghiệp, mà còn cả những người dân; người dân lại được chia ra theo khu vực
như: Thành thị, nông thôn, miền núi, hải đảo, vùng cao…
- Chủ nguồn thải bao gồm: các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có hoạt động phát
sinh chất thải rắn (Khoản 11 Điều 3 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP của Chính phủ về
quản lý chất thải rắn)
- Theo Khoản 1 Điều 66 Luật BVMT 2005 quy định: “Tổ chức, cá nhân có hoạt
động làm phát sinh chất thải có trách nhiệm giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng để hạn chế
đến mức thấp nhất lượng chất thải phải tiêu huỷ, thải bỏ.
- Chủ nguồn thải phải chịu các trách nhiệm sau:
+ Thứ nhất: Chủ nguồn thải phải chịu trách nhiệm giảm thiểu lượng chất thải
phát sinh vào môi trường;
+ Thứ hai: Chủ nguồn thải có trách nhiệm phân loại CTRTT tại nguồn;
HVTH: Nhóm 1 Trang 24
Luật và Chính sách trong Quản lý Chất thải rắn và Chất thải nguy hại.
+ Thứ ba: Chủ nguồn thải có trách nhiệm nộp phí vệ sinh và phí bảo vệ môi
trường.
4.1.1.3. Các quy định về thu gom chất thải rắn thông thường
- Nhu cầu về một môi trường sạch đẹp càng cao hơn khi trình độ kinh tế - xã hội,
dân trí phát triển ngày một cao. Những năm gần đây, thu nhập của người dân có những
thay đổi theo hướng tích cực, nhưng môi trường sống vẫn đang bị xuống cấp. Trong
thời gian tới, nạn ô nhiễm môi trường vẫn cứ nặng nề thì chính sách kiểm soát môi
trường sẽ phải có những thay đổi đáng kể.
- Theo Điều 3 Khoản 5 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09 tháng 4 năm 2007
của Chính Phủ về quản lý chất thải rắn thì: Thu gom chất thải rắn là hoạt động tập
hợp, phân loại, đóng gói và lưu giữ tạm thời chất thải rắn tại nhiều điểm thu gom tới
địa điểm hoặc cơ sở được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.

- Trách nhiệm của chủ thể thu gom CTRTT được quy định tại Điều 26 Nghị định
59/2007/NĐ-CP.
- Trong quá trình thực hiện quy định của pháp luật đối với chủ thể thu gom chất
thải trong đó có CTRTT trên thực tế còn nhiều vấn đề câp bách cần phải đưa ra giải
pháp hoàn thiện.
- Thực tế hiện nay chủ thể thu gom chất thải thường thu gom lẫn các loại chất thải
với nhau cả CTRTT và chất thải nguy hại.
4.1.1.4. Các quy định về vận chuyển chất thải rắn thông thường
- Tại Khoản 7 Điều 3 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn định
nghĩa: “Vận chuyển chất thải rắn là quá trình chuyên chở chất thải rắn từ nơi phát sinh,
thu gom, lưu giữ, trung chuyển đến nơi xử lý, tái chế, tái sử dụng hoặc bãi chôn lấp
cuối cùng”.
- Đây là hoạt động được quan tâm rất lớn bởi hoạt động này đóng vai trò quan
trong trong hoạt động quản lý chất thải. Từ nơi phát sinh, chất thải qua thu gom đến
được nơi xử lý hoặc tái chế phải qua hoạt động vận chuyển. Hoạt động này nếu được
thực hiện tốt sẽ làm giảm đáng kể sự ứ đọng chất thải tại nơi thu gom.
- Cũng giống như việc thu gom, vận chuyển CTRTT cùng được thực hiện do các
công ty dịch vụ, hợp tác xã dịch vụ hay các hộ gia đình thông qua hợp đồng thực hiện
dịch vụ.
- Hợp đồng dịch vụ vận chuyển chất thải rắn được quy định tại Khoản 1 Điều 37
Nghị định 59: Hợp đồng dịch vụ quản lý chất thải rắn bao gồm các dạng sau:
+ Hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn;
+ Hợp đồng dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn.
- Theo quy định của pháp luật về vận chuyển chất thải thì chủ thể vận chuyển chất
thải phải thực hiện các nghĩa vụ.
+ Không được làm rò rỉ, rơi vãi chất thải, gây phát tán bụi, mùi;
+ Chủ thể vận chuyển chất thải có trách nhiệm vận chuyển chất thải từ nơi thu
gom đến lưu giữ hay xử lý chất thải.
4.1.1.5. Các quy định về lưu giữ chất thải rắn thông thường
- Lưu giữ chất thải là giai đoạn trung gian trước khi đưa chất thải đi xử lý và tiêu

huỷ. Tại Khoản 6 Điều 3 Nghị định số 59/2007/NĐ-CP về quản lý chất thải rắn định
nghĩa: “Lưu giữ chất thải rắn là việc giữ chất thải rắn trong một khoảng thời gian nhất
định ở nơi được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận trước khi vận chuyển đến cơ sở xử
lý”
HVTH: Nhóm 1 Trang 25

×