ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
BÙI THANH HUYỀN
NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC SINH KHỐI VÀ TÍCH LŨY CACBON
CỦA THẢM CÂY BỤI TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
NA HANG TỈNH TUYÊN QUANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
THÁI NGUYÊN - 2013
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
BÙI THANH HUYỀN
NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC SINH KHỐI VÀ TÍCH LŨY CACBON
CỦA THẢM CÂY BỤI TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN
NA HANG TỈNH TUYÊN QUANG
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.01.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lê Đồng Tấn
THÁI NGUYÊN - 2013
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi cùng
với sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Đồng Tấn. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực. Nếu sai tôi chịu
hoàn toàn trách nhiệm.
Tác giả luận văn
Bùi Thanh Huyền
XÁC NHẬN CỦA KHOA CHUYÊN MÔN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên theo chương trình đào tạo cao học Sinh học hệ chính quy, chuyên
ngành Sinh thái học, khoá 19 (2011 - 2013).
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban giám hiệu, Khoa sau đại học, Quý thầy cô giáo khoa sinh trường Đại học
Sư phạm Thái Nguyên và Quý thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ
trong suốt quá trình học tập,nghiên cứu tại trường.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới người hướng dẫn
khoa học TS. Lê Đồng Tấn, thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ,
truyền đạt những kiến thức quý báu và dành những tình cảm tốt đẹp cho tác
giả trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của phòng bảo tồn Chi cục kiểm lâm
tỉnh Tuyên Quang, các xã thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang đã cung cấp
tư liệu và tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong việc thu thập số liệu ngoại
nghiệp để thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gứi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp trường THCS
Trung Môn, UBND Huyện Yên Sơn cùng những người thân yêu đã động viên,
quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành khoá học này.
Do thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế, bản luận văn này chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, tác giả mong nhận
được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo, các nhà khoa học
cùng bạn bè đồng nghiệp để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 14 tháng 8 năm 2013
Tác giả luận văn
Bùi Thanh Huyền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng v
Danh mục các hình vi
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài. 3
Chƣơng 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Cơ sở lý luận 4
1.1.1. Quá trình quang hợp ở thực vật 4
1.1.2. Tích lũy sinh khối và cacbon ở thực vật 4
1.2. Những nghiên cứu về sinh khối thực vật 5
1.2.1. Trên thế giới 5
1.2.2. Ở Việt Nam 7
1.3. Những nghiên cứu về tích lũy CO
2
11
1.3.1. Trên thế giới 11
1.3.2. Ở Việt Nam 14
1.3.3. Những nghiên cứu về sinh khối và tích lũy CO
2
thảm cây bụi 18
1.3.4. Các phương pháp nghiên cứu 19
Chƣơng 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG
NGHIÊN CỨU 23
2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 23
2.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích 23
2.1.2. Đặc điểm địa hình, địa chất, khí hậu, thủy văn 24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iv
2.1.3. Tài nguyên rừng 26
2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội trong khu BTTN Na Hang 27
2.2.1 Dân số, dân tộc và lao động 27
2.2.2.Tình hình kinh tế, xã hội trong khu BTTN Na Hang 28
Chƣơng 3. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 33
3.1. Đối tượng nghiên cứu 33
3.2.Nội dung nghiên cứu 33
3.3. Phương pháp nghiên cứu 33
3.3.1. Điều tra thu thập số liệu 33
3.3.2. Phương pháp xử lý số liệu 34
Chƣơng 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
4.1. Một số đặc điểm thảm cây bụi vùng nghiên cứu 36
4.1.1.Cấu trúc của các trạng thái thảm thực vật 36
4.1.2.Đặc điểm cấu trúc thành phần loài và tổ thành loài 37
4.1.3. Tính đa dạng loài và mật độ 39
4.2. Sinh khối tươi của thảm cây bụi 42
4.2.1. Tổng sinh khối tươi của thảm cây bụi 42
4.2.2. Sinh khối tươi theo loài cây 44
4.2.2.1. Sinh khối tươi theo loài tại địa điểm 1 44
4.3. Sinh khối khô của cây bụi 47
4.3.1. Tổng sinh khối khô của thảm cây bụi 47
4.3.2. Sinh khối khô theo loài cây 51
4.4. Cấu trúc sinh khối của một số loài ưu thế 54
4.4.1. Phân bố sinh khối tươi theo loài ưu thế 54
4.4.2.Phân bố sinh khối khô theo loài ưu thế : 56
4.5. Trữ lượng cacbon trong thảm cây bụi 57
4.5.1. Trữ lượng cacbon tích lũy trong sinh khối của thảm cây bụi 57
4.5.2. Trữ lượng cacbon theo loài cây ở các địa điểm nghiên cứu 59
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ đầy đủ
CDM
Cơ chế phát triển sạch
(Clean Development Mechanism)
UBND
Uỷ ban nhân dân
UNFCCC
Công ước chống biến đổi khí hậu toàn cầu
(United Nations Framework Convention on Climate
Change)
KNK
Khí nhà kính
OTC
Ô tiêu chuẩn
BTTN
Bảo tồn thiên nhiên
ARCDM
Dự án rồng rừng/ tái trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Hiện trạng rừng tại khu bảo tồn năm 2011 27
Bảng 4.1. Danh lục các loài cây bụi có trong các trạng thái 38
Bảng 4.2: Mật độ và đa dạng theo trạng thái thảm thực vật 40
Bảng 4.3: Mật độ (cây/ha) của một số loài cây bụi tại khu vực nghiên cứu 40
Bảng 4.4.Sinh khối tươi (tấn/ha) của thảm cây bụi tại các điểm nghiên cứu 43
Bảng 4.5: Sinh khối tươi theo loài cây tại địa điểm 1 44
Bảng 4.6: Sinh khối tươi theo loài cây tại địa điểm 2 46
Bảng 4.7: Sinh khối tươi theo loài cây tại địa điểm 3 46
Bảng 4.8. Sinh khối khô (tấn/ha) của thảm cây bụi tại các điểm nghiên cứu 48
Bảng 4.9: Tỷ lệ (%) sinh khối khô theo các bộ phận 49
Bảng 4.10: Sinh khối khô của cây bụi tại địa điểm 1 51
Bảng 4.11: Sinh khối khô theo loài cây tại địa điểm 2 52
Bảng 4.12: Sinh khối khô theo loài cây tại địa điểm 3 53
Bảng 4.13. Sinh khối tươi (tấn/ha) của các loài ưu thế cây bụi ở khu vực
nghiên cứu 55
Bảng 4.14. Sinh khối khô (tấn/ha) của các loài ưu thế cây bụi ở khu vực
nghiên cứu 56
Bảng 4.15: Trữ lượng cacbon trong sinh khối thảm cây bụi 57
Bảng 4.16: Tỷ lệ (%) cacbon theo các bộ phận 58
Bảng 4.17: Trữ lượng cacbon theo loài tại điểm nghiên cứu 1 60
Bảng 4.18: Tỉ lệ (%) cacbon theo các bộ phận 61
Bảng 4.19: Trữ lượng cacbon theo loài ở điểm nghiên cứu 2 64
Bảng 4.20: Tỉ lệ (%) cacbon theo các bộ phận 65
Bảng 4.21: Trữ lượng cacbon theo loài ở điểm nghiên cứu 3 66
Bảng 4.22: Tỉ lệ (%) cacbon trong các bộ phận 66
Bảng 4.23. Lượng cacbon tích luỹ trong các loài cây bụi ưu thế ở khu vực
nghiên cứu 68
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Sơ đồ ô tiêu chuẩn và ô dạng bản 34
Hình 4.1: Cấu trúc sinh khối tươi theo các nhóm cây trong thảm cây bụi tại
khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang, tỉnh Tuyên Quang 43
Hình 4.2: Cấu trúc sinh khối khô theo các nhóm cây trong thảm cây bụi tại
khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang, tỉnh Tuyên Quang 49
Hình 4.3: Cấu trúc sinh khối khô theo các bộ phận của địa điểm 1 50
Hình 4.4: Cấu trúc sinh khối khô theo các bộ phận của địa điểm 2 50
Hình 4.5: Cấu trúc sinh khối khô theo các bộ phận của địa điểm 3 50
Hình4.6: Cấu trúc sinh khối tươi trong thân, lá, rễ của loài ưu thế tại khu bảo
tồn thiên nhiên Na Hang, tỉnh Tuyên Quang 55
Hình 4.7: Sinh khối khô trong thân, lá, rễ của loài ưu thế tại khu bảo tồn thiên
nhiên Na Hang, tỉnh Tuyên Quang 57
Hình 4.8: Tỷ lệ (%) cacbon theo các bộ phận ở địa điểm 1 58
Hình 4.9: Tỷ lệ (%) cacbon theo các bộ phận ở địa điểm 2 59
Hình 4.10: Tỷ lệ (%) cacbon theo các bộ phận ở địa điểm 3 59
Hình 4.11: Cấu trúc lượng các bon tích luỹ của các loài ưu thế 68
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Biến đổi khí hậu, hiện tượng nóng lên của trái đất đang là vấn đề nghiêm
trọng và là mối quan tâm chung của toàn xã hội. Sự gia tăng nhanh chóng nồng độ
khí nhà kính (KNK) trong khí quyển gồm: CO
2
, CH
4
, N
2
O, HFCs, BFCs, FS
6
.
Trong đó chủ yếu là CO
2
, được coi là một trong những nguyên nhân chính dẫn
đến sự biến đổi khí hậu. Nguồn phát sinh KNK là sử dụng năng lượng từ việc đốt
cháy nhiên liệu, sản xuất công nghiệp (khai thác khoáng sản, sản xuất hoá chất…)
sản xuất nông lâm nghiệp (sử dụng phân bón, cháy rừng ) và quản lý chất thải.
Nhằm hạn chế sự gia tăng KNK và sự nóng lên của trái đất, Công ước
khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) đã được soạn thảo
và thông qua tại hội nghị Liên hợp quốc về môi trường và phát triển năm 1992
và chính thức có hiệu lực vào tháng 3 năm 1994.
Tính đến tháng 5 năm 2004, có 188 quốc gia đã phê chuẩn công ước này.
Để thực hiện công ước này, nghị định thư Kyoto đã được soạn thảo và thông
qua năm 1997. Nghị định này là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện việc cắt giảm
KNK thông qua các cơ chế khác nhau, trong đó cơ chế phát triển sạch (CDM -
Clean Development Mechanism) là cơ chế mềm dẻo nhất và có liên quan trực
tiếp tới các nước đang phát triển.
Hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng được coi là các hoạt động sử dụng
đất phù hợp nhất trong CDM. Tuy nhiên, một trong những yêu cầu nghiêm ngặt
trong các dự án trồng rừng/ tái trồng rừng theo cơ chế phát triển sạch
(ARCDM) là phải xác định được lượng cacbon cơ sở (thực chất là trữ lượng
cacbon trước khi trồng rừng/tái trồng rừng) nhằm đề ra các cơ sở khoa học để
chứng minh được lượng tăng thêm hay lượng cacbon thu nạp được bởi các dự
án ARCDM. Do vậy những nghiên cứu trữ lượng cacbon trong sinh khối cây
bụi - một trong những bể chứa cacbon chủ yếu được tiến hành nhằm cung cấp
cơ sở khoa học cho việc xác định lượng cacbon cơ sở trong việc thiết kế và
triển khai các dự án ARCDM ở Việt Nam.
2
Na hang là một huyện vùng cao của tỉnh Tuyên Quang nằm ở phía bắc của
tỉnh. Chính sách bảo vệ và phát tiển rừng của Tuyên Quang nói chung và
huyện Na Hang nói riêng được xếp vào loại tốt nhất trong cả nước. Nhận thức
sớm tầm quan trọng của công tác bảo tồn thiên nhiên. Vì vậy ngày 5/9/1994 Uỷ
ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã ra quyết định thành lập khu bảo tồn thiên
nhiên Na Hang. Tổng diện tích tự nhiên theo quyết định số 247 ngày 5/9/1994
của UBND tỉnh Tuyên quang là: 41.930 ha. Nên việc bảo vệ rừng ngoài giá trị
về gỗ thì sinh khối và trữ lượng cacbon được cho là khá lớn, có tiềm năng cao
trong việc hấp thụ cacbon. Mặt khác cây bụi, thảm tươi là một bộ phận cấu
thành quan trọng của hệ sinh thái rừng. Thông qua quá trình đồng hóa CO
2
, lớp
cây bụi thảm tươi cũng tích lũy một lượng sinh khối không nhỏ song song với
quá trình tích lũy sinh khối của tầng cây gỗ. Vì vậy, sinh khối cây bụi thảm tươi
là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của sinh khối rừng .
Chính vì vậy việc nghiên cứu sinh khối và trữ lượng cacbon ở thảm cây
bụi của rừng thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Na hang sẽ cung cấp cơ sở khoa
học quan trọng trong việc kiểm kê khí nhà kính và thương mại giá trị cacbon
của rừng nhằm bổ sung dẫn liệu về cấu trúc sinh khối và khả năng tích luỹ
cacbon của thảm thực vật làm cơ sở xác định lượng cacbon cơ sở trong dự án
trồng rừng theo cơ chế sạch ở Việt Nam. Góp phần thực hiện chính sách chi trả
dịch vụ môi trường rừng ở Tuyên Quang đang được bắt đầu xây dựng đề án
theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày24/9/2010 của Chính phủ.
Với lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu cấu trúc sinh khối và
tích luỹ cacbon của thảm cây bụi tại khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang -
tỉnh Tuyên Quang”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được cấu trúc sinh khối của một số thảm cây bụi tại khu bảo
tồn thiên nhiên Na Hang - Tỉnh Tuyên Quang.
- Đánh giá được khả năng tích lũy cacbon của các thảm cây bụi và các loài
trong thảm cây bụi tại khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang - Tỉnh Tuyên Quang.
3
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2013 tại
Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
4.1 Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Nhằm bổ sung dẫn liệu về cấu trúc sinh khối và khả năng tích lũy
cacbon trong thảm thực vật làm cơ sở xác định lượng cacbon cơ sở trong các
dự án trồng rừng theo cơ chế sạch ở Việt Nam, góp phần định lượng giá trị môi
trường của rừng tự nhiên.
- Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang là một trong những Khu bảo tồn thiên
nhiên đẹp về cảnh quan, giàu và quí về kiểu rừng nên Khu bảo tồn còn để thực
hiện các nghiên cứu về quá trình diễn thế và phục hồi thảm thực vật, nên kết quả
nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung dẫn liệu về khả năng tích lũy sinh khối và
cacbon trong thảm thực vật trong quá trình diễn thế phục hồi rừng.
4.2 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đưa ra những dẫn liệu khoa học giúp cho việc thực hiện chính sách chi trả
dịch vụ môi trường rừng ở Tuyên Quang theo Nghị định 99/2010 - NĐCP ngày
24/9/2010 của Chính phủ.
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quá trình quang hợp ở thực vật
Quang hợp là quá trình biến đổi chất vô cơ thành chất hữu cơ của thực
vật có chất diệp lục. Dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. Phương trình quang
hợp của thực vật nói chung và của cây bụi nói riêng như sau:
6CO
2
+ 6H
2
O = C
6
H
12
O
6
+ 6 O
2
+ Q.
Đây chính là phương trình chứng minh khả năng hấp thụ khí CO
2
của thực
vật có chứa diệp lục, trong đó có cây bụi - đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Quang hợp là quá trình mà cơ thể thực vật biển đổi năng lượng ánh sáng
mặt trời thành năng lượng hoá học dưới dạng các hợp chất hữu cơ. Bản chất
của quá trình quang hợp là sự khử khí CO
2
đến hydratcacbon với sự tham gia
của năng lượng ánh sáng mặt trời do sắc tố của thực vật hấp thu.
Ý nghĩa sinh học cơ bản của quá trình quang hợp là lấy năng lượng tự do
từ môi trường xung quanh rồi tích luỹ nó dưới dạng các phân tử hữu cơ bền
vững. Vai trò có một không hai của quang hợp là làm cho CO
2
(sản phẩm cuối
cùng của sự phân giải các hợp chất hữu cơ) lại được quay trở lại đi vào chu
trình các chất trong tự nhiên tạo thành chất hữu cơ ban đầu. Không có điều đó
thì không có sự tồn tại của sự sống.
1.1.2. Tích lũy sinh khối và cacbon ở thực vật
Sinh khối được xác định là tất cả chất hữu cơ ở dạng sống và chết (còn ở
trên cây) ở trên hoặc ở dưới mặt đất [15]. Sinh khối được xem như một chỉ tiêu
để đánh giá sức sản xuất của thực vật và cũng là một chỉ tiêu đánh giá năng
suất sinh học của thực vật.
Thực vật có khả năng quang hợp đã hấp thụ CO
2
và thải lượng O
2
tương
ứng vào môi trường, đồng thời tích lũy sinh khối ở dạng carbon. Do đó, nghiên
5
cứu sinh khối thực vật là cần thiết, đây là cơ sở xác định lượng carbon tích lũy
và từ đó đánh giá khả năng hấp thụ CO
2
của thực vật, cung cấp thông tin quan
trọng giúp các nhà quản lý đánh giá chất lượng cũng như sử dụng hiệu quả hệ
thực vật, tham gia thị trường carbon, làm cơ sở cho chi trả dịch vụ môi trường.
Qua đó, hạn chế tàn phá rừng.
1.2. Những nghiên cứu về sinh khối thực vật
1.2.1. Trên thế giới
Christensen (1997) đã nghiên cứu sinh khối của rừng Đước ở rừng ngập
mặn đảo Phuket trên bờ biển Tây, Thái Lan. Kết quả nghiên cứu đã xác định
được tổng lượng sinh khối trên mặt đất ở rừng 15 tuổi là 159 tấn sinh khối khô
trên một ha. Lượng tăng trưởng hàng năm tính cho toàn bộ thân, cành, lá và rễ
khoảng 20 tấn/ha/năm. Tổng năng suất sinh khối khô là 27 tấn/ha/năm. Nghiên
cứu cũng đã so sánh lượng vật rụng của rừng ngập mặn và rừng mưa nhiệt đới
thì thấy lượng vật rụng hàng năm của rừng ngập mặn cao hơn so với rừng mưa
nhiệt đới do rừng ngập mặn nhỏ tuổi hơn và sinh trưởng nhanh hơn [26].
Michael S và Ross (1998) đã nghiên cứu sinh khối và năng suất trên mặt đất
của các quần thể rừng ngập mặn ở vườn Quốc gia Biscayne, Florida (USA) từ sau
cơn bão Andrew xảy ra năm 1992, kết quả phân tích cho thấy: Cấu trúc tự nhiên
của quần thể giữ vai trò quan trọng trong việc chống bão của hệ thống rừng ngập
mặn, đặc biệt kích thước và sự phân bố của các bộ phận cấu thành sinh khối [30].
Akira và cs (2000) qua nghiên cứu sinh khối và kích thước rễ dưới mặt đất
của Dà vôi (Ceriops tagal) ở Nam Thái Lan kết quả cho thấy: Tổng sinh khối là
137,5 tấn/ha và tỉ lệ sinh khối trên mặt đất và rễ là 1,05. Trong đó sinh khối
thân được 53,35 tấn/ha, lá được 13,29, rễ được 1,99 tấn/ha và dưới mặt đất là
87,51 tấn/ha [22].
Kumar B. M, Rajesh G và Sudheesh K. G (2005) đã nghiên cứu sinh khối
trên mặt đất và hấp thụ chất dinh dưỡng của Bambusa bambos (L.) Voss ở khu
vườn Thrissur, Kerala, miền Nam Ấn Độ. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sinh
khối trên mặt đất trung bình là 2.417 kg/bụi và trung bình mỗi ha là 241,7
6
tấn/ha. Sinh khối tích lũy cao nhất là ở thân tươi (82 %), tiếp theo gai và lá (13
%), thân cây chết chiếm khoảng 5 % trong sinh khối. Đồng thời cũng đã thiết
lập được phương trình tương quan giữa số lượng cây, sinh khối khô thân và
tổng sinh khối cụm với đường kính (DBH).
Những nghiên cứu về sinh khối tích tụ trên vật rơi rụng dưới tán rừng đã
được một số tác giả nghiên cứu. Theo đó lượng rơi rụng rất khác nhau ở các
kiểu rừng khác nhau và phụ thuộc vào thành phần loài cây [28].
Theo Isagi.Y, Kawahara. T, Kamo. K và Ito. H (1997) sinh khối tích lũy ở
thân là 116,50 tấn/ha, ở cành là 15,5 tấn/ha, sinh khối lá 5,9 tấn/ha và tổng sinh
khối 137,9 tấn/ha [34].
Khi nghiên cưú bộ phận cây bụi và những cây tầng dưới của tán rừng
đóng góp một phần quan trọng trong tổng sinh khối rừng. Có nhiều phương
pháp để xác định sinh khối cho cây bụi và cây tầng dưới trong hệ sinh thái cây
gỗ (Catchpole và Wheeler, 1992). Các phương pháp bao gồm: (1)- Lấy mẫu
toàn bộ cây (quadrats); (2)- phương pháp kẻ theo đường; (3)- phương pháp mục
trắc; (4)- phương pháp lấy mẫu kép sử dụng tương quan.
Các nhà sinh thái rừng đã dành sự quan tâm đặc biệt đến nghiên cứu sự
khác nhau về sinh khối rừng ở các vùng sinh thái. Tuy nhiên, việc xác định đầy
đủ sinh khối rừng không dễ dàng, đặc biệt là sinh khối của hệ rễ, nên việc làm
sáng tỏ vấn đề trên đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn nữa mới đưa ra được những dẫn
liệu mang tính thực tiễn và có sức thuyết phục cao. Hiện nay tồn tại 3 cách tiếp
cận để xác định sinh khối rừng như sau:
Cách i) Tiếp cận thứ nhất: Dựa vào mối liên hệ giữa sinh khối rừng
với kích thước của cây hoặc của từng bộ phận cây theo dạng hàm toán học
nào đó. Hướng tiếp cận này được sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ và châu Âu
(Whittaker, 1966; Tritton và Hornbeck, 1982; Smith và Brand, 1983) (dẫn
theo Võ Đại Hải - 2009) [3].
Cách ii) Tiếp cận thứ hai: Xác định sinh khối rừng thông qua đo trực tiếp
quá trình sinh lý điều khiển cân bằng carbon trong hệ sinh thái. Cách này bao gồm
7
việc đo cường độ quang hợp và hô hấp cho từng thành phần trong hệ sinh thái
rừng (lá, cành, thân, rễ), sau đó ngoại suy ra lượng CO
2
tích lũy trong toàn bộ hệ
sinh thái. Các nhà sinh thái rừng thường sử dụng tiếp cận này để dự tính tổng sản
lượng nguyên, hô hấp của hệ sinh thái và sinh khối hiện có của nhiều dạng rừng
trồng hỗn giao ở Bắc Mỹ (Botkin và cộng sự, 1970; Woodwell và Botkin, 1970).
Cách iii) Tiếp cận thứ ba: Được phát triển trong những năm gần đây với
sự hỗ trợ của kỹ thuật vi khí tượng học (micrometeological techniques). Phương
pháp phân tích hiệp phương sai dòng xoáy đã cho phép định lượng sự thay đổi của
lượng CO
2
theo mặt phẳng đứng của tán rừng. Căn cứ vào tốc độ gió, hướng gió,
nhiệt độ, số liệu CO
2
theo mặt phẳng đứng để dự đoán lượng carbon đi vào và đi
ra khỏi hệ sinh thái rừng theo định kỳ từng giờ, từng ngày, từng năm. Kỹ thuật này
đã áp dụng thành công ở rừng thứ sinh Harward - Massachusetts. Tổng lượng
carbon tích lũy dự đoán theo phương pháp phân tích hiệp phương sai dòng xoáy là
3,7 megagram/ha/năm. Tổng lượng carbon hô hấp của toàn bộ hệ sinh thái vào
ban đêm là 7,4 megagram/ha/năm. Vì thế tổng lượng carbon đi vào hệ sinh thái là
11,1 megagram/ha/năm (Wofsy và cộng sự, 1993).
1.2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, nghiên cứu sinh khối thực vật
được nhiều nhà khoa học quan tâm và đã có nhiều kết quả đáng ghi nhận,
góp phần quan trọng trong việc đánh giá, quản lý và sử dụng hiệu quả các
hệ thực vật (rừng).
Hoàng Mạnh Trí (1986) với công trình “Sinh khối và năng suất rừng
Đước” đã áp dụng phương pháp “cây mẫu” nghiên cứu năng suất, sinh khối
một số quần xã rừng Đước đôi (Zhizophora apiculata) rừng ngập mặn ven
biển Minh Hải là đóng góp có ý nghĩa lớn về mặt lý luận và thực tiễn đối với
hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển nước ta[18]. Hà Văn Tuế (1994) cũng
trên cơ sở phương pháp “cây mẫu” của Newboul, P.J (1967) nghiên cứu
năng suất, sinh khối một số quần xã rừng trồng nguyên liệu giấy tại vùng
trung du Vĩnh Phúc [20] .
8
Lê Hồng Phúc (1996) đã có công trình “Đánh giá sinh trưởng tăng trưởng,
sinh khối và năng suất rừng trồng Thông ba lá (Pinus keysia) ở vùng Đà Lạt,
Lâm Đồng”. Tác giả đã kết luận rằng mật độ rừng trồng ảnh hưởng lớn tới sinh
trưởng, tăng trưởng, sinh khối và năng suất của rừng [10].
Vũ Văn Thông (1998) đã nghiên cứu cơ sở xác định sinh khối cây cá lẻ và
lâm phần Keo lá tràm tại tỉnh Thái Nguyên. Tác giả cũng đã thiết lập được một số
mô hình dự đoán sinh khối cây cá lẻ bằng phương pháp sử dụng cây mẫu. Theo
kết quả nghiên cứu thì dạng hàm W = a + bD1,3 và LnW = a + bLnD1,3 mô tả tốt
mối quan hệ giữa sinh khối các bộ phận với chỉ tiêu sinh trưởng đường kính. Tuy
nhiên, đề tài này cũng mới dừng lại ở việc nghiên cứu sinh khối các bộ phận trên
mặt đất, chưa tiến hành nghiên cứu sinh khối rễ và lượng vật rơi [17].
Viên Ngọc Nam (1998) trong công trình nghiên cứu sinh khối và năng suất
sơ cấp rừng Đước (Rhizophora apiculata) trồng ở Cần Giờ, thành phố Hồ Chí
Minh đã cho rằng sinh khối rừng Đước có lượng tăng sinh khối từ 5,93 - 12,44
tấn/ha/năm, trong đó tuổi 4 có lượng tăng sinh khối thấp nhất và cao nhất ở tuổi
12; lượng tăng đường kính 0,46 – 0,81 cm/năm, trữ lượng thảm mục tích lũy trên
sàn rừng 3,4 - 12,46 tấn/ha [7]. Cũng tác giả (2003) trong công trình nghiên cứu
“Nghiên cứu sinh khối và năng suất sơ cấp quần thể Mấm trắng (Avicennia alba
BL) tự nhiên tại Cần Giờ, Tp. Hồ Chí Minh” đã xác định được tổng sinh khối,
lượng tăng trưởng sinh khối, năng suất vật rụng cũng như năng suất thuần của
quần thể Mấm trắng trồng tại Cần Giờ. Tác giả cho rằng để xác định sinh khối cây
rừng, các nghiên cứu về sinh khối thường dùng phương trình hồi quy tương quan
giữa đường kính hoặc chu vi thân cây ở vị trí 1,3 m với tổng sinh khối hay sinh
khối bộ phận của cây. Nghiên cứu đã mô tả mối tương quan giữa sinh khối các bộ
phận với đường kính của cây bằng dạng phương trình logW = a + blogD1,3 và đã
tìm ra phương trình tương quan giữa sinh khối và các nhân tố điều tra cho loài
Mấm trắng là:logPttsk = 0,632085+2,40562*logD1,3 với hệ số xác định R2 =
0,991. Theo tác giả, sinh khối tươi thân trong quần thể Mấm trắng trung bình là
9
70,64 % biến động từ 69,16 % - 73,64 %, cành chiếm 15,04 % - 22,92 % và lá
chiếm 7,92 % - 11,33%. Tỉ lệ sinh khối tươi trung bình của thân và cành chiếm
91,1 % trong quần thể,tỉ lệ sinh khối của lá giảm dần theo tuổi, ngược lại sinh khối
thân + cành và cành tăng dần theo tuổi. Sinh khối khô trung bình của quần thể
Mấm trắng là 118,29 tấn/ha dao động từ 79,21 - 137,18 tấn/ha [8]. Năm 2009, tác
giả đã nghiên cứu sinh khối Dà quánh (Ceriops zippeliana) và Cóc trắng
(Lumnitzera racemosa Willd) tại Khu Dự trữ sinh quyểnrừng ngập mặn Cần Giờ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sinh khối khô của các bộ phận cây Cóc trắng cá thể
được sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp như sau: Thân(74,44 ± 2,25 %) > cành
(19,60 ± 2,05 %) > lá (5,96 ± 0,56 %). Tương tự đối với cây Dà quánh (Wthk)
thân là 56,17 ± 2,7 %, cành là 26,67 ± 2,29 %, lá là 17,16 ± 1,37 % [9].
Đặng Trung Tấn (2001) với công trình nghiên cứu “Sinh khối rừng
Đước”, đã xác định được: tổng sinh khối khô rừng Đước ở Cà Mau là 327
m
3
/ha, tăng trưởng sinh khối bình quân hàng năm là 9500 kg/ha [16].
Nguyễn Ngọc Lung và Nguyễn Tường Vân (2004) đã sử dụng biểu quá
trình sinh trưởng và biểu Biomass để tính toán sinh khối rừng. Kết quả cho
thấy: tính theo biểu quá trình sinh trưởng (Nguyễn Ngọc Lung, Đào Công
Khanh 1999), trữ lượng thân cây cả vỏ 1 ha lúc 60 tuổi là 586 m
3
/ha (phần cây
sống) thì Biomass thân cây khô tuyệt đối là: 586 x 0,532 = 311,75 tấn. Biomass
toàn rừng là: 311,75 x 1,3736 = 428,2 tấn. Còn nếu tính toán theo biểu Biomass
thì giá trị này là 434,2 tấn. Sai số giữa biểu quá trình sinh trưởng và biểu sản
lượng là 1,4%, đây là mức sai số có thể chấp nhận được [6].
Nguyễn Văn Dũng (2005) , nghiên cứu tại Núi Luốt cho thấy rừng trồng
Thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi có tổng sinh khối tươi (trong cây và vật rơi
rụng) là 321,7 - 495,4 tấn/ha, tương đương với lượng sinh khối khô là 173,4 -
266,2 tấn. Rừng Keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng sinh khối tươi
(trong cây và trong vật rơi rụng) là 251,1 - 433,7 tấn/ha, tương đương với lượng
sinh khối khô thân là 132,2 - 223,4 tấn/ha [1].
10
Võ Đại Hải (2007) đã nghiên cứu sinh khối cây cá lẻ Mỡ trồng thuần loài
vùng trung tâm Bắc Bộ Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Sinh khối khô
và tươi cây cá lẻ Mỡ thay đổi theo tuổi và theo cấp đất. Cụ thể, tuổi tăng lên thì
sinh khối cũng tăng lên, ở cấp đất tốt thì sinh khối cao hơn ở cấp đất xấu. Cấu
trúc sinh khối cây cá lẻ gồm 4 phần, trong đó sinh khối thân chiếm tỷ lệ lớn
nhất, sau đó đến sinh khối rễ, cành và lá. Giữa sinh khối cây cá lẻ và các nhân tố
điều tra lâm phần D1,3, Hvn tồn tại mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mối quan hệ
này được biểu thị bằng các phương trình dạng tuyến tính đơn giản một lớp. Với
các kết quả nghiên cứu thu được, có thể sử dụng để xác định hoặc dự báo nhanh
sinh khối cây cá lẻ Mỡ thông qua chỉ tiêu D1,3 và Hvn, xác định sinh khối khô
thông qua sinh khối tươi, xác định sinh khối dưới mặt đất thông qua sinh khối trên
mặt đất [2]. Đối với cây Keo, năm 2008, tác giả đã nghiên cứu sinh khối cây cá
thể keo lai trồng thuần loài ở Việt Nam. Kết quả cho thấy, sinh khối cây cá thể keo
lai có sự biến đổi rất lớn theo các cấp đất và các giai đoạn tuổi khác nhau. Cấu trúc
sinh khối tươi cây cá thể keo lai chủ yếu tập trung vào sinh khối thân 49,8 %, rễ
19,1 %, lá 16,5 % và 7 cành 14,6 %. Giữa sinh khối khô và sinh khối tươi cây cá
thể keo lai với các nhân tố điều tra lâm phần như D1,3, Hvn, A và giữa sinh khối
khô với sinh khối tươi có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Các mối quan hệ này
được mô phỏng bởi các dạng hàm mũ (y = a.xb), hàm (y = a.bx) với hệ số tương
quan cao, sai tiêu chuẩn thấp và đơn giản, dễ áp dụng. Có thể sử dụng các phương
trình này để tính toán nhanh, dự báo sinh khối keo lai dựa vào các nhân tố điều tra
lâm phần như D1,3,Hvn, A hoặc các tính toán sinh khối dưới mặt đất từ sinh khối
trên mặt đất, từ sinh khối tươi ra sinh khối khô [5].
Võ Đại Hải và các cộng sự (2009) khi nghiên cứu về sinh khối về 4 loại
rừng trồng cho kết quả: Rừng trồng Thông mã vĩ từ 5 - 30 tuổi sinh khối từ
21,12 - 315,05 tấn/ha; rừng trồng Thông nhựa từ 5 - 45 tuổi có sinh khối từ
20,79 - 174,72 tấn/ha; rừng trồng Keo lai từ 1 - 7 tuổi có sinh khối từ 4,09 -
138,13 tấn/ha; rừng trồng Bạch đàn urophylla từ 1 - 7 tuổi có sinh khối từ 5,67
- 117,92 tấn/ha; rừng trồng Mỡ từ 6 - 18 tuổi có sinh khối từ 35,08 - 110,44
11
tấn/ha; rừng trồng Keo lá tràm từ 2 - 12 tuổi có sinh khối từ 7,29 - 113,56
tấn/ha. Bên cạnh đó tác giả thiết lập các phương trình tương quan giữa sinh
khối với các nhân tố điều tra lâm phần: đường kính D
1.3
, H
vn
, N/ha, tuổi lâm
phần A, mối quan hệ giữa sinh khối tươi và sinh khối khô, sinh khối trên mặt
đất và dưới mặt đất theo các cấp đất [3].
Đặng Thịnh Triều (2010) khi nghiên cứu sinh khối của rừng trồng Thông
mã vĩ và Thông nhựa đưa ra kết quả: tổng sinh khối của rừng trồng Thông mã
vĩ từ 1 - 9 tuổi là: 20,6 - 313,43 tấn/ha, rừng trồng Thông nhựa là: 22,58 -
192,12 tấn/ha. Tác giả đã xây dựng bảng tra lượng sinh khối của cây cá thể
Thông mã vĩ và Thông nhựa theo nhân tố điều tra D
1.3
và H
vn
theo từng cấp đất
và chung cho các cấp đất [19].
1.3. Những nghiên cứu về tích lũy CO
2
1.3.1. Trên thế giới
Quá trình biến đổi carbon trong hệ sinh thái được xác định từ cân bằng
carbon gồm carbon đi vào hệ thống – thông qua quang hợp và tiếp thu các hợp
chất hữu cơ khác - và carbon mất đi từ quá trình hô hấp của thực vật và động
vật, lửa, khai thác, sinh vật chết cũng như những quá trình khác [15].
Carbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở bốn bộ phận chính:
Thảm thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng. Việc
xác định lượng carbon trong rừng thường được thực hiện thông qua xác định
sinh khối rừng .
Brown J và Pearce D. W (1994) đã nghiên cứu hấp thụ carbon của rừng
nhiệt đới. Kết quả cho thấy một khu rừng nguyên sinh có thể hấp thụ được
280 tấn carbon/ha và sẽ cho ra 200 tấn carbon/ha nếu bị đốt do canh tác nương
rẫy và sẽ giải phóng carbon lớn hơn nếu diện tích rừng chuyển bị chuyển thành
đồng cỏ hay đất để sản xuất nông nghiệp. Rừng trồng có thể hấp thụ khoảng
115 tấn carbon và con số này sẽ giảm từ 1/3 đến 1/4 khi rừng chuyển đổi sang
canh tác nông nghiệp[25].
12
McKenzie N và cs (2001), qua công trình nghiên cứu tương đối toàn diện
và có hệ thống về lượng carbon tích lũy của rừng, kết quả nghiên cứu cho thấy:
Carbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở bốn bộ phận chính: Thảm
thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng [29].
Poonsri Wanthongchai và Somsak Piriyayota (2006) đã nghiên cứu vai trò
của rừng ngập mặn trong hấp thụ carbon ở tỉnh Trat, Thái Lan với phương pháp
phân tích hàm lượng carbon chứa trong sinh khối khô của cây. Kết quả cho
thấy lượng carbon trung bình chứa trong ba loài nghiên cứu (Rhizophora
mucronata, R.apiculata, B.cylindrica) chiếm 47,77 % trọng lượng khô và ở
rừng nhiều tuổi thì hấp thu lượng carbon nhiều hơn rừng ít tuổi. Lượng carbon
cao nhất là loài R.apiculata 11 tuổi với 74,75 tấn/ha, Rhizophora mucronata với
65,50 tấn/ha trong khi cũng tuổi đó B.cylindrica chỉ có 1,47 tấn/ha bởi vì hai
loài trên sinh trưởng tốt hơn [33].
Subarudi và cs (2004) đã phân tích chi phí cho việc thiết kế và triển khai
dự án CDM tại tỉnh Cianjur, miền Tây Java, Indonesia với diện tích là 17,5 ha
(đất của các hộ nông dân). Đây là một trong những dự án CDM đã được thiết
lập trong một số tỉnh ở Indonesia và được cấp vốn bởi tổ chức JIFPRO của
Nhật Bản. Kết quả cho thấy trữ lượng carbon hấp thụ từ 19,5 – 25,5 tấn C/ha,
chi phí để tạo ra một tấn carbon là 35,6 – 45,9 USD. Một tấn C tương đương
với 3,67 tấn CO
2
, vì thế giá bán một tấn CO
2
là từ 9,5 – 12,5 USD. Nghiên cứu
này cũng đã đưa ra được những bài học và khuyến cáo cho việc thực hiện
những dự án tiếp theo [32].
Pearson T. R. H, Brown. S và Ravindranath N. H (2005) trong tài liệu Ước
tính các nguồn lợi carbon tổng hợp vào các dự án của GEP, do UNDP và GEF đã
xuất bản và xây dựng phương pháp nghiên cứu hấp thụ carbon dựa trên 5 bước để
tiến hành. Các bước đó là: Xác định vùng dự án, phân cấp diện tích, quyết định bể
carbon đo đếm, xác định kiểu, số lượng, kích thước và hình dạng ô đo đếm và cuối
cùng là xác định dung lượng ô đo đếm. Phương pháp nghiên cứu hấp thụ carbon
được ứng dụng và tỏ ra có hiệu quả, được ứng dụng ở nhiều nơi [31].
13
Dhruba Bijaya G. C (2008) đã nghiên cứu khả năng tích tụ carbon của
Dendrocalamus strictus. Kết quả cho thấy sinh khối là 5,24 tấn/ha trong đó
tổng 22 sinh khối thân là 4,59 tấn/ha, tổng sinh khối lá là 0,69 tấn/ha và.
Tổng carbon là 232,06 tấn/ha trong đó: Carbon tích tụ trong thân là 1,52
tấn/ha, trong lá 0,14 tấn/ha, carbon rễ 0,08 tấn/ha và carbon tích lũy trong
đất là 230,32 tấn/ha [27].
Arun Jyoti Nath, Gitasree Das và Ashesh Kumar Das (2008) đã nghiên cứu
sinh khối trên mặt đất, năng suất và khả năng tích tụ carbon của rừng tre trồng tại
Assam, miền Bắc Ấn độ. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tổng sinh khối trên mặt
đất của khu rừng trồng trong năm 2003 là 42,98 tấn/ha và trong năm 2006 tăng
lên 152,15 tấn/ha, sinh khối trung bình là 99,28 tấn/ha. Năng suất trung bình là
42,5 tấn/ha. Carbon tích tụ trong sinh khối trên mặt đất từ 21,69 – 76,55 tấn/ha.
Carbon tích trữ trong thân chiếm 58 – 73 % tổng số carbon tích tụ [23].
Bipal Kr Jan và cs (2009) đã nghiên cứu tốc độ tích lũy carbon và sinh
khối carbon trên mặt đất của 4 loài cùng độ tuổi (6 tuổi) ở Ấn Độ: Shorea
robusta Gaertn.f, Albzzia lebbek Benth, Tectona grandis Lin.f và Artocarpus
integrifolia Linn. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tốc độ hấp thụ carbon trung
bình từ môi trường xung quanh trong mùa đông của Shorea robusta Gaertn.f,
Albzzia lebbekBenth, Tectona grandis Lin.f và Artocarpus integrifoli Linn lần
lượt là 11,13g/giờ; 11,86 g/giờ; 2,57 g/giờ và 4,22 g/giờ. Lượng carbon tích lũy
hàng năm của Shorea robusta Gaertn.f, Albzzia lebbek Benth, Tectona grandis
Lin.f và Artocarpus integrifoli Linn tương ứng là 8,97 tấn C/ha; 11,97 tấn
C/ha; 2,07 tấn C/ha và 3,33 tấn C/ha. Tỷ lệ % sinh khối carbon trên mặt đất của
4 loài Shorea robusta Gaertn.f, Albzzia lebbek Benth, Tectona grandis Lin.f
và Artocarpus integrifoli Linn tương ứng là 44,45 %; 47,12 %; 45,45 % và
43,33 % và tổng sinh khối carbon trên mặt đất của 4 loài ước tính là 5,22 tấn
C/ha; 6,26 tấn C/ha; 7,97 tấn C/ha và 7,28 tấn C/ha [24].
14
Các nghiên cứu trên đều quan tâm đến khả năng hấp thụ CO
2
của rừng và
cho thấy tầm quan trọng và những giá trị của rừng đối với môi trường, rừng
vừa lưu trữ vừa hấp thụ khí CO
2
, giảm thiểu hiệu ứng nhà kính tác động lên
môi trường sống.
1.3.2. Ở Việt Nam
Trong thời gian qua giới khoa học Việt Nam đã có những nghiên cứu ban
đầu nhưng hết sức quan trọng về khả năng hấp thụ khí nhà kính CO
2
của thực vật.
Nguyễn Văn Dũng (2005) tại Núi Luốt – ĐHLN .Theo kết quả nghiên
cứu của cho thấy rừng Thông mã vĩ thuần loài 20 tuổi có lượng carbon tích luỹ
là 80,7 - 122 tấn/ha; giá trị tích luỹ carbon ước tính đạt 25,8 - 39,0 triệu
VNĐ/ha. Rừng Keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng lượng carbon tích
luỹ là 62,5 - 103,1 tấn/ha; giá trị tích luỹ carbon ước tính đạt 20 - 33 triệu
VNĐ/ha. Tác giả cũng đã xây dựng bảng tra lượng carbon tích luỹ của hai trạng
thái rừng trồng keo lá tràm và thông mã vĩ theo mật độ, D
g
và H
L
[1].
Ngô Đình Quế và cs (2006) đã nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của một
số loại rừng trồng chủ yếu ở Việt Nam. Trong nghiên cứu này, bằng các
phương pháp nghiên cứu đo đếm sinh trưởng, năng suất và sinh khối của rừng
trên các lập địa khác nhau ở nhiều nơi đã đưa ra phân hạng mức độ thích hợp
cho từng loại cây trồng chủ yếu phổ biến hiện nay: Keo tai tượng, Keo lá tràm,
Keo lai, Thông ba lá, Thông mã vi, Thông nhựa và Bạch đàn Urophylla. Các
tác giả đã phân tích, tính toán lượng carbon trong sinh khối trên và dưới mặt
đất, cây bụi, thảm cỏ, cành khô lá rụng, thiết lập mối tương quan giữa trữ
lượng, năng suất gỗ và lượng CO
2
hấp thụ hằng năm của từng loài, từ đó tìm ra
một số hệ số chuyển đổi quan trọng:
- B/A - Tỷ số giữa sinh khối gỗ khô (tấn/ha)/tổng trữ lượng lâm phân (m3/ha).
- C/B - Tỷ số giữa sinh khối trên mặt đất (tấn/ha)/ sinh khối gỗ khô (tấn/ha).
- D/C - Tỷ số giữa tổng sinh khối (tấn/ha)/ tổng sinh khối trên mặt đất (tấn/ha).
- E/D - Tỷ số giữa tổng lượng carbon hấp thụ (tấn/ha)/ tổng sinh khối (tấn/ha).
- G/E - Hệ số chuyển đổi từ C sang CO
2
.
15
Tất cả những hệ số trên được so sánh với các hệ số tương ứng của NIRI [14].
Các tác giả thường thiết lập mối quan hệ giữa lượng carbon tích luỹ của
rừng với các nhân tố điều tra cơ bản như đường kính, chiều cao vút ngọn, mật
độ,… cụ thể như Nguyễn Văn Dũng (2005) [1] đã lập phương trình cho 2 loài
Thông mã vĩ và Keo lá tràm; Ngô Đình Quế (2005) [13] đã xây dựng mối quan
hệ cho các loài Thông nhựa, Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn
Uro; Vũ Tấn Phương (2006) [11] xây dựng các phương trình quan hệ cho Keo
lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Bạch đàn Urophylla, Quế. Đây là những cơ sở
quan trọng cho việc xác định nhanh lượng carbon tích luỹ của rừng trồng nước
ta thông qua điều tra một số chỉ tiêu đơn giản.
Khả năng tích luỹ carbon của rừng tự nhiên cũng được quan tâm nghiên
cứu. Vũ Tấn Phương (2006) đã nghiên cứu trữ lượng carbon theo các trạng thái
rừng cho biết: rừng giàu có tổng trữ lượng carbon 694,9 - 733,9 tấn CO
2
/ha;
rừng trung bình 539,6 - 577,8 tấn CO
2
/ha; rừng nghèo 387,0 - 478,9 tấn
CO
2
/ha; rừng phục hồi 164,9 - 330,5 tấn CO
2
/ha và rừng tre nứa là 116,5 -
277,1 tấn CO
2
/ha [11].
Hoàng Xuân Tý (2004) nếu tăng trưởng rừng đạt 15 m
3
/ha/năm, tổng
sinh khối tươi và chất hữu cơ của rừng sẽ đạt được xấp xỉ 10 tấn/ha/năm
tương đương 15 tấn CO
2
/ha/năm, với giá thương mại cacbonic tháng
5/2004 biến động từ 3 - 5 USD/tấn CO
2
, thì một ha rừng như vậy có thể
đem lại 45 - 75 USD (tương đương 675.000 - 1.120.000 đồng Việt Nam)
mỗi năm [21].
Võ Đại Hải (2007) đã nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon rừng Mỡ trong
thuần loài tại vùng trung tâm Bắc Bộ. Kết quả nghiên cứu đã xác định được cấu
trúc và lượng carbon hấp thụ trong cây Mỡ, cây bụi thảm tươi, vật rơi rụng và
trong đất rừng, từ đó đã xác định được tổng lượng carbon hấp thụ trong lâm
phần Mỡ trồng trên các cấp đất và cấp tuổi khác nhau. Kết quả nghiên cứu cũng
đã xây dựng được mối quan hệ giữa lượng carbon hấp thụ với các nhân tố điều
16
tra như D1,3, Hvn, tuổi và mật độ làm cơ sở cho việc xác định nhanh và dự báo
lượng carbon tích lũy ở rừng trồng Mỡ tại vùng Trung Tâm Bắc Bộ nước ta [2].
Bảo Huy (2009) đã thực hiện nghiên cứu phương pháp ước tính trữ lượng
carbon của rừng tự nhiên làm cơ sở tính toán lượng CO
2
phát thải từ suy thoái
và mất rừng ở Việt Nam. Kết quả thu được như sau:
- Để xác định sinh khối rừng và khả năng hấp thụ CO
2
của rừng tự nhiên,
cần nghiên cứu một cách có hệ thống thông qua các phương pháp rút mẫu thực
nghiệm trên hiện trường, phân tích carbon tích lũy trong các bể chứa trên và
dưới mặt đất, mô hình hóa các mối quan hệ giữa sinh khối, lượng carbon tích
lũy, CO
2
hấp thụ của cây rừng và lâm phần với các nhân tố điều tra, sinh thái
rừng. Đây là cơ sở quan trọng cho việc xác định, dự báo năng lực hấp thụ CO
2
của các trạng thái, kiểu rừng khác nhau.
- Các trạng thái rừng non, nghèo hiện tại đã bị hạn chế về giá trị lâm sản
thuần túy, tuy nhiên vẫn còn có giá trị hấp thụ CO
2
; vì vậy nếu gắn việc quản lý
bảo vệ rừng của cộng đồng dân cư trong giao đất giao rừng với chương trình
REDD, sẽ là cơ hội tạo ra thu nhập cho người dân, là động lực thúc đẩy quản lý
và nuôi dưỡng những khu rừng tự nhiên nghèo vì mục đích môi trường [4].
Viên Ngọc Nam (2009) đã nghiên cứu khả năng tích tụ carbon và hấp thụ
CO
2
của cây Dà quánh và Cóc trắng tại rừng ngập mặn Cần Giờ. Bằng nghiên
cứu sinh khối trên mặt đất (thân, cành và lá), kết quả nghiên cứu đã tính toán
được khả năng tích tụ carbon và hấp thụ CO
2
của hai loài cây Dà quánh tự
nhiên và Cóc trắng tại rừng ngập mặt Cần Giờ. Theo đó, lượng carbon tích lũy
trong sinh khối khô của các bộ phận cây cá thể theo loài cây có khác nhau: Dà
quánh: lá > tổng sinh khối > cành > thân; Cóc trắng: lá > cành > tổng sinh khối
> thân. Trung bình đường kính thân cây của quần thể Dà quánh là 2,78 ±
0,18cm, mật độ trung bình là 13.489 ± 1.464 cây/ha thì quần thể đó tích tụ
được khoảng 19,22 ± 3,36 tấn C/ha trong cây, cũng có nghĩa là cây rừng hấp
thụ được 70,54 ± 12,34 tấn CO
2
/ha. Trung bình đường kính thân cây của quần