Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC NHO GIA GIÁ TRỊ & HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.82 KB, 21 trang )

1

TỔNG QUAN VỀ TRIẾT HỌC NHO GIA
GIÁ TRỊ & HẠN CHẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
KHÓA 21 – ĐÊM 5 – NHÓM 2
Thực hiện: Lộc Hồng Chánh
THÁNG 2 / 2012
MỤC LỤC
Lời mở đầu Trang 3
1.Lý do chọn đề tài Trang 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trang 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Trang 3
4. Phương pháp nghiên cứu Trang 3
Chương 1: Khái quát về triết học Nho gia Trang 5-7
Mục 1.1: Quá trình phát triển của triết học Nho gia Trang 5
Mục 1.2: Các trường phái của triết học Nho Gia
& những tư tưởng của những trường phái này Trang 5 -7



Chương 2: Giá trị và hạn chế của triết học Nho Gia Trang 8 - 19
Mục 2.1: Những giá trị của triết học Nho Gia Trang 8 - 15
Mục 2.1.1: Quan điểm về giáo dục Trang 8 -10
Mục 2.1.2: Quan điểm về chính trị Trang 10 -11
Mục 2.1.3: Quan điểm về quản lý xã hội Trang 11 -13
Mục 2.1.4: Nho giáo có ảnh hưởng tích cực đến văn hóa Trang 13 -15
Mục 2.2: Những hạn chế của triết học Nho Gia Trang 15 -19
Mục 2.2.1: Mối quan hệ tam cương ngũ thường hà khắc Trang 15 - 16
Mục 2.2.2: Quá xem trọng tính Thiên mệnh, Trang 16- 17


& mang tính duy tâm tôn giáo
Mục 2.2.3: Bất bình đẳng nam nữ Trang 17 -19
Kết luận Trang 20
2
Tài liệu tham khảo Trang 21
LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hơn một ngàn năm phong kiến, Việt Nam là đất nước chịu nhiều ảnh hưởng
của các tư tưởng Phật giáo, Lão giáo , trong đó chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của tư tưởng
Nho giáo mà người sáng lập nên là Khổng Tử. Tư tưởng triết học của ông, đặc biệt là tư
tưởng chính trị - đạo đức có dấu ấn rất lớn trong nhiều mặt của đời sống từ xưa đến nay.
1. Lý do chọn đề tài
Như trên đã đề cập, tư tưởng Khổng Tử có một sức ảnh hưởng rất lớn đến nền văn hóa
phương Đông qua nhiều thế kỷ. Nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn được hiểu sâu hơn về
học thuyết Nho gia. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra những giá trị và hạn chế của học thuyết và
từ đó xem xét để có thể ứng dụng cho bản thân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về vấn đề này, từ trước đến nay đã có nhiều tác phẩm, tác giả. Dựa trên
những tài liệu tham khảo được, tôi xin phép báo cáo một cách khái quát và ngắn gọn nhất về
Nho gia.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích của báo cáo là tìm ra mặt tích cực, hạn chế trong tư tưởng triết học về chính
trị - đạo đức của Khổng Tử và những ảnh hưởng tích cực của tư tưởng ấy trong sự nghiệp
giáo dục đào tạo con người Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Báo cáo được tiến hành trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp
duy vật lịch sử, đồng thời với sự kết hợp của nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp
lịch sử – lôgíc, phương pháp quy nạp – diễn dịch.
3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC NHO GIA
1.1 Quá trình phát triển của triết học Nho gia

Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một trường phái triết học lớn, bao gồm một
hệ thống triết lý sâu sắc về đạo đức, chính trị, xã hội, tôn giáo… do Đức Khổng Tử phát
triển vào cuối thời Xuân Thu để xây dựng một xã hội thịnh trị.
Thời đại của Khổng Tử là thời đại “Vương đạo suy vi”, “Bá đạo” đang nổi lên lấn át
“Vương đạo” của nhà Chu; trật tự lễ pháp cũ của nhà Chu đang bị đảo lộn. Đứng trên lập
trường bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc Chu, ông chủ trương lập lại pháp chế của nhà
Chu với một nội dung mới cho phù hợp.
Thời nhà Chu, khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu. Tình
hình kinh tế, xã hội cũng có nhiều biến động, kết quả là đã dẫn đến sự đa dạng trong kết cấu
giai tầng của xã hội. Chiến tranh giành quyền lợi giữa các chư hầu xảy ra liên miên, xã hội
nảy sinh nhiều mâu thuẫn, tầng lớp dân tự do xuất hiện. Lịch sử gọi là thời kì “bách gia chư
tử” , “bách gia tranh minh”.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của
Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Đức Khổng Tử
(sinh năm 551 trước công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích
cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ngài là người sáng lập ra
Nho giáo.
Khổng Tử xem hoạt động đạo đức là nền tảng của xã hội, là công cụ để gìn giữ trật tự
xã hội và hoàn thiện nhân cá nhân con người từ đó hướng đến xây dựng một xã hội đại đồng
(là xã hội có trật tự trên – dưới, mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến dân đều biết dựa
trên địa vị của mình mà làm tròn bổn phận xã hội giao cho, xã hội có vua sáng tôi hiền, cha
từ con thảo, trong ấm ngoài êm…).
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có
Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc
bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất,
học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của
Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau
4
đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến
thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách

Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là
Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay “tư tưởng Khổng-Mạnh“. Từ đây mới
hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của
nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở
thành thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà
Nho cần phải thực hành.
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo
lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây,
Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt
hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo
nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng
“lễ trị” để che đậy “pháp trị”.
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ
và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của
các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy
(thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo
trước đó là việc bổ sung các yếu tố “tâm linh” (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố “siêu hình”
(lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
Nho giáo tiếp tục chi phối đời sống tư tưởng xã hội Trung Quốc qua các triều đại tiếp
theo, nhưng nói chung, Nho Giáo trong thời Minh – Thanh không có phát triển mới nổi bật
mà ngày càng khắt khe và bảo thủ. Sang thế kỷ 19, Nho giáo đã thật sự trở nên già cỗi,
không còn sức sống. Với tính cách là hệ tư tưởng chỉ đạo đường lối chính trị nước ở Trung
Quốc trên 2000 năm, Nho giáo đã đóng góp lớn vào sự nghiệp tổ chức và quản lý xã hội,
vào sự phát triển văn hoá và giáo dục, vào quá trình rèn luyện đạo đức cá nhân, đào tạo và
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nhưng đến cuối thời đại phong kiến, do tính phục cổ, bảo
thủ của nó mà Nho giáo đã tạo ra tình trạng trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho
Trung Quốc không bắt kịp trào lưu văn minh thế giới.
1.2 Các trường phái của triết học Nho gia và những tư tưởng của các trường phái này
Đến thời Chiến Quốc, do bất đồng về bản tính con người mà Nho gia bị chia thành 8
phái, trong đó phái của Tuân Tử và Mạnh Tử là mạnh nhất.

Tuân Tử (315-213 TCN) phát triển Nho gia theo xu hướng duy vật. Tuân tử là một
nhân vật rất độc đáo trong các đại hiền của Trung Hoa cổ đại. Độc đáo ở tính cách “hiện
đại” – tư tưởng của ông có những điểm rất giống tư tưởng của con người trong xã hội hiện
đại. Chẳng hạn, trong khi hầu hết các tôn giáo đều khuyên con người phải chế dục thì ông
lại chống đối thuyết quả dục và khử dục. Theo ông, “tình và dục là tự nhiên ai cũng có,
5
không thể bớt đi hay bỏ đi mà không hại. Hữu dục mà hợp đạo cũng không hại, khử dục mà
trái đạo cũng vô ích”. Điều này cho thấy Tuân tử là một người rất thực tế, thậm chí thực
dụng. Tính cách này tạo nên cái độc đáo thứ hai – tính cách độc lập, không nô lệ vào các
bậc tiền bối.
Theo Tuân Tử, bản tính đầu tiên của con người là ác. Chính vì vậy mà cần phải học
tập tu dưỡng, cần phải có Nhân, Nghĩa, Lễ để dẫn dắt làm cho con người trở thành thiện.
Ông cho rằng : “Nay cái tính của người ta sinh ra là hám lợi, thuận cái tính ấy thì dẫn đến
sự tranh đoạt mà sự nhường nhịn không có; sinh ra là có ghen ghét, thuận cái tính ấy thì
dẫn đến sự làm hại lẫn nhau mà lòng trung tín không có; sinh ra là muốn thỏa mãn tai mắt,
thích thân sắc, thuận cái tính của người ta thì sẽ sinh ra sự tranh giành , hợp với việc xâm
phạm loạn li mà thành ra tàn bạo. Cho nên phải có thầy, có phép để giáo hóa, có lễ nghĩa
để dẫn dắt sau đố mới có nhường nhịn với đạo lý mà thành ra trị. Qua đó thì cái chính của
người ta rõ ràng là ác, còn cái thiện của tính là người ta tạo nên”.
Tuân Tử cho rằng: theo đuổi tìm kiếm sự thỏa mãn những nhu cầu dục vọng, sinh lý
là bản tính của con người. Ông nói: “đói muốn no, rét muốn ấm, mệt muốn nghỉ ngơi”. Đó
là tính của con người. Ông lại nói: “người ta sinh ra vốn đã có dục vọng: mắt thích đẹp, tai
thích tiếng hay” (Tuân Tử - Tính ác). Theo ông nếu ai cũng cứ theo cái bản tính ấy mà hành
động thì xã hội tất sẽ diễn ra sự tranh giành, cưỡng đoạt, và sẽ đi đến “bao loạn”. Vì vậy
bản tính con người là “ác” coi những nhu cầu về sinh lý như “ăn no, mặc ấm” là “cội
nguồn và biểu hiện của tính ác của con người”.
Ông cho rằng, hành vi đạo đức của người ta không bắt nguồn từ bản tính của con
người, mà do công phu rèn luyện mà có. Phẩm chất của con người là sản phẩm của hoàn
cảnh xã hội và là kết quả của sự giáo dục rèn luyện, cải hóa từ ác thành thiện. Do vậy ông
đề cao lễ trị. Ông cho rằng Lễ Nghĩa và đẳng cấp trong xã hội là cần thiết để duy trì trật tự

xã hội. Những luận điểm này, về cơ bản là có tính duy vật. Vì vậy ông coi trọng, đề cao tinh
thần tự tu thân.
Mạnh tử tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, sinh tại nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông –
Trung Quốc. Ông là người kế thừa phát triển tư tưởng của trường phái Nho gia theo hướng
duy tâm. Mạnh Tử là đại diện xuất sắc nhất của phái Nho học chính thống thời Chiến quốc
và ông được tôn là “Á thánh” (bậc thánh nhân thứ hai sau Khổng Tử). Về mặt tư tưởng triết
học, luân lý, đạo đức, những luận thuyết của Mạnh Tử xoay quanh các vấn đề tâm tính,
thiên, mệnh và tính thiện.
Mạnh tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng Tử và đẩy thế giới quan ấy tới
đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà không do mệnh
trời, mình nên tùy phận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó, Mạnh Tử đưa ra học
thuyết “Vạn vật đều có đủ ở trong ta, nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được tất cả”, nghĩa
là không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dưỡng nội tâm là biết được tất
cả. Ông đã chuyển từ quan điểm duy tâm khách quan sang quan điểm duy tâm chủ quan.
6
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên phú chứ
không phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm cho tính thiện ngày
càng mạnh thêm; nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai mọt đi thì con người
trở nên nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú.
Trong quan điểm về chính trị xã hội, Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư tưởng
của ông về dân quyền, tức đề cao vai trò của quần chúng nhân dân. Ông cho rằng trong một
xã hội thì quý nhất là dân rồi mới đến vua, đến của cải xã tắc “dân vi quý, quân vi khinh, xã
tắc thứ chi”.
Quan niệm của Mạnh Tử được xem là gần nhất với Nho gia nguyên thuỷ. Ông đã
đóng góp rất nhiều quan trọng cho Nho gia nguyên thuỷ. Do đó, Nho gia Khổng – Mạnh
còn được gọi là Nho gia nguyên thuỷ hay Nho gia tiên Tần.
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ & HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC NHO GIA
2.1 Những giá trị của triết học Nho gia
7
2.1.1 Quan điểm về giáo dục

Khổng Tử chú trọng giáo dục và hướng con người về tính bản thiện.
Ông cho rằng giáo dục cần thiết cho mọi đối tượng, không phân biệt các hạng người
trong xã hội. Học tập là phương tiện cần thiết duy nhất để mở mang sự hiểu biết, trau dồi
đạo đức làm người.
Đối với Nhà nước, những người làm công tác quản lý phải chăm lo sự nghiệp giáo dục,
phải coi nó là một trong những điều kiện đem lại nền thịnh trị cho đất nước.
Đối với mỗi cá nhân, mục đích giáo dục là đào tạo họ thành những người quân tử .Tuy
nhiên việc học tập đối với từng người phải dựa vào hai yếu tố: óc thông minh và ý chí học
tập.
Nội dung giáo dục do Khổng Tử xác định được xây dựng trên thế giới quan duy tâm,
tin rằng trời là chúa tể của vũ trụ có thể sắp đặt mọi sự vật hiện tượng theo quy luật nhất
định gọi là mệnh trời. Trên thế giới còn có một lực lượng siêu nhân khác, đó là quỷ thần
cũng chi phối hoạt động của con người và xã hội.
Muốn sống phù hợp với đạo trời, với quỷ thần thì phải có: nhân, lễ, nghĩa, trung, tín,
đó mới là người quân tử.
Nhân là tính bản thể của con người, các tổng quan của chữ nhân là phải yêu thương
con người và làm cho người khác có lợi, tập trung ở nội dung sau:
Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người;
Cái gì mình muốn lập thì lập cho người;
Cái gì mình muốn đạt thì đạt cho người.
Lễ là tích tụ của cái đẹp. Trước hết lễ là chỉ cách thờ cúng thần linh để được phúc tế,
sau đó được hiểu rộng ra là những phong tục tập quán được xã hội thừa nhận. Lễ là hành vi,
là hình thức bộc lộ của nhân: “sửa mình theo lễ là nhân”.
Lễ dùng để cấm sự loạn khi nó chưa xảy ra, còn pháp luật chỉ để trị việc xảy ra.
Trí là óc xét đoán sự vật, là sự sáng suốt minh mẫn để hiểu được đạo lý. Muốn có trí
quá trình nhận thức phải qua các giai đoạn: quan sát sự vật hiện tượng để biết các thuộc tính
của nó, trên cơ sở đó giúp ta hiểu biết một cách thấu đáo các thuộc tính bản chất, từ đó rút
ra kết luận đúng đắn, sau cùng phải làm cho mình tin tưởng vào kết luận đó.
8
Để trở thành người có trí phải kiên trì nhẫn nại, không tự kiêu, không dấu dốt, học ở

mọi người mọi nơi mọi lúc . Học phải suy nghĩ. Học phải rộng nhưng suy nghĩ phải thiết
thực, gần gũi với cuộc sống.
Chữ tín chủ yếu có hai nội dung: đó là sự tin tưởng của người khác đối với mình và
sự trung thực của mình đối với người khác.
Chữ tín là mối quan hệ tương hỗ giữa người với người, lấy sự tin tưởng lẫn nhau làm
dây liên kết con người trong xã hội. Muốn giữ được chữ tín con người phải làm trước nói
sau, làm nhiều nói ít, phải biết tự vấn xấu hổ khi nói quá những gì mình làm được.
Khổng Tử khẳng định: "Người không có tín như xe lớn không có đòn thẳng, xe nhỏ
không có đòn ngang thì lăn thế nào được".
Về phương pháp giáo dục, Khổng Tử quan niệm: Phải lấy bản thân mình làm gương
sáng để cảm hoá học sinh. Để thực hiện nó, trong cuộc sống hàng ngày Khổng Tử rất chú
trọng từ hành xử đến việc nghiên cứu học tập của bản thân nhằm tác động đến môn đệ.
Khổng Tử nắm bắt rất cụ thể đặc điểm của từng học sinh, vì thế trong quá trình dạy
học Khổng Tử có thể cùng một vấn đề nhưng giảng giải mỗi người mỗi khác.
Mục đích của Khổng Tử khi dạy là giúp học trò vận dụng những hiểu biết để vận dụng
trong cuộc sống, trở thành người quân tử, người quản lý xã hội. Ông cho rằng kết quả của
việc học phải được thể hiện qua hành động của họ. Phương pháp này được ông thể hiện
bằng cách: Thường nêu ra những câu hỏi gợi mở để giúp học sinh nắm bắt được đầu mối
của vấn đề, từ đó kích thích sự ham hiểu biết đến cao độ, khi đó mới giảng dạy.
Theo ông con người ít có kẻ sinh ra tự biết. Ông cũng tự nhận mình là: "Học nhi tri
chi" (Do học mà biết) do đó trong sách Luận ngữ ông nói: "Ta 15 tuổi chí thú ở việc học, 30
tuổi lập thân, 40 tuổi không sai " Do đó lứa tuổi để học vấn là từ 30 trở xuống. cống hiến
cho đời.
Phương pháp học của Khổng Tử là nghe rồi nghĩ, nghĩ rồi làm
Đã coi trọng việc học như vậy nên người học phải biết phương pháp học.
Theo Khổng Tử, người học phải: Nghe - Nghĩ - Làm. Ông nói: "Học nhi bất tư tắc
võng, tư nhi bất học tắc đãi" (Học mà không nghĩ thì mất hết, nghĩ mà không học thì mỏi
mệt). Đã nghe, nghĩ việc đang học phải: "Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ?" (học mà
thực hành theo điều mình học há chẳng vui sao?).
9

Người học phải: "Ôn cố nhi tri tân, khả vi sư hỹ" (Ôn cũ biết mới, đáng làm thầy vậy).
Theo ông người học phải học nữa, học mãi, nhà bác học không ngừng học. Học điều xưa để
áp dụng cho thời nay, đó là người khéo vận dụng tri thức. Đạo lý của việc học là: không
phải chỉ đọc sách chết mà phải chú trọng trong hiện thực xử thế con người.
Học cả người dưới mình. Đối với người học phải học tất cả các tầng lớp người trong
xã hội, ai cũng có điều hay điều dở, vậy ta hãy học điều hay của họ thậm chí phải học kể cả
kẻ dưới mình: "Học bất xỉ hạ vấn" (Không thẹn học người dưới).
Theo Khổng Tử, người lãnh đạo đất nước phải coi trọng 3 vấn đề: "Thứ - Phú- Giáo",
nghĩa là phải làm cho dân đông lên. Dân đã đông phải làm cho giầu, khi đã giầu phải dạy
cho có giáo dục. Điều này tương đồng với tinh thần Phật dạy trong kinh Dược Sư là: Khi
người ta đói thì cho cơm ăn áo mặc. Đã no đủ thì mới cho giáo pháp.
Theo ông, học không phân biệt đẳng cấp. Ông chủ trương "Hữu giáo vô loại" (việc
giáo dục không phân biệt đẳng cấp). Ông chủ trương việc học còn phải đi xuống tư nhân
(Học hạ tư nhân). Nghĩa là việc giáo dục phải từng bước, từ gia đình là mái trường đầu tiên
của con người rồi mới phân ra các cấp học cơ sở. Điều này rất phù hợp với xã hội ngày nay.
Cái chủ đích của Khổng giáo là để dạy cho người ta thành người nhân nghĩa trung
chính, tức là trở thành người quân tử. Song có dạy mà không có học thì dẫu sự dạy hay thế
nào cũng không sao thành công được. Chính vì vậy Khổng Tử luôn lấy cả sự dạy và sự học
làm điều trọng yếu “Học để sau đó biết là không bao giờ đủ, dạy để sau đó biết là còn
nhiều khó khăn. Biết không đủ để sau đó tự mình cố gắng. Biết khó khăn để sau đó tự mình
kiên cường lên. Do đó nói rằng : Dạy và học là việc suốt đời” ( Lễ kí ,học kí biên). Giáo
dục của thế kỷ XXI với 4 trụ cột : Học để biết ; Học để làm; Học để làm người; Học để
cùng chung sống. Phải chăng đây cũng là sự gặp gỡ giữa truyền thống và hiện đại ; giữa
phương Đông và phương Tây cho thấy tầm nhìn thật vĩ mô trong tư tưởng của Khổng Tử.
2.1.2 Quan điểm về chính trị
Tư tưởng chính trị Khổng Tử dựa trên tư tưởng đạo đức của ông. Ông cho rằng chính
phủ tốt nhất là chính phủ cai trị bằng "lễ nghĩa" và đạo đức tự nhiên của con người, chứ
không phải bằng vũ lực và mua chuộc.
Ông đã giải thích điều đó tại một trong những đoạn quan trọng nhất ở cuốn Luận Ngữ:
"Dùng mệnh lệnh, pháp luật để dẫn dắt chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như

vây tuy có giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục.
Dùng đạo đức để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân, làm như vậy chẳng
những dân hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, mà còn cam tâm tình nguyện sửa
chữa sai lầm của mình tận gốc từ mặt tư tưởng." (Tứ Thư - Luận Ngữ, NXB Quân đội Nhân
dân 2003) Sự "biết sỉ nhục" là sự mở rộng của trách nhiệm, nơi mà hành động trừng phạt đi
10
trước hành động xấu xa, chứ không phải đi sau nó như trong hình thức luật pháp của Pháp
gia.
Trong khi ủng hộ ý tưởng về một vị Hoàng đế đầy quyền lực, có lẽ vì tình trạng hỗn
loạn ở Trung Quốc thời kỳ đó, các triết lý của Khổng Tử chứa đựng một số yếu tố hạn chế
quyền lực của những nhà cai trị. Ông cho rằng lời lẽ phải luôn ngay thật; vì thế tính trung
thực có tầm quan trọng hàng đầu. Thậm chí trên nét mặt, phải luôn thể hiện sự trung thực.
Khi bàn luận về mối quan hệ giữa thần dân và nhà vua (hay giữa con và cha), ông nhấn
mạnh sự cần thiết phải có sự tôn trọng của người dưới với người trên.
Vấn đề đạo đức là vấn đề cơ bản nhất, bao quát nhất của Nho giáo, của học thuyết
Khổng Mạnh. Theo Khổng Tử, “đạo” của con người là 5 mối quan hệ trong xã hội - “Ngũ
luân”, trong đó có 3 quan hệ giường cột là “Tam cương”.
Theo quan điểm của Khổng Tử, “đạo” và “đức” gắn chặt với nhau. Bao quát những
quan hệ lớn nhất theo Nho giáo, Kinh Lễ nêu ra mười đức là: “cha từ, con hiếu, anh lành,
em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn, vua nhân, tôi trung”.
Đạo của Khổng Tử lấy “nhân” làm gốc, lấy hiếu đễ, lễ nhạc làm cơ bản cho sự
giáo hoá để gây thành đạo “nhân”; lấy chính trị làm cái công cụ của đạo “nhân” mà thể
hiện ra ở đời.
Thời đại của Khổng Tử là thời đại mà theo ông cần phải khôi phục lại “lễ”. “Lễ” mà
Khổng Tử nói ở đây là lễ nghi, quy phạm đạo đức thời Tây Chu.
2.1.3 Quan điểm về quản lý xã hội
Quan điểm về thuyết chính danh: Khổng Tử cho rằng xã hội cần phải có chính danh.
Khổng Tử xây dựng học thuyết Nhân – Lễ – Chính danh (trong đó điều nhân là trung tâm,
là cái gốc) là để thực hiện lý tưởng chính trị của mình. Chính học thuyết này đã đưa tới
chính sách “đức trị”, tức là lấy đức mà trị dân, lấy đức mà làm chính trị.

Là một nhà chính trị, Khổng tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng luật pháp, hình phạt
để cai trị dân. Ông cho rằng, nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là do
không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải giáo hoá đạo đức và thực
hiện “chính danh, định phận”.
“Chính danh, định phận” là làm mọi việc cho ngay thẳng, người nào có địa vị, bổn
phận chính đáng của người ấy cứ thế mà làm, trên dưới, vua tôi, cha con, chồng vợ trật tự
được phân minh, “Vua cho ra vua, tôi cho ra tôi, cha cho ra cha, con cho ra con” (Luận ngữ,
Nhan Uyên, 11).
11
Khi Tử Lộ hỏi về chính trị, Khổng tử đáp: Muốn trị nước, trước hết phải thực hiện
“chính danh”, bởi vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không
đúng đắn sẽ dẫn đến việc thi hành sai… Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì đúng với
phận, với nghĩa, đã xưng danh đúng với danh phận, thì phải tùy theo đó mà làm” (Luận ngữ,
Tử Lộ, 3).
Chính danh vừa là một lập luận có tính triết học về chỗ đứng của mỗi người trong xã
hội, trong chính trị, vừa là lời cảnh báo về việc con người có khả năng hiểu sai lạc các khái
niệm. Người quân tử muốn “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, phải nghiêm chỉnh theo
thuyết Chính danh. Sách Luận ngữ viết về tính ứng dụng tổng quát của thuyết Chính danh
như sau:
“Tử Lộ nói: Giả dụ vua nước Vệ nhờ thầy sửa việc chính trị thì thầy định làm việc gì
trước?
“Khổng Tử nói: Ắt là phải sửa cái danh cho chính.
“Tử Lộ nói: Có đúng vậy không? Thầy nói thiếu thực tế rồi. Sửa danh cho chính để
làm gì?
“Khổng Tử nói: Do ơi, ngươi quê mùa quá! Người quân tử điều gì chưa biết thì khoan
nói vội. Nếu danh chẳng chính thì lời nói chẳng thuận; lời nói chẳng thuận thì công việc
chẳng thành. Nếu công việc chẳng thành thì lễ và nhạc chẳng thịnh. Nếu lễ và nhạc chẳng
thịnh thì hình phạt chẳng đúng. Nếu hình phạt chẳng đúng, thì dân chẳng biết chỗ nào đặt
tay chân. Do đó, khi người quân tử xưng danh, danh ấy phải xứng đáng với phận của mình;
người quân tử rất dè dặt trong lời nói, không tùy tiện nói theo ý thích của mình”. (Luận ngữ,

XIII:3).
Không những giúp cho việc suy nghĩ chính xác và hành xử đúng đắn theo “định phận”
của mỗi cá nhân, thuyết Chính danh còn có công dụng cực kỳ hữu hiệu trong việc trị quốc
an dân.
“Tề Cảnh công hỏi Khổng Tử về việc chính trị.
“Khổng Tử đáp rằng: Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con”. (Luận ngữ,
XII:11).
“Quí Khang hỏi Khổng Tử về việc chính trị.
“Khổng Tử đáp rằng: Chính trị là làm mọi việc cho ngay thẳng. Nếu ngài lấy ngay
thẳng mà khiến người, thì ai dám không ngay thẳng”. (Luận ngữ, XII:16).
12
“Khổng Tử nói: Mình ngay chính thì không sai khiến người ta cũng làm, mình không
ngay chính thì tuy có sai khiến cũng không ai theo”. (Luận ngữ, XIII:6).
Mặc Tử có quan niệm khác về danh và thực. Nếu Khổng Tử đưa ra sự phù hợp giữa
danh và thực theo nghĩa mang danh nào thì phải có tính chất đúng với cái danh ấy thì Mặc
Tử lại có quan điểm “thủ thực dữ danh”, tức là phải dựa vào sự vật và hành vi trong tồn tại
mà đặt tên. Phát triển quan điểm đó Mặc tử còn đưa ra ba tiêu chuẩn (tam biểu) để đi tìm cái
đúng: căn cứ vào những kinh nghiệm của các thánh nhân đời xưa, căn cứ trên kinh nghiệm
của bách tính, và căn cứ trên sự xác nhận của thực tiễn khi đem một chính sách ra dùng.
Tuân Tử thuộc nho gia kế thừa học thuyết của Khổng Tử kết hợp với những thành quả của
Mặc gia đã thành lập một hệ thống lý luận khá chặt chẽ, làm nền tảng cho sự diễn tả thuyết
chính danh Nho học của ông.
Ở Việt Nam, học thuyết chính danh cũng như Nho giáo nói chung đã góp phần hình
thành nên hệ thống tư tưởng triết học mang đậm bản sắc dân tộc. Trong khi các nguyên tắc
cai trị xã hội của Nho giáo Trung Hoa có phần cứng nhắc và hà khắc thì ở Việt Nam thấm
sâu tình nhân ái và lòng yêu nước được đặt lên hàng đầu.
Nói tóm lại thuyết chính danh cũng như Nho giáo có vai trò quan trọng trong nền triết
học cổ, trung đại Trung Hoa nói riêng và phương Đông nói chung. Và thuyết chính danh
nguyên thủy do Khổng Tử đề xướng là nền tảng để các nhà Khổng giáo đời sau phát triển
cho phù hợp với xã hội Trung Quốc luôn biến chuyển góp phần ổn định trật tự xã hội.

2.1.4 Nho giáo có ảnh hưởng tích cực đến văn hóa:
Nho giáo coi trọng văn hóa nên các nước theo Nho giáo đều đề cao đạo đức, lễ nghi,
văn hiến.
Nho giáo là một học thuyết xây dựng và đạo đức, vấn đề tu thân được đặt lên hàng
đầu: “Từ thiên tử ở địa vị cao nhất cho đến người dân bình thường đều phải lấy việc tu thân
làm gốc”.
Nhiều nước châu Á đã có những kinh nghiệm rất đáng quý trong việc khai thác Nho
giáo nhằm bảo đảm ổn định chính trị và xã hội, nhất là trong thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ
của đất nước. Các nước nói trên đã không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân mỗi người
trong việc tu thân mà còn quy định trách nhiệm của gia đình, của trường học, của xã hội,
của Nhà nước đối với việc này.
Chính vì thế mà ở những nước nói trên, nhất là trong mấy thập kỷ vừa qua, công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đã nhanh chóng đưa xã hội từ lạc hậu thành tiên tiến trong một
hoàn cảnh tương đối ổn định về chính trị và xã hội. Các nước nói trên đã duy trì được những
13
nét tốt đẹp của truyền thống, củng cố được mối quan hệ gắn bó giữa người và người trong
gia đình và xã hội, trong xí nghiệp và đồng ruộng. Cố nhiên, chúng ta nên nghĩ rằng trong
những quan hệ đạo đức không tránh khỏi nhiều điểm chưa hợp lý, chưa công bằng, chưa
tiến bộ mà những nước nói trên nhất định sẽ cần giải quyết.
Nho giáo đòi hỏi con người trước hết phải có quan hệ đúng đắn trong các quan hệ xã
hội. Trước hết, là 5 mối quan hệ gọi là Ngũ luân: Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn
bè.
Những nước châu Á theo Nho giáo đã khai thác những quan điểm trong Ngũ luân để
nâng cao tình cảm và trách nhiệm của mỗi con người đối với gia đình, đối với xí nghiệp, đối
với nơi công tác, đối với tổ quốc và xã hội. Sự khai thác Nho giáo như thế đã có tác dụng
lớn là nâng cao tình cảm và ý chí của mọi người trên cương vị và trách nhiệm cụ thể của
mình.
Ở những nước châu Á theo Nho giáo, chúng ta thấy những đóng góp lớn đối với quá
trình phát triển của đất nước. Gia đình đào tạo ra những người mà xã hội đòi hỏi. Gia đình
nuôi dưỡng một cuộc sống tình cảm giữa các thành viên và giữa gia đình với xã hội.

Các nước nói trên đã giữ lại mối quan hệ cổ truyền trong gia đình để ràng buộc con
người vào trật tự xã hội. Nó đã củng cố thêm mối quan hệ tính chất giữa Nhà nước và công
dân, giữa chủ và thợ. Người chủ vì lợi ích của bản thân đã nhân danh gia đình chăm lo đến
lợi ích của công nhân, người công nhân cũng với tình cảm của gia đình, coi xí nghiệp như
gia đình của mình, coi chủ xí nghiệp như chủ gia đình. Họ chăm lo đến lợi ích của xí nghiệp
và lợi ích của họ phụ thuộc vào mức độ họ đóng góp với xí nghiệp. Truyền thống Nho giáo
trong gia đình ở các nước nói trên có tác dụng tích cực trong việc ổn định và phát triển xã
hội như thế.
Ở Việt Nam, cũng khai thác vai trò của gia đình trong sự nghiệp phát triển của đất
nước và cũng có những quan điểm riêng về di sản Nho giáo trong gia đình. Mọi người quan
tâm đến việc thờ cúng tổ tiên, chăm lo mồ mả, sửa sang nhà thờ họ, tìm lại gia phả, nhận lại
anh em họ hàng gần xa.
Tình hình này có xu hướng củng cố thêm quan hệ gia đình, tạo điều kiện khuyến
khích mọi người phát huy nhân tố tích cực của gia đình trong lao động, học tập và trong sự
nghiệp dân giàu nước mạnh. Mặt khác, cũng cần ngăn chặn tư tưởng gia đình chủ nghĩa,
thái độ họ hàng bao che cho nhau, tạo nên tính chất bè phái giữa các dòng họ trong một xã
hội, giữa lợi ích xã hội và lợi ích gia đình trong phạm vi cả nước.
Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có thể nói rằng, phù hợp với xã
hội chúng ta ngày nay. Chúng ta cũng cho rằng “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi
nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình thành
nhân cách”.
14
2.2 Những hạn chế của triết học Nho gia
2.2.1 Mối quan hệ tam cương ngũ thường hà khắc
Khổng Tử đặt ra một loạt tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức để làm chuẩn
mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cương và ngũ thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam tòng và Tứ đức là
lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được tam
cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức thì xã hội được an bình.
Tam cương:tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần

(vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).
Quân thần:("Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung" nghĩa là: dù vua có bảo bề tôi chết
đi nữa thì bề tôi cũng phải tuân lệnh, nếu bề tôi không tuân lệnh thì bề tôi không trung với
vua) : Ý thức chấp hành luật pháp .
Phụ tử: ("phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là: cha khiến con chết, con không
chết thì con không có hiếu) : Con cái vâng lời cha mẹ .
Phu phụ:("phu xướng phụ tùy" nghĩa là: chồng nói ra, vợ phải theo) : Tôn ti trật tự
trong gia đình
Ngũ thường:ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có
trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Nhân:Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
Nghĩa:Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
Lễ:Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
Trí:Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
Tín:Giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Tam tòng:tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, gồm:
"tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
Tại gia tòng phụ:người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha,
Xuất giá tòng phu:lúc lấy chồng phải theo chồng,
15
Phu tử tòng tử:nếu chồng qua đời phải theo con"
Tứ đức:tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ phải có, là:
công - dung - ngôn - hạnh.
Công:khéo léo trong việc làm.
Dung:hòa nhã trong sắc diện.
Ngôn:mềm mại trong lời nói.
Hạnh:nhu mì trong tính nết.
Chính những quan điểm này đã xây dựng nên một hệ thống hàng rào đạo đức, làm cho
con người sống xoay quanh nó một cách mù quáng, dẫn đến nhiều bi kịch không đáng có.
Dẫu biết rằng vua sai trái, biết rằng vua sẵn sàng tử hình mình nhưng vẫn bằng lòng vì

“Vua xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Hay trường hợp hết lòng phục sự cho một vị hôn
quân Trụ Vương của Lý Tịch, dẫn đến gây nên cục diện rối ren cho cả một quốc gia, khiến
dân chúng lầm than, đói khát.
Chính sự quá hà khắc trong quan điểm này của Khổng Tử, đã phần nào hạn chế sự
phát triển của xã hội Trung Quốc cổ đại lúc bấy giờ.
Đây cũng chính là hạn chế rất lớn trong học thuyết của Khổng Tử.
2.2.2 Quá xem trọng tư tưởng thiên mệnh và mang tính duy tâm tôn giáo
Thuyết Thiên mệnh của Nho giáo gồm: Tri mệnh, Sĩ mệnh, Phối mệnh và Úy mệnh.
Tri mệnh nghĩa là biết mệnh Trời mà tuân theo. Muốn biết đượhếc mệnh Trời phải cchế ngụ
tư dục, để tính thiện được tỏ rạng, lương tri sáng suốt.
Phối mệnh: Kết hợp với mệnh Trời: phải luôn luôn trau giồi đức hạnh để luôn luôn
xứng đáng là một con người với danh nghĩa là một Tiểu Thượng Đế.
Sĩ mệnh: Đợi mệnh Trời: nghĩa là không nên có thái độ nóng vội hay chán nãn, than
van, mà cứ giữ tâm tánh luôn luôn được an nhiên mà chờ đợi mệnh Trời. Sách Trung Dung
có câu: Thượng bất oán Thiên, hạ bất vưu nhân, cư dị sĩ mệnh. Nghĩa là: Trên không oán
Trời, dưới không trách người, cứ ở bình dị mà đợi mệnh Trời.
Úy mệnh: Sợ mệnh Trời để kính trọng và sửa mình, chớ không phải sợ để xa lánh,
bởi vì dù có xa lánh cũng không khỏi được.
16
Tóm lại, về Thiên mệnh, Thánh nhân có câu: Vui theo đạo Trời, biết mệnh Trời, cho
nên không lo, tùy chỗ mà ở yên và đôn đốc làm điều nhân, cho nên có lòng nhân ái.
Như vậy, có thể thấy theo quan điểm của Nho giáo, Trời quyết định mọi sự thành công
hay thất bại trong đời sống con người.
Trong tác phẩm Luận ngữ, Khổng Tử có viết “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”
(Sống chết có số mạnh, phú quý nhờ trời). Con người không thể cãi mệnh trời. Mọi cố gắng
của con người không ngoài ý trời. Con người hầu như đặt hết sự tin tưởng của mình vào ý
chí của Trời nếu muốn trở thành người quân tử: "Không hiểu mệnh Trời không xứng đáng
là một người quân tử" (Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã - Luận Ngữ, thiên Nghiêu Viết).
Như vậy, Thiên-mệnh của Nho giáo có vẻ mang tính chất tiêu cực. Nó hạn chế mọi nỗ
lực biến đổi thân phận và sự cố gắng vươn lên của con người. Nếu một người khi mới sinh

ra đã có sẵn một số mệnh an bài và được định đoạt bởi ý chí của một đấng siêu nhiên thì
con người đành phải chấp nhận xuôi tay, giao phó toàn bộ đời mình cho một đấng quyền
năng quyết định.
2.2.3 Bất bình đẳng nam nữ
Nho giáo, hệ tư tưởng đại diện điển hình nhất của chế độ gia trưởng ở Việt Nam thời
cổ đã trình bày cơ cấu xã hội gồm mối quan hệ giữa Thân – Nhà - Nước – Thiên hạ.
Mạnh Tử cho rằng : thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình (thiên
hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân). Con người (nam giới – chú
thích của tác giả ) trước hết cần phải học tập, tu dưỡng (Tu thân theo chuẩn mực nhân,
nghĩa, lễ trí tín ), sau đó phải xây dựng và quản lý nhà mình cho thật tốt (Tề gia) rồi vươn
lên quản lý đất nước (Trị quốc) và cai trị nước khác (Bình thiên hạ). Theo khuynh hướng
đó, những người đàn ông sẽ đời nối đời xây dựng, thống trị và ổn định xã hội.
Theo quan điểm của Hậu nho thì Tam cương là ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội :
Vua-tôi; Cha-con; Chồng-vợ. Đây là các mối quan hệ bất bình đẳng trong xã hội có giai
cấp.
- Quân vi thần cương là vua làm cương cho tôi
- Phụ vi tử cương là cha làm cương cho con
- Phu vi thê cương là chồng làm cương cho vợ
17
Trên cơ sở đó, những người làm cuơng cho người khác là những người lãnh đạo và có
quyền lực cao nhất trong xã hội và gia đình. Trong cấu trúc này, phụ nữ nằm ở nhóm xã hội
“tôi”,”con”,”vợ” là nhóm phải chịu sự giáo dục, sự thống trị tuyệt đối của nam giới.
Nho giáo còn coi phụ nữ ngang hàng với tiểu nhân, là loại bị khinh miệt, không đáng
đếm xỉa. Theo Khổng Tử thì chỉ có đàn bà và tiểu nhân là hạng khó dạy. Khi ta gần thì họ
nhờn, xa thì họ oán (Phụ nhân nan hoá). Vì vậy để nói về xã hội nam quyền người ta thường
gọi là chế độ “Trọng nam, khinh nữ”.
Bên cạnh đó, trật tự gia đình của Nho giáo được xác lập trong chế độ đối kháng giai
cấp và áp bức giới hết sức chặt chẽ và nghiêm khắc. Hậu nho đã quy định trong gia đình có
hai loại người là Sử và Sự. Sử là những người lãnh đạo còn Sự là những người chịu sự lãnh
đạo. Sử là những ông chủ trong gia đình có quyền uy tuyệt đối trong đối nội và đối ngoại.

Đó là ông, cha, anh, chồng còn Sự là những người thứ bậc dưới như cháu, con, em, vợ. Mọi
người đàn ông trong gia đình khi sinh ra thì thuộc hàng Sự nhưng đến khi lớn lên, có gia
đình riêng, anh ta sẽ thuộc hàng Sử còn mọi người phụ nữ trong suốt cuộc đời mình không
bao giờ thuộc hạng Sử cả.
Phụ nữ còn phải tuân theo các quy tắc của “Tam tòng, Tứ đức”. Tam tòng : Tại gia
tòng phụ; xuất giá tòng phu; phu tử tòng tử (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng
chết theo con ) và Tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh (Giỏi nữ công gia chánh nghĩa là Công;
Giữ gìn dung nhan đẹp đẽ cho chồng nghĩa là Dung; Ngôn từ dịu dàng, phụ thuộc vào
chồng và gia đình chồng, phải biết lựa lời mà nói, không nói lời xấu, phải biết khi nào được
nói, khi nào không, không được nói leo, không được ngồi lê mách lẻo như thế gọi là Ngôn.
Giữ gìn trinh tiết cho chồng cả lúc chồng sống lẫn sau khi chồng chết, tuân thủ tam tòng,
mắt nhìn thẳng, không được có thái độ “đầu mày cuối mắt” với người ngoài gọi là Hạnh
(Vũ Khiêu, 1997).
Đạo trị gia của Nho giáo rất coi trọng sự hoà thuận của quan hệ vợ chồng nhưng phải
nằm trong một tôn ti trật tự của chế độ gia trưởng “Phu xướng, phụ tuỳ”, chồng nói gì thì vợ
phải theo đó mà làm bất kể đúng sai.
Nho giáo cho rằng phục vụ vô điều kiện cho nam giới là chức năng, nhiệm vụ, thiên
chức của phụ nữ. Những quan niệm và nguyên tắc này đã cột chặt cuộc đời người phụ nữ
vào cái xiềng của gia đình ngay cả sau khi chồng của họ đã chết. Đó là quan điểm “Chồng
chúa, vợ tôi” rất phổ biến trong xã hội theo Nho giáo.
Trong gia đình thì chồng là “vua” còn vợ là “nội tướng”. Nho giáo khuyên : chồng
nhân nghĩa, vợ nhu thuận. Trình Hạo và Trình Di là hai danh nho đời Tống cho rằng: Cha
tôn, con ty, anh ái, em cung, chồng quyết, vợ nghe, mỗi người đều làm trọn đạo từ đó gia
đạo mới ngay, thiên hạ mới định. Con cái hư hỏng thì đổ tội cho phụ nữ không biết dạy con
“Con hư tại mẹ”
18
“Nam bất ngôn nội, nữ bất ngôn ngoại” (Đàn ông không nói việc trong nhà, đàn bà
không nói việc ngoài đường). Theo sự phân công đó, đàn ông chủ việc bên ngoài, đàn bà
chủ việc bên trong nhưng đàn bà vẫn phải phục tùng đàn ông. Bằng cách đó, phụ nữ bị hạn
chế không được tham gia các công việc xã hội.

Cho đến nay, ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam hiện nay vẫn còn khá
lớn, xét trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Một số nam giới vẫn cho rằng: sinh ra là phận
gái thì phụ nữ phải phục tùng đàn ông trên cả hai phương diện gia đình và xã hội.
KẾT LUẬN
Khổng Tử là nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại có vai trò lớn trong lịch sử giáo dục thế
giới. ông đã để lại cho nhân loại những lời dạy bảo quý giá mà ở từng thời kì lịch sử khác
nhau, khi vai trò nhân tố con người được đề cao thì người ta lại càng phát hiện ở đó chứa
đựng những yếu tố tích cực, tiến bộ vẫn còn giá trị trong việc giáo dục và đào tạo con
người.
Tuy vậy, do ảnh hưởng của lịch sử, của tính giai cấp và còn có những điều chưa chặt
chẽ trong lập luận nên các giai cấp thống trị đời sau thường lợi dụng quan điểm của ông,
thêm thắt vào để lập luận, khai thác tính duy tâm, siêu hình, tính bắt buộc của lễ giáo nhằm
19
phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị. Vì thế nhiều người đời sau cho rằng tư tưởng
của ông quá khắt khe và đối lập với quyền lợi của nhân dân lao động.
Nho giáo nguyên thủy chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn về nguyên tắc; ví dụ, Khổng Tử
nói “dân làm gốc” nhưng lại gọi dân là “tiểu nhân”,… Tính “phi dân chủ” và hệ quả của nó
là tư tưởng “bá quyền”, coi khinh các dân tộc khác, coi mình là trung tâm còn “tứ di” xung
quanh đều là “bỉ lậu” cả. Khổng Tử nói: “Các nước Di, Địch, dù có vua nhưng cũng không
bằng Hoa Hạ (Trung Hoa) không có vua” . Tính phi dân chủ còn được thể hiện ở chỗ coi
thường người dân, đặc biệt là phụ nữ. Khổng Tử gọi dân thường là “tiểu nhân”, đối lập với
người “quân tử”. Còn đối với phụ nữ, ông nói: “Chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy.
Gần thì họ nhờn, xa thì họ oán”
Tìm hiểu về Nho gia đã cho thấy nhìn chung Nho gia hướng con người vào tu thân và
thực hành đạo đức là hoạt động căn bản nhất, luôn được đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt
xã hội. Quan điểm về vũ trụ, về nhân sinh, về nhận thức luôn thấm đượm ý thức đạo đức.
Tất cả mọi vấn đề đều lấy đạo đức làm chuẩn.
Để cũng cố những mối quan hệ cơ bản trong xã hội, Nho gia đã nêu lên những phẩm
chất quan trọng bậc nhất mà mọi người phải đạt tới. Con đường phấn đấu là phải ra sức tu
dưỡng bản thân để xây dựng cuộc sống gia đình, góp phần vào việc quản lý đất nước, sau

đó đem lại yên vui cho thiên hạ. Quan niệm của Khổng Tử và các nhà nho ra đời cách ngày
nay khoảng 2500 năm, nhiều tư tưởng và quan niệm của họ đã quá lỗi thời, nhiều nguyên
tắc đề xuất không còn hiệu lực và không phù hợp với thời đại ngày nay.
Nhìn vào thực tế xã hội Việt Nam ngày nay, chúng ta thấy rằng sự ảnh hưởng tư tưởng
triết học về đạo đức – chính trị của Khổng Tử đến sự nghiệp đào tạo con người mới hiện
nay thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị xã hội, kinh tế, văn hoá, gia đình…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triết học, Phần I, Đại Cương về lịch sử Triết học, TS. Bùi Văn Mưa (chủ biên),
Trường đại học kinh tế Tp. HCM, Khoa lý luận chính trị, Tiểu ban Triết học
2.
3. www.webluanvan.com
4. www.dovanbinh.violet.vn
20
5. www.my.opera.com
6.
7.
8.
9.
10.
21

×