Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐẠO GIA NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.76 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRƯỜNG PHÁI
ĐẠO GIA 2
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển đạo gia 2
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của đạo gia 2
2.1 Tư tưởng triết học của Lão Tử 2
2.2.1 Lý luận về đạo và đức 3
2.2.2 Quan niệm biện chứng về thế giới 3
2.2.3 Thuyết vô vi 5
2.2 Trang Tử và sự phát triển của Đạo Gia 6
CHƯƠNG II: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRƯỜNG PHÁI
ĐẠO GIA 10
1. Những giá trị của trường phái đạo gia 10
2. Những hạn chế của trường phái đạo gia 11
KẾT LUẬN 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
LỜI MỞ ĐẦU
Mầm mống của tư tưởng triết học Trung Hoa có thể tìm thấy tư tưởng
trong thần thoại, nhưng tư tưởng triết học có hệ thống được hình thành trong thời
Xuân Thu – Chiến quốc. Đây là thời đại tư tưởng được giải phóng, tri thức được
phổ cập, nhiều học giả đưa ra học thuyết của mình, lịch sử gọi là thời Bách gia
tranh minh. Vượt lên trên các học thuyết ấy, Đạo giáo (hay Đạo gia) – cùng Nho
giáo và Phật giáo là ba học thuyết phát triển rực rỡ nhất, tạo thành nền tảng cho
văn hóa phương Đông cho đến ngày nay và được trân trọng gọi là Tam giáo.
Trong đó triết học của Đạo gia với nhà tư tưởng khai sáng là Lão Tử có
nhiều điểm độc đáo, đặc biệt là nhận thức vũ trụ quan. Triết học Đạo gia chú
trọng nhận thức về thế giới tự nhiên, về bản thể của vũ trụ và những quy luật vận
động của thế giới khách quan,
Những tư tưởng của Đạo gia thấm sâu vào dân tộc Trung Hoa, làm cốt lõi


của văn hóa Trung Hoa, vừa tạo thú sống cho tao nhân quân tử vừa như một tôn
giáo cho giới bình dân ngưỡng vọng.
Không chỉ ảnh hưởng đến nền triết học phương Đông, ở phương Tây, từ
khoảng một trăm năm nay, Đạo gia cũng có mặt ngày càng nhiều trong phạm vi
nghiên cứu của nhiều học giả thuộc bộ môn triết ở các đại học, cho tới các trí
thức muốn tìm cho mình một lối suy tư và sống thanh thoát giữa lòng xã hội bị
cơ khí hóa và vật chất hóa.
Tại Việt Nam, Tam giáo (bao gồm Đạo gia) đã du nhập từ ngàn xưa và có
ảnh hưởng không ít đến đời sống tư tưởng văn hóa. Việc nghiên cứu Đạo gia là
cần thiết để hiểu rõ hơn luồng tư tưởng này cũng như hiểu rõ hơn về đời sống tư
tưởng của dân tộc.
Hai nhà tư tưởng đại diện xuất sắc nhất của Đạo gia là Lão Tử và Trang
Tử, ngoài ra còn có các nhà tư tưởng khác như Hoài Nam Tử, Doãn Văn Tử, Liệt
Tử, Dương Tử Tuy nhiên trong phạm vi hạn hẹp của tiểu luận này, chúng ta chỉ
tập trung nghiên cứu tư tưởng của 2 nhân vật điển hình nhất của Đạo gia là Đức
Lão Tử và Trang Tử thông qua 2 tác phẩm tiêu biểu là Đạo đức kinh (Lão Tử) và
Nam hoa kinh (Trang Tử), từ đó đúc kết ra những giá trị và hạn chế của trường
phái triết học Đạo gia.
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 1
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA
1. Sơ lược sự hình thành và phát triển đạo gia
Đạo giáo hay Đạo gia là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc,
được xem là tôn giáo đặc hữu chính thống của xứ này. Nguồn gốc lịch sử được
xác nhận của Đạo giáo được xem nằm ở thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên, khi tác
phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử xuất hiện.
Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát lúc nào, chỉ thấy được là tôn
giáo này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu thượng cổ
khác. Đạo giáo thâu nhiếp nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời nhà Chu (1040 –

256 trước CN), những tư tưởng vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, thuyết về năng
lượng, chân khí, thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng ra, những
truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công,
Thiền định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng
được hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. [2]
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của đạo gia
Đạo gia còn được gọi là Lão Trang, được gọi theo tên 2 đại diện xuất sắc
nhất của Đạo gia là Lão Tử và Trang Tử, tư tưởng của 2 nhà triết gia lớn này đặt
nền tảng cho toàn bộ tư tưởng của Triết học Đạo gia.
2.1 Tư tưởng triết học của Lão Tử
Lão Tử là nhà triết học lớn với học thuyết về “Đạo” nổi tiếng ở Trung
Quốc cổ đại. Ông được coi là người sáng lập ra trường phái triết học Đạo gia,
một trong ba trường phái lớn nhất thời Xuân thu – Chiến quốc. Cuộc đời và sự
nghiệp của ông mang đầy tính huyền thoại, cũng thấp thoáng, mập mờ, nửa hư,
nửa thực như triết lý của ông, nên người ta khó xác định được một cách chính
xác. Đa số các tài liệu đều cho rằng Lão Tử có thể sống đồng thời với Khổng Tử
và có dạy lễ cho Khổng Tử. Quan điểm này chủ yếu dựa vào hai thiên “Khổng
Tử thế gia” và “Lão Tử liệt truyện” trong cuốn Sử ký của Tư Mã Thiên nói rằng
Khổng Tử đã từng gặp Lão Tử ở Chu để hỏi về lễ. [3]
Toàn bộ tư tưởng của ông, được trình bày ngắn gọn và xúc tích trong cuốn
Đạo đức kinh, gồm 81 chương, chia làm hai thiên thượng và hạ. Với cách diễn
đạt vắn tắt, thâm trầm, gợi mở bằng những châm ngôn, ngạn ngữ có tính ẩn dụ,
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 2
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
Lão Tử đã trình bày ba vấn đề triết học căn bản là: học thuyết về Đạo, tư tưởng
về phép biện chứng và học thuyết “vô vi”.
2.1.1 Lý luận về đạo và đức
Ý nghĩa chữ Đạo giữ một vai trò trọng tâm trong toàn bộ hệ thống triết
học Đạo gia. Đức Lão Tử cho rằng Đạo là bản nguyên của vũ trụ.


Ngài dạy: “Đạo
sanh nhất, nhất sanh nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão
dương, xung khí dĩ vi hòa.” (Chương 42, Đạo đức kinh). Đạo là Vô cực, sinh một
chỉ vào cái thể duy nhất của Đạo là Thái cực, sinh hai chỉ về Âm dương tức hai
nguyên lý mâu thuẫn cùng có trong mỗi vật, và giữa sự xô xát xung đột của hai
nguyên lý ấy có cái gì đó làm cho nó dung hòa, Âm dương tương hợp sinh ra vạn
vật muôn loài. [4]
Đức là một phạm trù triết học dùng để thể hiện sức mạnh tiềm ẩn của Đạo,
là cái hình thức nhờ đó vạn vật được định hình và phân biệt được với nhau, là cái
lý sâu sắc để nhận biết vạn vật. Chương 51, ngài Viết: “Đạo sinh ra vạn vật, đức
bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở vạn vật“. Đạo sinh ra vạn
vật, thì Đức bao bọc dưỡng nuôi vạn vật. Đức là biểu hiện của Đạo nơi sự vật, là
hình của Đạo. Vậy, Đạo là cái mà nhờ đó mà mọi vật được sinh ra và Đức là cái
mọi vật được định hình và đặt tên để trở thành nó mà phân biệt với cái khác.
Tóm lại, Đạo không chỉ là nguồn gốc, bản chất mà còn là quy luật của mọi
cái đã, đang và sẽ tồn tại trong thế giới. Điều này cho phép hiểu Đạo như nguyên
lý thống nhất – vận hành của vạn vật – nguyên lý Đạo pháp tự nhiên (Nhân pháp
địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên). Đạo vừa mang tính khách
quan (vô vi) vừa mang tính phổ biến; vì vậy, trong thế giới, không đâu không có
Đạo, không ai không theo Đạo…
Như vậy, quan niệm về Đạo của trường phái Đạo gia đã thể hiện một trình
độ khái quát cao của tư duy về những vấn đề bản nguyên thế giới được xem xét
trong tính chỉnh thể thống nhất của nó.
2.1.2 Quan niệm biện chứng về thế giới
Phép biện chứng của Lão Tử là sự phát triển tư tưởng về sự biến dịch
trong "Kinh Dịch". Theo ông toàn bộ thế giới là một cuộc đại chuyển tiếp không
ngừng. Thuật ngữ "Đạo trường" trong "Đạo đức kinh" thường đồng nghĩa với
Dịch – đó là sự chuyển biến, thay đổi của vạn vật. Trong sự vận động, biến đổi
đó tất cả chỉ là tương đối, chỉ là một giai đoạn của dòng chuyển hoá vô tận. Sự
vận động của vạn vật không phải là hỗn loạn mà tuân theo những quy luật tất yếu

Học viên: Hứa Hán Cường Trang 3
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
của tạo hoá. Đây là những quy luật nghiêm ngặt, không sự vật nào đứng ngoài
quy luật đó kể cả trời, đất, thần linh. [4]
Toàn thể vũ trụ, theo Lão Tử, bị chi phối bởi hai quy luật phổ biến là: luật
quân bình và luật phản phục. Luật quân bình là giữ cho vận động được thăng
bằng không để cho cái gì thái quá, thiên lệch hay bất cập. Cái gì khuyết sẽ được
tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng, cái gì vơi dễ được bồi đắp cho đầy, cái gì cũ
thì sẽ đổi mới lại. Đó là Đạo tự nhiên. Biểu tượng của luật quân bình là nước.
Nước có bản tính mềm mại, gặp chỗ trống thì chảy vào, gặp chỗ đầy thì chảy ra,
lánh cao mà tìm thấp. Vì thế nó ngày đêm chảy mãi không ngừng, lên trên thành
mưa thấm nhuần vạn vật, xuống dưới thì thành sông lạch tưới mát muôn loài.
Chính nhờ luật quân bình mà vạn vật tồn tại, biến đổi không ngừng theo
một trật tự tự nhiên, nhất định. Luật quân bình chống lại những gì thái quá trái
với sự điều hoà của tự nhiên. Để chống lại những gì thái quá, nó thường lấy nhu
thắng cương, nhược thắng cường.
Theo Lão Tử, trong quá trình vận động, biến đổi, khuynh hướng tất yếu
của vạn vật là trở về trong Đạo, trở về với tĩnh lặng, hư không theo luật "phản
phục". Lão Tử gọi luật đó là "trở lại của đạo". Luật "phản phục" ở Lão Tử có hai
nghĩa. Thứ nhất, phản phục có nghĩa là vạn vật biến hoá trao đổi cho nhau theo
một vòng tuần hoàn đều đặn, kế tiếp, nhịp nhàng bất tận như bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông thay đổi, qua lại. Thứ hai, phản phục còn có ý nghĩa trở về với Đạo, tự
nhiên, vô vi. Trở về với Đạo tự nhiên, vô vi là trở về với chính bản tính tự nhiên
của mình, không thái quá, không bất cập. Như vậy thì "không làm gì cả, mà
không gì không làm". Theo Lão Tử, nếu không trở về Đạo tự nhiên, vô vi, cố
tình can thiệp vào cái bản tính tự nhiên của tạo hoá, là chuốc lấy thất bại: "nếu
trời không trong sẽ vỡ, đất không yên sẽ lở, hang không đầy sẽ cạn, vạn vật
không sống sẽ dứt".
Mọi sự vật biến động, biến đổi, theo Lão Tử có nguồn gốc từ trong bản
thân sự vật. Mỗi vật đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập, vừa tương hoà,

vừa xung khắc, vừa đối lập lại vừa liên hệ, ràng buộc bao hàm lẫn nhau và không
thể thiếu được nhau. Lão Tử viết : "Trong vạn vật, không vật nào mà không cõng
âm, bồng dương, nhân chỗ xung nhau mà hoà vào nhau".
Theo ông một sự vật trong một chu kì phát triển đến cực điểm, chúng sẽ
chuyển thành mặt đối lập với chính nó. Lão Tử cũng đã xây dựng một loạt các
mâu thuẫn trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, đạo đức, quan hệ ứng xử xã
hội, để giải quyết theo chủ trương điều hoà của ông và còn được nâng lên như
một nghệ thuật sống như: động và tĩnh, nóng và lạnh, thấp và cao, mềm và cứng,
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 4
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
hữu và vô, còn và mất, thọ và yểu, thiện và ác, tốt và xấu, hưng và vong Các
mặt đối lập đi đôi với nhau thì vạn vật mới tươi tốt, mới thuận hoà, còn khi
chúng phát triển đến cực thịnh thì chúng sẽ biến thành cái đối lập với bản thân
mình.
2.1.3 Thuyết vô vi
Mở rộng tư tưởng về “đạo” đến mặt đời sống xã hội, Lão Tử đã đề xướng
học thuyết “vô vi”. “Vô vi” là một học thuyết triết học – đạo đức của người
Trung Hoa cổ đại, đã được Lão Tử nâng lên thành học thuyết về nghệ thuật sống
của con người trong sự hòa nhập với tự nhiên.
Quan điểm "vô vi" của Lão Tử xét cho cùng là những vấn đề đạo đức,
nhân sinh và chính trị xã hội. Mặc dù Lão Tử đề cao mặt tự nhiên của con người,
phủ nhận mặt xã hội, nhưng quan điểm "vô vi" của Lão Tử vẫn biểu hiện sâu sắc
nghệ thuật sống, thái độ ứng xử của con người, phương pháp trị nước của vua
chúa hay bộ máy nhà nước, và đây cũng chính là chỗ tập trung giá trị hệ thống
triết học của ông. [5, 46]
"Vô vi" trong "Đạo đức kinh" có ba ý nghĩa chính: Một là vạn vật đều có
bản tính tự nhiên của mình, chúng tồn tại, vận động, biến hoá theo lẽ tự nhiên
vốn có, không can thiệp vào quá trình vận hành của các vật khác, biết chấp nhận
và thích ứng với mọi hoàn cảnh, môi trường. Hai là "vô vi" còn có nghĩa tự do
"tuyệt đối", không bị ràng buộc bởi bất cứ ý tưởng, dục vọng, đam mê, ham

muốn nào, nếu cố chạy theo những nhu cầu, ham muốn trái với khả năng, bản
tính tự nhiên của mình thì sẽ đánh mất chính bản thân mình. Và ba là "vô vi" còn
có nghĩa là luôn bảo vệ, giữ gìn bản tính tự nhiên của vạn vật mà trước hết là
chống lại mọi hành động của con người tác động vào xã hội.
Từ quan điểm vô vi, Lão Tử rút ra những điểm căn bản trong nghệ thuật
sống của con người, đó là những đức tính: từ ái, cần kiệm, khiêm nhường, khoan
dung, trí túc và kiến vi.
Cũng từ học thuyết vô vi, Lão Tử đề cập tới những vấn đề chính trị, xã
hội. Trong đời sống xã hội và phép trị nước, trước hết Lão Tử chủ trương phải bỏ
hết những gì trái với đạo tự nhiên vô vi, vượt quá bản tính, khả năng, nhu cầu tự
nhiên cần thiết của con người. Trị nước bằng vô vi, Lão Tử kêu gọi đưa xã hội và
cuộc sống con người trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên thuỷ, chất phác,
không ham muốn, dục vọng, không thể chế, pháp luật, không ràng buộc bởi
truyền thống đạo đức, không tri thức văn hoá, kĩ thuật. Theo bản tính tự nhiên,
mọi người tự làm những việc mà mỗi con người cần phải làm một cách tự nhiên.
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 5
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
Hơn thế nữa, Lão Tử con chủ trương đưa đức tính con người trở lại với
thời kỳ trẻ thơ, hồn nhiên, chân chất, vô dục. Ông muốn con người thấu suốt mọi
lẽ của tự nhiên mà sống hòa hợp với tự nhiên, không tự mãn, không tự phụ,
không xao động, không phô trương, không thái quá hay bất cập.
Theo đạo vô vi, phản đối những hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội do
sự áp bức bóc lột của bọn quý tộc cũng như sự phát triển kinh tế hàng hoá gây
nên mơ ước trở lại đời sống chất phác của thời đại công xã nguyên thuỷ, Lão Tử
chủ trương bất bạo động, phản đối việc gây chiến tranh bạo lực. Ông cho đó là sự
tàn bạo, là tai hoạ của đời sống con người. Trong cuộc chiến tranh Lão Tử cho
rằng, chẳng có thắng bại vinh nhục. Ông viết: "Chiến tranh là việc chẳng lành,
không phải việc của quân tử. Nếu bắt buộc phải dùng binh thì phải điềm đạm.
Nếu thắng cũng đừng cho là hay. Đắc thắng mà cho là hay tức là kẻ thích giết
người, cuộc chiến tranh phải xử bằng tang lễ" (Đạo đức kinh, Chương 31).

2.2 Trang Tử và sự phát triển của Đạo Gia
Trang Tử được coi là nhà tư tưởng lớn về đạo học trong triết học cổ Trung
Quốc, người có công mài dũa viên ngọc Đạo của Lão Tử làm hiện lên đầy đủ vẻ
lấp lánh huyền hoặc của nó. Vì thế, người đời xưa thường gọi trường phái triết
học này là Lão – Trang.
Trang Tử tên thật là Trang Chu. Ông sinh vào khoảng nửa cuối thế kỷ thứ
IV trước Công nguyên và mất vào những năm đầu của thế kỷ thứ III trước Công
nguyên. Trang Tử xuất thân từ tầng lớp quý tộc sa sút trong xã hội, đã từng làm
quan, sau đó từ quan và sống ẩn dật cho tới cuối đời. Địa vị giai cấp của Trang
Tử đã thể hiện rõ trong thuyết tương đối và chủ nghĩa vô vi của ông. [5, 51]
Tác phẩm của Trang Tử được lưu truyền đến nay, chỉ còn bộ Nam Hoa
kinh với 33 thiên còn lại, được chia làm ba phần lớn, gọi là Nội thiên, Ngoại
thiên và Tạp thiên. Phần Nội thiên gồm 7 thiên, Ngoại thiên gồm 15 thiên và Tạp
thiên có 11 thiên. Trung tâm của toàn bộ học thuyết triết học Trang Tử là quan
niệm về “Đạo”, “Đức” và mối quan hệ đồng nhất của chúng.
Quan niệm về Đạo ở Trang Tử thực chất là những vấn đề bản thể luận và
vũ trụ quan, nó là nền tảng và quyết định đường lối triết học của ông. Có thể diễn
đạt tư tưởng đó của ông bằng những nội dung sau:
Nội dung thứ nhất về Đạo của Trang Tử là cái vô danh. Trong thiên Tri
bắc du, Trang Tử viết: “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn phải
là nó. Đạo cũng chẳng có thể thấy được, thấy được không còn phải là nó nữa. Có
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 6
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
thể nào lấy trí mà hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được chăng?
Vậy thì không nên đặt tên cho đạo”.
Ông cho rằng Đạo có trước Thái cực, vượt lên tất cả, Đạo sinh ra quỷ
thần, thượng đế, “Thái cực”. Bác bỏ trời, thượng đế, quỷ thần, Trang Tử đã bộc
lộ quan điểm phiếm thần, đồng thời ông đã tuyên bố đường lối triết học của mình
là, xuất phát từ tự nhiên để giải thích nó, đó chính là chủ nghĩa duy nhiên – hư
vô, là đường lối “vô vi” trong triết học của ông.

Theo Trang Tử, Đạo là cái hư không. Nó mơ hồ hỗn độn, nửa sáng nửa
tối, nửa tồn tại và nửa không tồn tại. Nó vượt ra khỏi mọi mối liên hệ với không
gian, thời gian, sinh tử. Nó không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà là cái vĩnh viễn
vượt ra khỏi cả mối liên hệ giữa tồn tại và không tồn tại, vì thế mà nó vô danh.
Về nguyên nhân và năng lực của Đạo, Trang Tử đã thể hiện quan điểm
duy vật khi ông cho Đạo là cái tự nhiên như thế, nó không do ai sinh ra mà tự
bản tự căn. Nó là bản thể đầu tiên của vũ trụ và vạn vật, nên nó “sinh ra trời đất”.
Nội dung thứ hai về Đạo của Trang Tử là vô thường. Đây là nội dung cốt
lõi của Đạo ở Trang Tử. Đạo vô thường chính là cuộc biến hóa của vũ trụ, là
cuộc đại chuyển tiếp giữa vũ trụ và vạn vật, là trạng thái động, biến đổi không
ngừng của Đạo. Trang Tử tuyệt đối hóa sự vận động, bỏ qua sự đứng im, sự tồn
tại tương đối của vạn vật. Đây chính là điểm khác biệt giữa Trang Tử và Lão Tử.
Nếu Lão Tử chú ý phân biệt các mặt đối lập, tương phản nhau trong Đạo thì ở
Trang Tử, ông đã hòa nhập tất cả là một trong sự biến hóa không lường. Vì vậy,
vũ trụ, vạn vật luôn ở trạng thái tương đối.
Theo Trang Tử Đạo còn là quy luật tự nhiên chi phối mọi sự vận động,
biến đổi của vũ trụ. Trang Tử cho rằng vạn vật trong thế giới vận động, biến hóa
khôn lường, nhưng chúng vận động không lộn xộn, tùy tiện mà vận động theo
một trật tự, một nguyên tắc nghiêm ngặt, không phải theo chiều hướng phát triển
đi lên, mà là theo một vòng tròn khép kín không rõ đầu, cuối.
Trong triết học Trang Tử, quan niệm về Đức cũng là một nội dung hết sức
quan trọng. Nó liên quan đến vấn đề con người tự nhiên và bản chất tự nhiên của
con người, sự đồng nhất giữa Đạo và Đức. Khái niệm Đức không phải là đạo đức
trong đời sống xã hội, mà là năng lực phát triển tự do trọn vẹn có bản tính tự
nhiên ở mọi người, mọi vật. Đức là một trạng thái tất yếu của vạn vật được quy
định bởi bản tính tự nhiên của nó.
Phần không kém đặc sắc trong triết học Trang Tử là phép biện chứng tự
phát. Trang Tử đã xem xét vũ trụ, tự nhiên bằng quan điểm biện chứng, mà nổi
bật là tư tưởng về sự vận động, biến hóa không ngừng của thế giới. Trong quan
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 7

Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
điểm về nhận thức, Trang Tử cho rằng Đạo là đối tượng nhận thức và cảm nhận
của con người. Đó là chỗ tận cùng của nhận thức. Trang Tử cho rằng nếu chỉ
bằng nhận thức lý trí thông thường thì con người không thể đạt tới Đạo, hòa làm
một với Đạo được. Trí tuệ con người bất lực trước Đạo và nếu cố gắng thì nó chỉ
dừng lại ở mức tương đối mà thôi. Quá tin vào trí tuệ con người, đó là đều lầm
lẫn và nguy hại. Nó không những chẳng nhận thức được gì hơn, mà chỉ làm sự
hiểu biết đó mờ tối đi vì thiên kiến.
Tuy hạ thấp khả năng lý trí của con người. Trang Tử cho rằng bằng sự
cảm nhận, bằng trực giác và kinh nghiệm đời sống người ta vẫn có thể đạt tới lẽ
cao cả của Đạo – thông qua nhận thức ở bậc đại trí.
Tiêu chuẩn thứ nhất để đạt tới bậc đại trí là phải hòa đồng hay huyền hóa
vào vũ trụ vạn vật, hòa nhập giữa chủ thể nhận thức với đối tượng nhận thức. Sự
cảm nhận ở bậc đại trí là chính bản thân cuộc sống hòa đồng tự nhiên của bậc
thánh nhân. Tiêu chuẩn thứ hai để đạt được bậc đại trí, đó là hạng người “vô kỷ,
vô công, vô danh”, tức là hạng người vượt ra khỏi những thiên kiến của nhận
thức thông thường, vượt ra khỏi không gian và thời gian, quên cả mình và quên
cả mọi sự ràng buộc của đời sống bình thường, vượt qua và quên những sự phân
biệt về mọi vật để được làm một với Đạo.
Về những vấn đề nhân sinh, mục đích của triết học Trang Tử là cứu đời,
cứu người nên ông cho rằng không triết lý suông về đạo mà là thực hành bản
thân cuộc sống theo Đạo. Điểm cốt lõi trong triết lý nhân sinh của Trang Tử
chính là học thuyết “vô vi”. “Vô vi” nghĩa đen là “không làm gì”, tuy nhiên
“không làm gì” không có nghĩa là không làm, mà là không làm, không hành động
trái với đạo tự nhiên. Nội dung thực sự của “vô vi” là hành động theo lẽ tự nhiên,
vô tư, hồn nhiên như trẻ thơ, không bị cưỡng chế hoặc ràng buộc bởi bất cứ một
định kiến hoặc ý muốn nào. Những hành động xã hội với mọi ràng buộc sẽ làm
tổn hại đến bản tính tự nhiên của vạn vật.
So với Lão Tử, quan điểm “vô vi” của Trang Tử có hai nội dung mới: một
là, “vô vi” theo Trang Tử nghĩa là không hành động thái quá, hai là phá bỏ tất cả

những gì trở ngại cho việc phát triển tự nhiên của vạn vật. Trang Tử cho rằng tất
cả những chế độ chính trị, pháp luật, đạo đức luân lý đều là những cái có hại
cho sự phát triển tự do theo bản tính tự nhiên của người và vật, cần phải loại bỏ.
Tóm lại, khái niệm “vô vi” của Trang Tử có ba nội dung chính: một là,
sống, tồn tại theo bản tính tự nhiên vốn có của mình; hai là, thuận theo lẽ tự
nhiên mà làm, không làm gì trái với tự nhiên và ba là, làm cho mọi vật đều được
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 8
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
tự do, bình đẳng sống, hành động theo đúng bản tính, khả năng, sở thích tự nhiên
của chúng. [3]
Trên cơ sở thuyết “vô vi”, Trang Tử phản đối quan điểm tự do và bình
đẳng thông thường, đó là sự tự do, bình đẳng trong khuôn khổ của pháp luật, luân
lý, giáo dục Cơ sở của tự do, bình đẳng ở Trang Tử là mọi vật đều được tự do
sống theo chính bản thân tính tự nhiên của mình, không bị ràng buộc bởi các tiêu
chuẩn do xã hội đề ra. Trên cơ sở tự do, bình đẳng này mà con người có được
hạnh phúc tuyệt đối.
Xuất phát từ học thuyết “vô vi”, Trang Tử đã trình bày những vấn đề
chính trị – xã hội của mình. Tuyệt đối hóa mặt tự nhiên của con người, Trang Tử
đã xem thường vai trò, sức mạnh cải tạo xã hội của con người, phủ nhận mọi
hoạt động thực tiễn xã hội. Tôn trọng bản tính tự nhiên của mỗi người mỗi vật,
phủ nhận mọi thể chế, luật lệ, quy tắc đạo đức, Trang Tử kịch liệt phản đối việc
con người dùng sức lực áp chế, uốn nắn tự nhiên. Mọi hình thức nhân tạo như
pháp luật, chính trị, đạo đức đều chỉ san bằng mọi dị biệt, cá tính, xâm phạm bản
tính tự nhiên vốn có của mỗi người mỗi vật, gò ép chúng vào một khuổn chung
qua sự cắt xén, gọt giũa trái với tự nhiên. Đó là “lấy người để diệt trời”, tất yếu
sẽ dẫn đến kết quả tai hại, mặc dù đó là ý muốn tốt. Ông đòi hỏi phải tôn trọng
chỗ khác nhau của mọi vật, thuận theo bản tính tự nhiên của chúng, mọi vật tự do
sống theo khả năng, sở thích của mình thì thiên hạ sẽ yên bình.
Vậy theo Trang Tử, để trị thiên hạ thì không cần phải làm gì cả, tự nhiên
mà hóa. Mẫu mực xã hội ở ông là một xã hội không thể chế, không pháp luật,

không luân lý, không đạo đức Đó là một xã hội thời tiền sử. Sự vọng cổ với
thái độ hoài nghi, yếm thế đã đẩy Trang Tử vào chủ nghĩa tự nhiên, vô chính
phủ: “Ta nghe nói khoan dung để thiên hạ tự tại, không nghe nói trị thiên hạ vậy.
Để tự tại thì sợ thiên hạ loạn mất tính, khoan dung thì sợ thiên hạ loạn mất cái
đức. Thiên hạ không loạn tính, không rời cái đức thì thiên hạ trị vậy” (Nam Hoa
kinh, thiên Tại hựu).
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 9
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
CHƯƠNG II: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
CỦA TRƯỜNG PHÁI ĐẠO GIA
1. Những giá trị của trường phái đạo gia
Quan niệm về đạo và đức của trường phái Đạo gia thể hiện một trình độ
khái quát cao của tư duy biện chứng khi giải quyết vấn đề bản nguyên thế giới.
Tuy nhiên phần quý giá nhất trong triết học của Lão Tử là phép biện chứng chất
phác. Trên cơ sở nhận thức về tính chất “phác” của Đạo, Lão Tử đã cố gắng giải
thích nguyên nhân sâu xa về sự bất ổn của xã hội và sự tha hóa của con người.
Trong khi các học thuyết khác cùng thời tìm nguyên nhân loạn lạc bất ổn của xã
hội từ các vấn đề xã hội như tại vua không ra vua (không như Nghiêu, Thuấn),
không trọng sự giáo dục bằng lễ nhạc (Khổng) hoặc không biết yêu người khác
như yên bản thân (Mặc)… Nghĩa là các học thuyết này chỉ tìm tác nhân tác động
đến con người từ xã hội vì con người với họ chỉ là con người xã hội còn Lão Tử
thì lại xác định một nguyên nhân khác hẳn, ông cho rằng xã hội loạn lạc là vì con
người mỗi ngày một xa Đạo, không sống thuận theo Đạo tức không thuận tự
nhiên, đánh mất sự chất phác, quá nhiều dục vọng, càng thông minh càng nhiều
dục vọng, càng xảo trá, tranh giành nhau, chém giết nhau. Từ thuyết vô vi, Lão
Tử đã rút ra nghệ thuật sống dành cho con người là từ ái, cần kiệm, khiêm
nhường, khoan dung. Đạo giáo chủ trương khuyên điều thiện để mong giữ vững
nhân tâm theo điều thiện và duy trì phong hoá trong những thời buổi hoang
mang, làm cho con người sống cao đẹp hơn.
Chính dựa trên quan điểm chất phác, điềm đạm và tự nhiên đó, Lão Tử

mới nêu ra “ngũ sắc linh nhân mục manh, ngũ âm linh nhân nhĩ lung“ (năm màu
khiến người ta tối mắt, năm âm khiến người ta chói tai) và “mỹ ngôn bất tín, tín
ngôn bất mỹ; thiện giả bất biện, biện giả bất thiện“ (lời đẹp thì không thực, lời
thực thì không đẹp; người thiện không tranh biện, người tranh biện thì không
thiện). Những mệnh đề dường như có phần cực đoan này đều có ảnh hưởng rất
lớn đến văn học nghệ thuật và tư tưởng học thuật Trung Quốc và phương Đông.
Xét trên một ý nghĩa nào đó, có thể nói quan điểm “kiến tố bão phác“ và “mỹ
ngôn bất tín“ của Lão Tử cùng với mệnh đề “phác tố nhi thiên hạ mạc năng dữ
chi tranh mỹ“ (chất phác mộc mạc mà dưới gầm trời chẳng có gì có thể đẹp hơn)
của Trang Tử đã đúc nên cái phẩm chất mỹ học chất phác, thanh đạm, tự nhiên,
thuần chân của văn hóa Trung Hoa. [6]
Ngoài ra với tư tưởng về mâu thuẫn biện chứng đã đạt tới trình độ khá sâu
sắc và trở thành cốt lõi trong phép biện chứng của Lão Tử, ông đã chỉ ra được
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 10
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
bản chất thực sự của mọi sự mâu thuẫn – đó là mối quan hệ biện chứng giữa
động và tĩnh giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Vì mối quan hệ
biện chứng của các mặt đối lập chính là nguồn gốc của mọi sự vận động, biến
đổi.
Triết lý duy tự nhiên của Lão Tử với năm điểm chính phản phục, hư tĩnh,
vô vi, khiêm nhu, bất tranh được hậu thế lưu giữ như một giấc mơ an lạc đã mất
trong nền văn minh cơ khí, phát triển kinh tế và nhịp sống xô bồ của nhân loại
sau ông hơn hai ngàn năm. Tiểu quốc của Lão Tử đầy vẻ ảo tưởng không kém
Utopia của Plato, nhưng giấc mộng an lạc và thuần phác của nó vẫn ám ảnh
người công dân hiện đại, nhất là những lúc quốc gia chẳng may không có được
giới lãnh đạo xứng đáng.
Lão Tử là người sớm nhận thấy sự tha hóa về đạo đức của con người khi
xã hội chuyển từ giai đoạn nguyên thủy sang giai đoạn có tư hữu. Mong ước của
ông về việc trở lại tính thánh thiện của đạo đức con người như không tham lam
(vô dục), không tranh giành (bất tranh), không xảo quyệt của thời kỳ nguyên thủy

lại là mong ước muôn thuở về tính nhân bản của nhân loại.
Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều về những giá trị của triết học Lão Trang,
tuy nhiên không thể phủ nhận triết học Lão Trang đã cố gắng tìm kiếm lời giải
cho bài toán tư tưởng trong thời đại của mình, hướng tới mục đích cao đẹp là
mưu cầu một xã hội hòa bình, không chiến tranh và một cuộc sống an lạc hạnh
phúc cho người dân.
2. Những hạn chế của trường phái đạo gia
Với lý luận về đạo và đức, Lão Tử đã cố gắng tìm ra tính quy luật khách
quan của vạn vật vận động và biến hóa, dạy mọi người phải hành động theo quy
luật tự nhiên. Nhưng ông lại cho rằng con người chỉ có thể thích ứng với quy luật
tự nhiên một cách bị động, đứng trước tự nhiên, con người không cần làm gì cả.
Mặc dù Lão Tử đã chỉ ra được bản chất thực sự của mọi sự mâu thuẫn –
đó là mối quan hệ biện chứng giữa động và tĩnh giữa thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập, vì mối quan hệ biện chứng của các mặt đối lập chính là nguồn
gốc của mọi sự vận động, biến đổi, nhưng các mặt đối lập trong các sự vật, hiện
tượng có thể chuyển hoá cho nhau. Theo ông một sự vật trong một chu kì phát
triển đến cực điểm, chúng sẽ chuyển thành mặt đối lập với chính nó. Như vậy
chính hai luật phổ biến trong Đạo đã làm cho phép biện chứng của Lão Tử mất
sinh khí và có tính chất máy móc, lặp đi lặp lại có tính chất tuần hoàn. Phép biện
chứng của Lão Tử mang tính chất máy móc, đơn giản. Vạn vật chỉ vận động tuần
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 11
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
hoàn, lặp đi lặp lại một cách buồn tẻ mà không có sự ra đời của cái mới, nghĩa là
không có sự phát triển.
Ngoài ra, với chủ trương quay trở lại thời kỳ xã hội nguyên thủy, Lão Tử
đã đem tự nhiên đối lập với văn minh và đối lập với sự phát triển tiến hóa của xã
hội loài người để từ đó muốn xóa bỏ văn minh, muốn giữ xã hội ở trạng thái
nguyên thủy. Tuy nhiên ông không biết rằng nếu với tự nhiên sự vận động phát
triển là “tự hóa” là khách quan thì với xã hội loài người sự vận động phát triển
cũng là “tự hóa” và khách quan. Sự phát triển của xã hội loài người từ khi chưa

có tư hữu, chưa có phân hóa giai cấp (thời kỳ nguyên thủy) và con người còn “vô
dục” (vì chưa có cơ sở để hữu dục) đến thời kỳ có tư hữu có phân hóa giai cấp và
có ý thức hữu dục, cũng như sự xuất hiện các thành tựu văn hóa văn minh, mỹ
thuật, nghệ thuật cũng là sự phát triển khách quan không phụ thuộc vào ý muốn
của con người [7]. Trực cảm thiên tài đã giúp Lão Tử cảm nhận được một số yếu
tố biện chứng trong tự nhiên nhưng hạn chế thời đại lại khiến ông không thể có
hiểu biết đúng đắn về biện chứng lịch sử và do đó khi phê phán về khuyết điểm
này của triết học Lão Tử chúng ta nên đứng ở thời đại của ông để đánh giá.
Còn đối với Trang Tử, ông đã xem xét vũ trụ, tự nhiên bằng quan điểm
biện chứng, mà nổi bật là tư tưởng về sự vận động, biến hóa không ngừng của
thế giới, người cùng với tạo hóa hợp làm một, mọi vật đều vận động theo một
quy luật tất yếu, bất di bất dịch như một vòng tròn lưu chuyển vô cùng tận, dưới
sự tác động của Đạo. Tuy nhiên, Trang Tử lại tuyệt đối hóa sự vận động, biến đổi
để tất cả chỉ là tương đối, và chính chủ nghĩa tương đối ở ông đã xóa nhòa mọi
mâu thuẫn, mọi mặt đối lập. Xóa nhòa mọi mặt đối lập tương phản trong sự vật,
cũng như giữa các sự vật, không còn phân biệt vật ta, phải trái, tốt xấu, sống chết,
Trang Tử đã bỏ mất cái sinh động của phép biện chứng, không tìm thấy động lực
thực sự của sự vận động biến đổi. Đồng nhất cái chung và cái riêng, nội dung và
hình thức, vận động và đứng im, Trang Tử đã đi từ phép biện chứng đến chủ
nghĩa chiết trung, ngụy biện.
Theo Trang Tử, con người là sản phẩm của tự nhiên. Con người cũng như
vạn vật đều chứa đựng “đạo” như là cái bản chất quy định con người, là “tính”
hoặc “lý tự nhiên”. “Tính” là cái biểu hiện của “đạo” ở trong mỗi con người,
chúng hoàn toàn giống nhau, nhưng do “đạo” là cái luôn biến đổi mà tính biểu
hiện lại hết sức khác nhau ở mỗi người. Vượt lên trên tất cả các dị biệt đó thì
người và vật đều chỉ là một. Thực chất Trang Tử đã đề cao và tuyệt đối hóa mặt
tự nhiên của con người, xem xét con người tách hẳn với xã hội hay đối lập hoàn
toàn với xã hội. Biến con người thành một thực thể riêng biệt, khép kín, phủ nhận
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 12
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21

mặt xã hội của con người, đồng nhất họ với tự nhiên. Khi đề cao bản chất tự
nhiên của con người, Trang Tử đã hạ thấp con người, đánh đồng con người có ý
thức với muôn vật vô tri vô giác. Quan điểm đó của ông đã thể hiện khuynh
hướng đồng nhất tự nhiên và xã hội. Trong khi chống lại tư tưởng của phái Nho
gia, ông phủ nhận luôn cả những hoạt động thực tiễn xã hội và vai trò của nó
trong việc hình thành con người với tư cách là chủ thể chinh phục tự nhiên và
phủ nhận luôn mọi giá trị đạo đức, tiến bộ xã hội.
Trang Tử cho rằng nếu chỉ bằng nhận thức lý trí thông thường thì con
người không thể đạt tới “đạo”, hòa làm một với “đạo” được. Trí tuệ con người
bất lực trước “đạo” và nếu cố gắng thì nó chỉ dừng lại ở mức tương đối mà thôi.
Quá tin vào trí tuệ con người, đó là đều lầm lẫn và nguy hại. Nó không những
chẳng nhận thức được gì hơn, mà chỉ làm sự hiểu biết đó mờ tối đi vì thiên kiến.
Như vậy, Trang Tử đã hạ thấp nhận thức lý tính ở con người, giới hạn khả năng
của nó và ông khuyên cái biết bằng lý trí của con người nên “dừng ở chỗ mình
không biết là rất mực rồi” (Nam Hoa kinh, Tề vật luận). Ông cho rằng cố công
giải thích cái lý lẽ cao siêu về “đạo” chỉ là vô ích mà thôi. Đấy không phải là
công việc của bậc đại trí, chân nhân. Ông đề cao trực giác siêu nghiệm, đồng
nhất và hòa tan chủ thể nhận thức đối với đối tượng nhận thức, và ngay khi tuyệt
đối hóa tính chất của bản thể tối hậu, tách nó ra khỏi mọi sự liên hệ, ông đã bước
sang chủ nghĩa duy tâm thần bí.
Mặc dù cách sống dửng dưng, thoát tục, vị ngã của trường phái Đạo gia là
một phản ứng tiêu cực trước sự bế tắc của thời cuộc bấy giờ nhưng nó lại phù
hợp với quan niệm nhân sinh của nhiều người lúc bấy giờ, nhất là tầng lớp quý
tộc sa sút trong cuộc chiến triền miên, vì vậy trường phái Đạo gia vẫn được nhiều
người ủng hộ và tin theo.
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 13
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
KẾT LUẬN
Với tư tưởng hết sức đặc sắc về Đạo về phép biện chứng chất phác cũng
như về quan điểm “vô vi”, triết học Đạo gia thực sự trở thành viên ngọc quý của

nền triết học phương Đông.
Tuy nhiên Đạo gia là một học thuyết nhiều mâu thuẫn. Xuất phát từ một
thế giới quan có vẻ duy vật, nó lại bao hàm rất nhiều yếu tố duy tâm và thần bí,
do đó dẫn đến một luận lý quan và một xã hội quan cũng đầy mâu thuẫn. Thái độ
đồng tình đối với thân phận của nhân dân nghèo khổ cùng thái độ thù địch đối
với trật tự xã hội đương thời và giai cấp áp bức đặt học thuyết của Đạo gia vào
dòng tư tưởng tiến bộ, nhưng chủ trương theo phép tắc tự nhiên bằng thái độ vô
vi lại dẫn học thuyết này đến những kết luận lạc hậu và phản động. Mong muốn
cứu đời nhưng lại phủ nhận sách trơn mọi hoạt động thực tiễn của con người để
cuối cùng tìm đến quyền lực, sức mạnh của tự nhiên – Đạo, và tuyệt đối hóa nó
để biến thành sức mạnh siêu nhiên thần bí.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với mức độ thức tỉnh của
con người về quyền tư hữu. Có thể nói đó là một sự thức tỉnh đầy tính ích kỷ và
mâu thuẫn. Ý thức tư hữu thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển với bước nhảy
vọt tuy nhiên cũng gây ra những bi kịch lớn cho đời sống tâm hồn của con người,
đặc biệt là sự tha hóa đạo đức do tư hữu mang lại. Làm sao để phát triển được mà
không bị tha hóa đạo đức là một câu hỏi được đặt ra từ thời đại của Lão Tử đến
ngày nay vẫn giữ nguyên tính thời sự. Lão Tử đã đúng khi nói rằng con người
của thời kỳ tư hữu đã rời xa sự chất phác và trở nên hữu dục nhưng ông đã không
nhìn ra được nguyên nhân gây ra sự tha hóa đó là do sự ra đời của tư hữu và phân
hóa giai cấp và lại càng không thể hiểu rằng dù đau đớn như vậy nhưng đó vẫn là
con đường phát triển tất yếu của xã hội loài người. Sự tha hóa ấy có lẽ sẽ được
giải quyết ở một xã hội trở về vòng xoáy không tư hữu nhưng ở một trình độ rất
cao của lực lượng sản xuất. Ở đó văn minh vẫn được thúc đẩy phát triển mạnh
mẽ để đảm bảo cho sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, và văn minh không
thể bị xóa bỏ để quay lại xã hội nguyên thủy như chủ trương của Lão Tử.
Thời đại của Lão Tử và Trang Tử đã cách xa hàng ngàn năm nhưng những
tư tưởng triết học về con người của họ vẫn sáng lấp lánh ánh sáng bí ẩn và vẫn
gợi mở những suy ngẫm khám phá. Những tư tưởng này vẫn luôn mới mẻ và bổ
ích cho các hoạt động của chúng ta trong thực tại và tương lai.

Học viên: Hứa Hán Cường Trang 14
Tư tưởng triết học Đạo gia – giá trị và hạn chế Cao học Kinh tế – K.21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bùi Văn Mưa (chủ biên), Triết học phần I Đại cương về lịch sử triết học,
Trường Đại học Kinh tế TPHCM, TPHCM, 2011, trang 64 – 69.
[2]. />[3]. Doãn Chính – Trương Văn Chung – Nguyễn Thế Nghĩa – Vũ Tình, Đạo gia
và Lão Tử, Thư viện Giáo án điện tử (tham khảo tại địa chỉ website
/>[4]. />[5]. Trần Thị Huyền, Hướng dẫn học lịch sử triết học phương Đông, Đai học
Huế, Huế, 2007, trang 42 – 48 và trang 51 – 57 (tham khảo tại địa chỉ
website />[6]. Phan Văn Các, Đạo của Lão Tử với tư tưởng học thuật Trung Quốc và
phương Đông, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 2 – 1999, trang 26 – 31.
[7]. Lê Hồng Giang, Về vấn đề con người và xã hội con người trong triết học Lão
Tử, Tạp chí Phát triển KH&CN, tập 12, số 01-2009, trang 39 – 46.
Học viên: Hứa Hán Cường Trang 15

×