Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận Triết họcCHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.32 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
****
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI NHÓM 6:
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
NGƯỜI THỰC HIỆN: PHẠM THỊ NGỌC HẠNH
STT: 53
LỚP CAO HỌC: KHÓA 21-ĐÊM 5
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
TP.HCM, 2012
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 – NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM
KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời 2
II. Những tư tưởng cơ bản 2
1. Tư tưởng của Xôcrát 2
2. Tư tưởng của Platông 3
CHƯƠNG 2 – NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY
TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Những giá trị 8
II. Những hạn chế 10
KẾT LUẬN 12
CHÚ THÍCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 3
SVTH: Phạm Thị Ngọc Hạnh Lớp Cao học: K21-Đêm 5
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
PHẦN MỞ ĐẦU
Hy Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, là thời kì


phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Hy Lạp cổ đại không chỉ là một trung tâm
kinh tế - xã hội mà còn là một trung tâm văn hoá. Thời kì cổ đại ở đây đã tích trữ
được một khối lượng tri thức khổng lồ trên nhiều lĩnh vực: toán học, vật lý, thiên
văn học, thuỷ văn đặc biệt không thể không nhắc tới chính là triết học. Triết
học thời kì này được đánh giá là rất phát triển, với những cái tên hết sức nổi
tiếng: Acsimét, Talét, Hêraclit, Đêmocrit, Platông, Arixtốt… chính các đại biểu
này đã tạo lên một nền triết học phát triển rực rỡ mà ngày nay chúng ta đã được
thừa hưởng.
Nổi bật trong đó phải nói đến triết gia vĩ đại Platông. Trước đó, triết học có
rất nhiều trường phái xuất hiện nhưng chúng xuất hiện một cách phi tập trung
hóa. Triết học Platông là sự phản kháng đầu tiên chống lại xu hướng phi – tập
trung hoá của văn hoá, và bản thân Platông là người cha đỡ đầu cho mọi thứ
“triết học – hệ thống” về sau. Cùng với Xôcrát [Socrate (469 – 399 TCN)],
Platông [Platon (427 – 347 TCN)] đã để lại cho hậu thế những tư tưởng bất hủ về
tư tưởng chủ nghĩa duy tâm khách quan. Karl Jaspers, một triết gia Đức, đã cho
rằng toàn bộ triết học Tây Phương chỉ là những dòng cước chú dưới những trang
sách của Platông. Chính vì vậy, tác giả đã chọn trường phái này để tìm hiểu sâu
hơn nhằm trang bị kiến thức cho bản thân.
Thông qua việc tiến hành nghiên cứu, tham khảo một số quyển sách và một
số trang web, tài liệu khác, tiểu luận này nhằm mục đích tóm tắt, cô đọng lại
những tư tưởng của hai triết gia Xôcrát và Platông; cũng như đóng góp một số
giá trị và hạn chế mà bản thân tác giả nhận ra trong quá trình nghiên cứu chủ
nghĩa duy tâm khách quan.
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
1
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG I: NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY
TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa duy tâm khách quan
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu

dài và sâu sắc các quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu tiên
trong lịch sử-chế độ chiếm hữu nô lệ. Như Ăng-ghen nói: “nếu không có chế độ
nô lệ, thì cũng không có nhà nước Hy Lạp, không có khoa học và nghệ thuật Hy
Lạp”.
Trường phái triết học duy tâm khách quan được hình thành trong giai
đoạn chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển đến hình thức cao và cũng là thời kỳ phồn
vinh của triết học cổ đại Hy Lạp. Thời kỳ này, đối tượng nghiên cứu của triết học
được mở rộng sang các vấn đề về kết cấu của vật chất, nhận thức luận và đời
sống chính trị. Trong đó, kết cấu của vật chất là vấn đề trung tâm của nhiều
trường phái triết học. Platông là người đầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh
đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thế giới quan duy vật.
Ông đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật đặc biệt là chống
lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Hêraclit, Đêmôcrit.
II. Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy tâm khách quan
Trường phái duy tâm khách quan thể hiện lập trường chính trị của tầng
lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Athen và hệ thống triết học duy vật của
trường phái nguyên tử luận. Trường phái này do Xôcrát đặt nền móng và Platông
- học trò của ông hoàn thiện.
1. Tư tưởng của Xôcrát :
Xôcrát xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Ông hướng về chính
thể chủ nô quý tộc chống lại chủ nô dân chủ. Ông không viết một tác phẩm nào,
chúng ta chỉ biết về ông chủ yếu qua các tác phẩm của Platông và Arixtốt
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
2
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
[Aristotle (384 – 322 TCN)]. Ông là nhà triết học “đối thoại” vì đối với ông, chỉ
có văn nói mới sống động, còn những gì người ta viết ra thì đã bị khô cứng
Xôcrát không hướng về nghiên cứu tự nhiên. Ông dành phần lớn công sức
nghiên cứu triết học về nhân bản, về con người và về đạo đức vì theo ông con
người không có khả năng khám phá được sự sáng tạo của giới tự nhiên và không

thể cải đổi được giới tự nhiên mà thần thánh đã an bài.
Nhận thức luận của ông chủ yếu là thể hiện qua đạo đức của con người.
Đạo đức học của ông mang tính chất duy lý, ông thừa nhận Đạo Đức và Tri Thức
thống nhất là một “Mỗi điều thiện đó là tri thức và mỗi điều ác đó là sự dốt nát”,
mỗi hành vi vô đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát của chúng ta. Ông cho rằng
chỉ có cái thiện phổ biến mới là cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh,
muốn tuân thủ theo cái thiện thì phải nắm bắt được nó, hiểu nó, muốn hiểu được
nó phải thông qua các cuộc tranh luận, tọa đàm, luận chiến tìm ra chân lý hay
phương pháp Xôcrát. Phương pháp này gồm 4 bước sau:
Một là “mỉa mai” tức nêu lên những câu hỏi mẹo, hỏi vặn, hỏi châm biếm
sao cho đối phương tự thấy mâu thuẩn với ý kiến của mình.
Hai là “ đỡ đẻ “ tức là giúp đỡ đối phương thấy được con đường để tự
mình khám phá ra chân lý.
Ba là “ quy nạp” tức là từ những cái riêng lẻ khái quát lên thành những
hiểu biết phổ biến, từ những hành vi đạo đức cụ thể, riêng lẻ khái quát lên thành
cái thiện phổ biến của mọi hành vi đạo đức.
Bốn là “định nghĩa “ tức là chỉ ra những hành vi nào là Đạo Đức, quan hệ
thế nào là đúng mực.
2. Tư tưởng của Platông:
Platông (427-347 TCN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô quý tộc ở
thành phố Athen, là nhà triết học duy tâm khách quan. Platông đã xây dựng chủ
nghĩa duy tâm khách quan có nội dung chính là thuyết ý niệm với giá trị bên
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
3
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
trong là phép biện chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo
đức- chính trị- xã hội. Học thuyết triết học của ông dựa trên tiền đề lý luận về cái
phổ biến của Xôcrát, lý luận về tồn tại duy nhất bất biến của trường phái Êlê và
lý luận về con số của phái Pitago. Platông la người xây dựng Viện hàn lâm Athen
và viết nhiều tác phẩm như: Biện hộ cho Xôcrát, Đối thoại, Bữa tiệc, Chế độ

cộng hòa, Luật pháp…

Thuyết ý niệm :
Platông chia thế giới làm hai loại: thế giới ý niệm (là thế giới tồn tại chân
thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối, là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm
tính) và thế giới của các sự vật cảm tính (là thế giới tồn tại không chân thực,
thường xuyên biến đổi, phụ thuộc vào thế giới ý niệm, do các ý niệm sản sinh
ra). Theo ông, thế giới ý niệm là nguyên mẫu, nó có trước và thế giới vật chất là
cái được sinh ra, nó là thế giới cảm tính. Thế giới vật chất chẳng qua là cái bóng,
là sự mô phỏng, bắt chước thế giới ý niệm, thế giới ý niệm quyết định thế giới
vật chất, không có thế giới ý niệm thì không có thế giới vật chất. Ông lý giải sự
sinh thành thế giới sự vật xảy ra gắn liền với bốn yếu tố cơ bản là tồn tại (ý
niệm), không tồn tại ( vật chất), con số ( quan hệ tỷ lệ), sự vật cảm tính. Chính sự
tồn tại của ý niệm thông qua các tỷ lệ của các con số tác động vào sự không tồn
tại của vật chất sinh ra sự vật cảm tính.
Các ý niệm, theo cách hiểu của Platông, là các khái niệm, tri thức đã được
khách quan hoá, chúng tồn tại mãi mãi từ xưa đến nay. Thế giới ý niệm là vĩnh
viễn, bất biến, không phân chia được và chỉ được nhận thức duy nhất bằng lý
tính. Ông cho rằng thế giới ý niệm có vô vàn ý niệm, trong số tất cả các ý niệm
thì ý niệm phúc lợi là cao nhất - nó là ý niệm của các ý niệm. Theo Platông, vật
chất nói chung cũng tồn tại vĩnh viễn, nó là căn nguyên tạo ra chất liệu cụ thể của
mỗi sự vật, làm cho chúng đa dạng, biến đổi không ngừng; các ý niệm là bản
chất chung của mọi sự vật, là cơ sở thống nhất toàn vũ trụ, là linh hồn đem lại
sinh khí cho toàn vũ trụ; còn các con số là một dạng bản chất độc lập đặc biệt
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
4
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
chiếm vị trí trung gian ở giữa ý niệm và sự vật cảm tính, sự khác nhau giữa các
sự vật là do khác nhau về quan hệ toán học, do những con số quyết định.


Quan niệm về con người và linh hồn :
Ông cho rằng con người là sự kết hợp của thể xác khả tử (được cấu thành
từ đất, nước, lửa và không khí, là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn) và linh hồn
bất tử. Linh hồn con người là sản phẩm của linh hồn vũ trụ được Thượng đế tạo
ra từ lâu; chúng ngự trị trên các vì sao, sau đó dung cánh bay xuống nhập vào thể
xác của con người và quên hết toàn bộ quá khứ. Linh hồn con người gồm ba bộ
phận là cảm giác, ý chí và lý trí trú ngụ tạm thời tương ứng với ba chỗ trong cơ
thể con người là từ rốn trở xuống, trong lòng ngực và trong đầu óc. Chúng hoạt
động theo ba khiá cạnh tương ứng là dục vọng, tình cảm và nhận thức; thể hiện
ba phẩm hạnh là điều độ, can đảm và khôn ngoan. Trong đó, chỉ có lý trí là bất
tử. Hoạt động cơ bản của con người là nhận thức.

Quan điểm về nhận thức :
Platông cho rằng, nhận thức cảm tính không phải là nguồn gốc của tri thức
chân thực, mà tri thức chân thực - nhận thức ý niệm - chỉ có thể đạt được bằng
nhận thức lý tính và thể hiện trong khái niệm. Theo ông, mọi tri thức phải có tính
khái quát cao. Sự nhận thức của con người không phải là sự phản ánh thế giới vật
chất mà là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử, hồi tưởng lại những gì mà linh hồn
bất tử đã quên đi khi nằm trong thế giới ý niệm. Nhận thức chân lý là khám phá
ra ý niệm tồn tại sẵn trong linh hồn con người (lý tính). Đó là nhiệm vụ dành
riêng cho tư duy lý luận thuần túy. Nhận thức chân lý hoàn toàn diễn ra bên
ngoài hoạt động cảm tính, vì hoạt động cảm tính chỉ mang lại kiến giải sai lầm về
thế giới sự vật.

Quan điểm về đạo đức:
Xuất phát từ đạo đức học duy lý, Platông cho rằng, sống hạnh phúc là
sống có đạo đức. Sống có đạo đức la làm điều thiện. Hành vi hướng thiện là hành
vi không dựa trên khoái lạc, lợi thú chủ quan mà là hướng đến những ý tưởng
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
5

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
tuyệt đối khách quan thuộc về thế giới ý niệm ở trên trời. Con người chỉ nhận
thức được những ý tưởng này bằng lý trí. Theo Platông, con người muốn sống
hạnh phúc phải dùng lý trí để chiêm nghiệm những ý tưởng và khắc phục những
dục vọng vật chất thấp hèn, giúp linh hồn thoát khỏi cùm gông của nhà tù thể
xác. Dục vọng phải phục tùng trái tim, trái tim phải làm theo khối óc là điều kiện
tiên quyết để sống hạnh phúc Như vậy theo Platông, con người không thể tìm
thấy hạnh phúc cho riêng mình ở xung quanh mình, dưới trần gian, con người chỉ
có thể đạt được hạnh phúc trong thế giới ý niệm, ở trên trời, sau khi chết. Quan
niệm về đạo đức đầy tính chất duy tâm thần bí của Platông là cơ sở cho nền đạo
đức Thiên chúa giáo sau này.

Quan điểm về chính trị - xã hội:
Do ba bộ phận cấu thành linh hồn của con người cụ thể là không giống
nhau nên xã hội có ba loại người. Thứ nhất là triết gia- những người mà bộ phận
lý trí trong linh hồn con người đóng vai trò chủ đạo, có nhận thức sáng suốt và
đạo đức cao cả; Thượng đế sinh ra họ để họ lãnh đạo xã hội. Loại thứ hai gồm
các chiến binh – những người mà bộ phận ý chí trong linh hồn họ đóng vai trò
chủ đạo; họ tràn đầy lòng dũng cảm và sự gan dạ; Thượng đế sinh ra họ để họ
bảo vệ xã hội. Loại thứ ba bao gồm nông dân, thợ thủ công, thương gia…- những
người có bộ phận cảm xúc chi phối chủ đạo linh hồn họ; họ thích nghi với lao
động chân tay và đam mê của cải vật chất; Thượng đế sinh ra họ để họ đảm bảo
đời sống vật chất cho xã hội. Platông cho rằng nô lệ không là con người mà là
động vật biết nói và không có lý trí. Vì vậy nô lệ không biết nhận thức. Do không
nhận thức nên không có đời sống đạo đức và do đó nằm ngoài vòng chính trị, họ
không có một quyền nào khác ngoài quyền được tự do làm nô lệ cho người khác.
Nhà nước đảm bảo cho sự phân công trên được thực hiện. Tuy nhiên, chế độ sở
hữu tư nhân đã làm cho nhà nước bị tha hóa, gây ra sự băng hoại đời sống đạo
đức, phá hoại tính hài hòa của xã hội.
Platông đã xây dựng học thuyết lý tưởng trên cơ sở học thuyết về linh hồn

và học thuyết ý niệm, học thuyết đạo đức. Theo ông, đã có ba hình thái nhà nước
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
6
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
đã tồn tại trước đó và đều xấu xa, tồi tệ. Trong đó hình thái nhà nước quân chủ
được xây dựng và duy trì trên cơ sở làm giàu đến vô độ và cách thức hoạt động
chủ yếu của nó là ăn cướp và đàn áp; hình thái nhà nước quân phiệt cũng hoạt
động chủ yếu là ăn cướp, bóc lột và xâm lược; hình thái nhà nước dân chủ là hình
thái xấu xa, tồi tệ nhất vì quyền lực của nhà nước thuộc về số đông. Theo ông,
thể chế nhà nước lý tưởng nhất là nhà nước cộng hoà quý tộc, do một vị vua là
triết gia tài ba nhất lãnh đạo, thực hành công hữu.
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
7
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG II: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA
DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Những giá trị:
1. Thực hiện đơn đặt hàng của lịch sử
Chủ nghĩa duy tâm khách quan của Xôcrát và Platông đã chống đối và
làm sụp đổ trường phái ngụy biện do Prôtagôrát (485 – 410 TCN) sáng lập,
Giorơgiát (487-380 TCN) phát triển. Phái ngụy biện cho rằng không có chân lý
khách quan mà chỉ có nhận thức chủ quan hoặc chủ nghĩa tương đối mà thôi. Hai
ông phản biện nếu chân lý và những điều tốt hay công lý chỉ mang tính tương đối
với ý nghĩ chợt nảy ra trong tâm trí của một con người thì tôn giáo, những nền
tảng đạo đức, nhà nước hay xã hội đều không thể duy trì được lâu dài.
2. Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử được đề cập trong triết học
Sự đóng góp của Xôcrát đã làm nên một bước chuyển mới: nền triết học
Hy Lạp cổ đại thay đổi từ nguyên lý vũ trụ sang nguyên lý nhân minh. Bắt đầu từ
Xôcrát, đề tài con người trở thành một trong những vấn đề trọng tâm nghiên cứu
của triết học Hy Lạp. Luận điểm nổi tiếng “hãy nhận thức chính mình” có ý

nghĩa xây dựng nên những khái niệm về chuẩn mực đạo đức chung của con
người. Đạo đức đòi hỏi biết ý thức về cái thiện và đức hạnh nói chung. Nó phải
trở thành khoa học về sự hoàn thiện phẩm chất con người. Con đường đi đến tri
thức cũng chính là con đường hoàn thiện nhân cách đạo đức của con người, con
đường hướng con người tới cái thiện và hạnh phúc. Để tôn vinh những giá trị của
tư tưởng Xôcrát đối với sự phát triển trong lịch sử, triết học Hy Lạp cũng đã lấy
ông làm tiêu chí để phân kỳ.
3. Thể hiện một số t ư tưởng tiến bộ về chính trị - xã hội
Platông thể hiện tư tưởng tiến bộ trong vấn đề nam nữ bình quyền. Theo
Platông, không có sự phân chia nam nữ nhất là trong giáo dục. Con gái cũng có
cơ hội học tập và vươn lên đỉnh cao chính trị như con trai. “Nếu một người đàn
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
8
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
bà tỏ ra có khả năng trong lãnh vực chính trị, hãy để cho bà ta làm chính trị. Nếu
một người đàn ông có khả năng rửa chén, hãy để cho ông ta rửa chén.” [2,17]
Platông chủ trương nhóm người lãnh đạo sẽ là những nhóm người ưu tú,
bất kể xuất thân. Nếu con vua chúa mà không có khả năng vẫn sẽ bị đào thải, nếu
con thứ dân mà học hỏi và tài năng vẫn sẽ có cơ hội vươn lên. “Đây là nền dân
chủ của học đường, một nền dân chủ trăm ngàn lần đẹp đẽ hơn nền dân chủ của
thùng phiếu.” [2,16]
4. Đóng góp cho triết học p hép biện chứng chất phác
Có lẽ đóng góp quan trọng nhất của Xôcrát cho tư tưởng phương Tây là
phương pháp truy vấn biện chứng, hay "phương pháp Xôcrát" còn gọi là phương
pháp “bác bỏ bằng logic” (elenchus). Ông đã áp dụng phương pháp này chủ yếu
cho việc kiểm nghiệm các khái niệm quan trọng về mặt đạo đức như Tốt đẹp và
Công bằng. Để giải quyết một vấn đề, ông dẫn dắt người đối thoại đến với chân
lý bằng tư duy logic, khả năng biện luận thuyết phục, có cơ sở, chứng cứ. Đó là
biện chứng của các khái niệm, hay biện chứng chủ quan [3,11] . Ngày nay, ảnh
hưởng của cách tiếp cận này có thể thấy rõ nhất ở việc sử dụng phương pháp

khoa học, mà bước đầu tiên là đặt ra giả thuyết. Sự phát triển và sử dụng phương
pháp này là một trong những đóng góp bền vững nhất của Xôcrát, đó là thành tố
chính trong việc đánh giá ông là cha đẻ của triết học chính trị, luân lý học, và là
người khởi đầu của các xu hướng chính trong triết học phương Tây
Các quan điểm triết học của Platông cũng chứa đựng nhiều yếu tổ biện
chứng. Bên cạnh việc kế thừa phương pháp đối thoại kiểu Xôcrát, Platông còn
thừa nhận sự vận động của thế giới mặc dù đó chỉ là vận động theo sự điều khiển
của ý niệm. Ngoài ra, thông qua các khái niệm đối lập và phương pháp đối chiếu
những mặt đối lập trong lý luận nhận thức của Platông cũng thể hiện tư duy biện
chứng chất phác trong tư tưởng của ông.
Ngoài ra, biện chứng của quá trình nhận thức thể hiện rõ nét trong các
luận chứng về sự cần thiết giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa vận động và
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
9
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
đứng im, hữu hạn và vô hạn, liên tục và giàn đoạn, tồn tại và hư vô…của hai ông
[3,23].
Tuy đứng trên lập trường duy tâm khách quan trong quan niệm về thế
giới, coi sự vật chỉ là cái bóng của ý niệm nhưng ông đã thực hiện một bước tiến
trong việc chuyển triết học từ tư duy ẩn dụ tới tư duy khái niệm, giải thích một
hiện tượng ở mức độ khái niệm, tư duy lý luận. Phép biện chứng về khái niệm đã
được Heghen vận dụng sau này.
5. Là động lực thúc đẩy nền toán học phát triển
Nhận thức luận, triết học toán học và tư tưởng giáo dục toán học của
Platông, dưới điều kiện xã hội Hy Lạp đương thời, đã có một tác dụng thúc đẩy
mạnh mẽ đối với sự phát triển của toán học. Ông chủ trương bồi dưỡng khả năng
tư duy lôgic thông qua môn hình học, bởi vì hình học mang lại cho con người ấn
tượng trực quan, thể hiện sự trừu tượng của quy luật lôgic trong các hình cụ thể.
Tư tưởng logic của ông đã mở ra con đường cho hệ thống lôgic chặt chẽ trong bộ
môn hình học sau này.

II. Những hạn chế:
1. Tư tưởng chính trị - xã hội của Platông chứa đầy tính tính bảo thủ và
mâu thuẫn.
Đầu tiên ông vừa đòi hỏi phải xóa bỏ tư hữu lại vừa đòi hỏi phải bảo vệ
cho bằng được chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi
phải xây dựng cho bằng được nhà nước cộng hòa lý tưởng; lại vừa ra sức bảo vệ
cho bằng được lợi ích và địa vị của tầng lớp chủ nô quí tộc chống lại nhà nước
dân chủ Athen [1, 109].
Kế tiếp, khi chủ trương một chế độ cộng sản ở giai cấp lãnh đạo, trong đó,
“tất cả những đứa con trai đều là anh em, tất cả những đứa con gái đều là chị em,
tất cả những người đàn ông đều là cha, tất cả những người đàn bà đều là mẹ”
[8,17]. Khi ấy, ông đã không tiên liệu được những bản tính tự nhiên của con
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
10
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
người như tính ghen tuông của đàn ông, đàn bà hay tình mẫu tử thiêng liêng. Và
như vậy, khi đả kích gia đình, ông đã vô tình phá vỡ nền móng của xã hội lý
tưởng mà ông sắp xây cất [8,21].
Platông cũng quá chú trọng vào phân chia giai cấp. Ông cho rằng các giai
cấp như thương nhân, nông dân và thợ thủ công là giai cấp sẽ chấp nhận sự cai trị
của giai cấp ưu tú và chu cấp, nâng đỡ giai cấp lãnh đạo. Ông đã tách biệt sự phụ
thuộc của giai cấp lãnh đạo với giai cấp kiểm soát lực lượng kinh tế [8,21].
Thuật chính trị của Platông thiếu sự mềm dẻo và tế nhị: “nó đề cao trật tự
mà không đề cao sự tự do” [8,22]. Ông đã phân loại con người thành những giai
cấp không khác gì nhà côn trùng học phân loại các côn trùng. Ông còn coi nô lệ
không phải là con người mà chỉ là động vật biết nói.
2. Quan điểm của Platông có một số điểm bất hợp lý khi quá đề cao vai
trò của tư duy.
Theo Arixtốt, ý niệm là cái tồn tại bên ngoài và độc lập với sự vật thì
không thể làm bản chất cho sự vật được, làm sao coi sự vật là cái bóng của ý

niệm. Ngoài ra, ý niệm là cái trừu tượng, phi cảm tính thì không thể làm khuôn
mẫu cho sự vật cảm tính được. Mặt khác, nếu ý niệm có trước và độc lập so với
sự vật là ngược đời vì như vậy ý niệm không thể dùng để nhận thức sự vật được.
Platông đã tách bản chất sự vật ra khỏi sự vật; biến cái chung thành cái riêng,
nằm bên trên, có trước và quyết định thế giới sự vật cảm tính. Khái niệm, qui
luật, phạm trù không phải cái có trước và quyết định sự tồn tại của sự vật mà
ngược lại, sự tồn tại của sự vật được phản ánh trong khái niệm, qui luật, phạm
trù của nhận thức. Đồng thời khi thừa nhận linh hồn bất tử biết hết mọi điều
trong thế giới ý niệm là ông đã khẳng định con người có khả năng nhận thức
hoàn toàn về thế giới. Platông cũng không thể giải thích được thế giới ý niệm đã
sản sinh ra thế giới tự nhiên bằng cách nào.
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
11
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
PHẦN KẾT LUẬN
Mặc dù chủ nghĩa duy tâm khách quan còn một số hạn chế, thiếu sót và
chưa chính xác nhưng không thể phủ nhận giá trị tư tưởng thời đại của nó mang
đến cho loài người bởi lẽ, không một luận điểm nào là tuyệt đối hoàn hảo cho tất
cả các chế độ. Ta càng trân trọng hơn khi những nhà duy tâm khách quan chủ
nghĩa dành cả chính cuộc đời mình trăn trở và kiếm tìm một mô hình tối ưu, lý
giải cho những hiện tượng trong xã hội Hy Lạp đương thời.
Bản thân tác giả cũng rút ra được nhiều bài học cho bản thân trong quá
trình nghiên cứu đề tài. Không chỉ nhận ra được mình có xu hướng hành động
theo quan niệm duy tâm trong khi nhận thức được sự đúng đắn và hợp lẽ của
quan niệm duy vật. Tác giả cũng phần nào ứng dụng phương pháp Xôcrát trong
quá trình thảo luận nhóm và trong hành động.
Tóm lại, những cống hiến của Xôcrát và Platông về phép biện chứng của ý
niệm, vai trò của ý thức xã hội trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá
nhân, triết học của hai ông thực sự tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm thời cổ đại.
Đúng như Mác nhận xét : “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”.

SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
12
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHÚ THÍCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] : Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo, Triết học tập 1, Hà Nội: Nhà xuất bản chính trị
quốc gia, 2011.
[2] : Bùi Văn Mưa, Trần Nguyên Ký, Lê Thanh Sinh, Nguyễn Ngọc Thu, Bùi Bá
Linh, Bùi Xuân Thanh, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học (tài
liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành
triết học của trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh), 2011.
[3] : Đinh Ngọc Thạch, Lịch sử triết học phương Tây (dùng cho học viên cao học
không thuộc chuyên ngành triết học của trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh), 2010.
[4] : Edward McNall Burns, Văn minh phương Tây - Lịch sử và văn hóa, NXB
Từ điển bách khoa, 2010.
[5] : Norman F.Cantor, Nền văn minh thế giới cổ đại (Kiến Văn và Khắc Vinh
biên dịch), NXB Lao Động Xã Hội, 2008.
[6] : Tô Mộng Vi, Tìm lại nền văn minh Hy Lạp cổ đại (Nguyễn Kim Dân biên
dịch), NXB Lao động, 2010.
[7] : Vũ Dương Minh, Lịch sử văn minh thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục Việt
Nam, 2011.
[8] : Will Durant, Câu chuyện triết học (Trí Hải và Bửu Đích biên dịch), NXB
Văn hóa thông tin, 2008.
[9]: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Minh Thái Tổ, tại
/>[10] : Phan Thị Cam, Cuộc đời và nội dung triết học của Platon, tại
/>dhoi-va-noi-dung-triet-hoc-cua-platon.
SVTH : Phạm Thị Ngọc Hạnh
13

×