Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.8 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài nhóm 6 :
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp
cổ đại và những giá trị, hạn chế của nó.

Sinh viên thực hiện : Dương Quang Hiếu
Giáo viên hướng dẫn: TS. Bùi Văn Mưa
STT : 57
Lớp : Đêm 5 – Khóa 21
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
TP. Hồ Chí Minh - tháng 1, 2012
SVTH: Dương Quang Hiếu 2 Lớp cao học: K21- Đêm 5
MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC 1
1
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời trong bối cảnh diễn ra sự chuyển biến lâu
dài và sâu sắc các mối quan hệ xã hội. Đó là sự ra đời của xã hội có giai cấp đầu
tiên trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ. Sự thuận lợi về thiên nhiên, địa lý đã
tạo điều kiện cho Hy Lạp nhanh chóng phát triển tất cả các lĩnh vực, mở rộng
bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Vì vậy, nơi đây đã hội tụ đầy đủ
những điều kiện để tư duy con người có dịp bay bổng, để thoả sức sáng tạo ra
những giá trị triết học có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng của
nhân loại.
Nền triết học Hy Lạp cổ đại có rất nhiều triết gia nổi bật như: Hêraclít,
Zenon, Đêmôcrít, Xôcrát, Platông, Arixtốt…Trong đó, hai triết gia đã có những
đóng góp quan trọng vào kho tàng triết học Hy Lạp cổ đại là Xôcrát [Socrate


(469 – 399 TCN)], Platông [Platon (427 – 347 TCN)]. Chủ nghĩa duy tâm khách
quan của hai ông đến nay vẫn còn nguyên giá trị cho nhân loại, tuy nhiên bên
cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế bên trong của nó.
Với phương pháp nghiên cứu là phương pháp lịch sử và đối chiếu, cùng
với việc tham khảo một số tài liệu: Đại cương về lịch sử triết học s– Bùi Văn
Mưa chủ biên, 2011; Triết lý Quốc Trị Tây Phương – Dương Thành Lợi, 1994;
Câu chuyện triết học - Trí Hải và Bửu Đích biên dịch; Lịch sử triết học phương
Tây – Đinh Ngọc Thạch, 2010; Tìm lại nền văn minh Hy Lạp cổ đại – Nguyễn
Kim Dân biên dịch, 2010; Ba mươi triết gia Triết gia Tây Phương – Nguyễn
Ước…cùng một số tài liệu khác. Bài tiểu luận này hy vọng đề cập phần nào đến
những tư tưởng, giá trị và những hạn chế của Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy
Lạp cổ đại.
Bài tiểu luận quy mô như một bài thu hoạch, các vấn đề được đề cập chỉ
mang tính khái quát, nên có thể chưa đầy đủ và chi tiết như độc giả mong muốn.
Rất mong nhận được sự đóng góp của quý độc giả để bài nghiên cứu được hoàn
thiện hơn.
SVTH: Dương Quang Hiếu 4 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ NHỮNG TƯ
TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH
QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI
Văn minh Hy Lạp cổ đại phát triển rất rực rỡ, nó phong phú trong các lãnh
vực kinh tế, xã hội, khoa học, văn học, nghệ thuật, và đặc biệt là về triết học.
Điều đó có thể giải thích bằng tính chất điển hình của chế độ chiếm hữu nô lệ ở
đây. Như Ăng-ghen nói: “nếu không có chế độ nô lệ, thì cũng không có nhà nước
Hy Lạp, không có khoa học và nghệ thuật Hy Lạp”.
Lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại có thể chia làm ba thời kỳ:
- Thời kỳ thứ nhất (thế kỷ VI TCN).
- Thời kỳ thứ hai (từ thế kỷ V TCN)

- Thời kỳ thứ ba (từ thế kỷ thứ III TCN)
Xuyên suốt ba thời kỳ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm mà đỉnh cao là cuộc đấu tranh giữa đường lối duy vật của Đê-mô-
crít và đường lối duy tâm của Platông.
Trường phái triết học duy tâm khách quan được xây dựng bởi Xôcrát và
Platông hình thành trong thời kỳ thứ hai của lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Đây
là thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển đến hình thức cao và cũng là thời kỳ
phồn vinh nhất của triết học cổ đại Hy Lạp. Thời kỳ này đối tượng nghiên cứu
của triết học được mở rộng sang các vấn đề về kết cấu của vật chất, nhận thức
luận và đời sống chính trị. Trường phái duy tâm khách quan thể hiện lập trường
chính trị của tầng lớp chủ nô bảo thủ chống lại nền dân chủ Athen và hệ thống
triết học duy vật của trưởng phái nguyên tử luận. [1, trang 105]
SVTH: Dương Quang Hiếu 5 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
II. NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN
1. Triết gia Xôcrát
1
:
Xôcrát khác với các nhà triết học khác, ông không hướng về nghiên cứu
giới tự nhiên. Ông dành phần lớn công sức nghiên cứu triết học về nhân bản, về
con người và về đạo đức, ông đã nói với các học trò rằng không nên đặt vấn đề
nghiên cứu tự nhiên, vì giới tự nhiên đã được thần thánh an bài cả rồi, nếu cố
công khám phá giới tự nhiên là xúc phạm đến thần thánh, thần thánh ở khắp mọi
nơi, có sức mạnh kỳ diệu, sáng tạo ra thế giới, có thể nhìn thấy tất cả, nhưng
không thích con người phát hiện ra mình. [9]
Do vậy Xôcrát cho rằng triết học không có gì khác hơn là sự nhận thức
của con người về chính bản thân mình, từ đây con người trở thành một trong
những chủ đề trọng tâm nghiên cứu về triết học. Xôcrát tìm cách khám phá ra các
chân lý chung cho con người trong các cuộc đàm thoại, theo ông để có cuộc đàm
thoại, những người tham gia cuộc đàm thoại phải có “ngôn ngữ chung” nhất

định, ngôn ngữ đó mang tính khách quan, nhờ đó con người mới khám phá ra
chân lý một cách đích thực mà ai cũng phải thừa nhận. Theo ông ý thức của con
người trong cuộc đàm thoại, ngoài yếu tố chủ quan, còn có một nội dung khách
quan, có tri thức phổ biến mang tính tổng quát. Đó là những tri thức chung mà
mỗi con người chúng ta có được bằng nỗ lực của mình. Xôcrát cho rằng tri thức
chung đó là chân lý khách quan thu được trong các cuộc đàm thoại mà ai cũng
phải thừa nhận. Nên ý kiến chủ quan của mỗi người không phải là tiêu chuẩn của
chân lý. Theo ông khám phá ra chân lý đích thực về bản chất sự vật tức là phải
hiểu nó có khái niệm. Nếu không có khái niệm xem như không có tri thức.
Nhận thức luận của ông chủ yếu là thể hiện qua đạo đức của con người.
Đạo đức học của ông mang tính chất duy lý, ông thừa nhận đạo đức và tri thức
1
Xôcrát (469 – 399 TCN): xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Cha làm nghề
điêu khắc, mẹ là nữ hộ sinh. Ông hướng về chính thể chủ nô quý tộc chống lại chủ nô dân chủ.
Năm 399 TCN, ông bị chủ nô dân chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật pháp, chống lại chế
độ bầu cử dân chủ”. Đối với ông chỉ có văn nói sống động, và văn viết đã bị khô cứng. Vì vậy
cuộc đời ông không để lại một tác phẩm nào. Chỉ biết được ông qua những học trò của ông. Ông
là người rất sùng bái thành thánh, thành kính tuân theo mọi nghi lễ tôn giáo và coi hành vi đạo
đức và nhận thức hoàn toàn thống nhất với nhau…
SVTH: Dương Quang Hiếu 6 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thống nhất là một, mỗi hành vi vô đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát của
chúng ta. Ông cho rằng muốn tuân thủ theo cái thiện thì phải nắm bắt được nó,
hiểu nó. Muốn hiểu được nó phải thông qua các cuộc tranh luận, tọa đàm, luận
chiến để tìm ra chân lý theo cách thức mà về sau được gọi là phương pháp
Xôcrát [1,trang 106], bao gồm 4 bước:
Một là “mỉa mai” đây là một thủ pháp phản biện rằng cách nêu lên những
câu hỏi sao cho người đối thoại tự thấy mâu thuẫn với ý kiến của mình, từ đó
mới thừa nhận sai lầm trong ý kiến đưa ra, thấy được sự thiếu sót ngu dốt của
mình.

Hai là “đỡ đẻ” đây là thủ pháp đi liền với thủ pháp thứ nhất, và được thực
hiện sau khi tiến hành thủ pháp “mỉa mai”, bởi vì sau khi làm cho đối phương
tranh luận thấy được cái sai của mình thì cần phải giúp đỡ họ tìm ra lối thoát
bằng cách đạt tới tri thức đúng, từ bỏ quan điểm sai.
Ba là “quy nạp” mục đích của yếu tố này là từ những cái riêng lẻ khái quát
lên thành cái chung, có ý nghĩa phổ biến, nghĩa là từ những hành vi đạo đức cụ
thể, riêng lẻ phải phân tích, so sánh để tìm ra cái thiện phổ biến của mọi hành vi
đạo đức.
Bốn là “xác định”, chủ yếu chỉ ra những hành vi đạo đức thuộc loại nào,
chúng có phụ thuộc và quan hệ với nhau như thế nào.
Bốn bước này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri
thức chân thật giúp con người sống đúng với tư cách và phận sự của mình trong
đời sống xã hội.
Về chính trị, Xôcrát chủ trương việc trị nước không nên do nhiều người
mà phải do những nhà thông thái có tài năng và đạo đức, nói một cách khác là do
một số quý tộc. Chủ trương đó rõ ràng là trái với nguyên tắc cơ bản của chế độ
dân chủ của Aten. [5, trang 245]
Chủ nghĩa duy tâm của Xôcrát thể hiện trước hết việc tách các khái niệm
ra khỏi chủ thể nhận thức. Khái niệm trong cách hiểu của ông chỉ là kết quả của
những nỗ lực tinh thần, không đơn giản là hiện tượng chủ quan, mà là một hiện
thể khách quan siêu thoát nào đó của lý tính. Khái niệm tồn tại tự thân và không
SVTH: Dương Quang Hiếu 7 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
lệ thuộc vào tồn tại của sự vật, con người. Ông đã phác thảo nên những nét đầu
tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan để Platông về sau đưa nó lên trình độ một
hệ thống.
2. Triết gia Platông
2
:
Platông chịu ảnh hưởng bởi ba nguồn gốc tư tưởng: tư tưởng của Xôcrát

về cái phổ biến, cái chung làm cơ sở cho đạo đức; học thuyết của Pácmênít (500
– 449 TCN) và trường phái Êlê về sự tồn tại duy nhất, bất biến; tư tưởng của
Pytago (571 – 497 TCN) về những con số được xem là bản chất chân thật của sự
vật. Dựa vào ba nguồn gốc trên, Platông đã xây dựng chủ nghĩa duy tâm khách
quan có nội dung chính là thuyết ý niệm với giá trị bên trong là phép biện chứng
của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc khác về đạo đức- chính trị- xã hội.
- Thuyết ý niệm: Platông chia thế giới làm hai loại: Thế giới ý niệm (là
thế giới tồn tại chân thực, bất biến, vĩnh viễn, tuyệt đối, là cơ sở tồn tại của thế
giới các sự vật cảm tính) và thế giới của các sự vật cảm tính (là thế giới tồn tại
không chân thực, thường xuyên biến đổi, phụ thuộc vào thế giới ý niệm, do các ý
niệm sản sinh ra). Theo ông, thế giới ý niệm là nguyên mẫu, nó có trước và thế
giới vật chất là cái được sinh ra, nó là thế giới cảm tính. Thế giới vật chất chẳng
qua là cái bóng, là sự mô phỏng, bắt chước thế giới ý niệm, thế giới ý niệm quyết
định thế giới vật chất, không có thế giới ý niệm thì không có thế giới vật chất[1,
trang 106]. Ông đã lấy ví dụ về cái hang để minh hoạ cho quan điểm duy tâm
khách quan của mình: Có một đoàn người đi qua cửa một cái hang tối và qua ánh
sáng mặt trời chiếu vào, người ta chỉ nhìn thấy bóng của đoàn người đó in trên
vách hang. Ông cho rằng, thế giới các sự vật hiện tượng chỉ là cái bóng in trên
vách hang còn thế giới ý niệm mới chính là đoàn người thực đi ở bên ngoài cửa
hang. [7]
Các ý niệm, theo cách hiểu của Platông, là các khái niệm, tri thức đã được
khách quan hoá, chúng tồn tại mãi mãi từ xưa đến nay. Thế giới ý niệm là vĩnh
2
Platông (427-347 TCN) sinh trưởng trong một gia đình chủ nô quý tộc ở thành phố Aten, là
nhà triết học duy tâm khách quan. Học thuyết triết học của ông dựa trên tiền đề lý luận về cái
phổ biến của Xôcrat, lý luận về tồn tại duy nhất bất biến của trường phái Êlê và lý luận về con
số của phái Pitago. Platông la người xây dựng Viện hàn lâm Aten và viết nhiều tác phẩm như:
Biện hộ cho Xôcrát, Đối thoại, Bữa tiệc, Chế độ cộng hòa, Luật pháp…
SVTH: Dương Quang Hiếu 8 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

viễn, bất biến, không phân chia được và chỉ được nhận thức duy nhất bằng lý
tính. Ông cho rằng thế giới ý niệm có vô vàn ý niệm, trong số tất cả các ý niệm
thì ý niệm phúc lợi là cao nhất - nó là ý niệm của các ý niệm. Theo Platông, vật
chất nói chung cũng tồn tại vĩnh viễn, nó là căn nguyên tạo ra chất liệu cụ thể của
mỗi sự vật, làm cho chúng đa dạng, biến đổi không ngừng; các ý niệm là bản
chất chung của mọi sự vật, là cơ sở thống nhất toàn vũ trụ, là linh hồn đem lại
sinh khí cho toàn vũ trụ; còn các con số là một dạng bản chất độc lập đặc biệt
chiếm vị trí trung gian ở giữa ý niệm và sự vật cảm tính, sự khác nhau giữa các
sự vật là do khác nhau về quan hệ toán học, do những con số quyết định. Như
vậy, tuy đứng trên lập trường duy tâm khách quan trong quan niệm về thế giới,
coi sự vật chỉ là cái bóng của ý niệm nhưng ông đã thực hiện một bước tiến trong
việc chuyển triết học từ tư duy ẩn dụ tới tư duy khái niệm, giải thích một hiện
tượng ở mức độ khái niệm, tư duy lý luận [7].
- Quan điểm về nhận thức: Lý luận nhận thức và học thuyết về linh hồn
của Platông được xây dựng trên cơ sở bản thể luận duy tâm khách quan mà cốt
lõi của chúng là học thuyết về ý niệm và học thuyết về sự tồn tại độc lập của linh
hồn bất tử. Ông cho rằng, nhận thức cảm tính không phải là nguồn gốc của tri
thức chân thực, mà tri thức chân thực - nhận thức ý niệm - chỉ có thể đạt được
bằng nhận thức lý tính và thể hiện trong khái niệm. Theo ông, mọi tri thức phải
có tính khái quát cao. Sự nhận thức của con người không phải là sự phản ánh thế
giới vật chất mà là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử, hồi tưởng lại những gì mà
linh hồn bất tử đã quên đi khi nằm trong thế giới ý niệm. Linh hồn bất tử vốn
thuộc về thế giới ý niệm, khi đó nó biết hết tất cả những gì thuộc về thế giới ý
niệm nhưng vì thế giới ý niệm luôn vận động nên linh hồn bất tử vận động xuống
mặt đất, nhập vào con người, biến con người từ một thực thể bất động vô tri, vô
giác thành một cơ thể năng động và có tri giác. Nhưng cũng từ đó linh hồn bất tử
quên hết những gì biết được ở thế giới ý niệm, khi nó hồi tưởng những gì đã biết
tạo ra sự nhận thức. Quan niệm này của Platôn có một số yếu tố hợp lý khi ông
đề cao vai trò của tư duy, sự tác động trở lại của tư duy đối với vật chất nhưng do
ông đề cao quá theo hướng tuyệt đối hoá nên trở thành duy tâm; đồng thời khi

SVTH: Dương Quang Hiếu 9 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
thừa nhận linh hồn bất tử biết hết mọi điều trong thế giới ý niệm là ông đã khẳng
định con người có khả năng nhận thức hoàn toàn về thế giới[7].
- Quan điểm về đạo đức: Xuất phát từ đạo đức học duy lý, Platông cho
rằng, sống hạnh phúc là sống có đạo đức. Sống có đạo đức là làm điều thiện.
Hành vi hướng thiện là hành vi không dựa trên khoái lạc, lợi thú chủ quan mà là
hướng đến những ý tưởng tuyệt đối khách quan thuộc về thế giới ý niệm ở trên
trời. Con người chỉ nhận thức được những ý tưởng này bằng lý trí. Theo Platông,
con người muốn sống hạnh phúc phải dùng lý trí để chiêm nghiệm những ý
tưởng và khắc phục những dục vọng vật chất thấp hèn, giúp linh hồn thoát khỏi
cùm gông của nhà tù thể xác. Dục vọng phải phục tùng trái tim, trái tim phải làm
theo khối óc là điều kiện tiên quyết để sống hạnh phúc Như vậy theo Platông,
con người không thể tìm thấy hạnh phúc cho riêng mình ở xung quanh mình,
dưới trần gian, con người chỉ có thể đạt được hạnh phúc trong thế giới ý niệm, ở
trên trời, sau khi chết. Quan niệm về đạo đức đầy tính chất duy tâm thần bí của
Platông là cơ sở cho nền đạo đức Thiên chúa giáo sau này [1, trang 108].
- Quan điểm về chính trị - xã hội: Platông đã xây dựng học thuyết lý
tưởng trên cơ sở học thuyết về linh hồn và học thuyết ý niệm, học thuyết đạo đức
đặc biệt từ sự phê phán hạn chế của những hình thái nhà nước đã tồn tại trong
lịch sử. Theo ông, đã có ba hình thái nhà nước đã tồn tại trước đó và đều xấu xa,
tồi tệ. Trong đó hình thái nhà nước quân chủ được xây dựng và duy trì trên cơ sở
làm giàu đến vô độ và cách thức hoạt động chủ yếu của nó là ăn cướp và đàn áp;
hình thái nhà nước quân phiệt cũng hoạt động chủ yếu là ăn cướp, bóc lột và xâm
lược; hình thái nhà nước dân chủ là hình thái xấu xa, tồi tệ nhất vì quyền lực của
nhà nước thuộc về số đông. Theo ông, thể chế nhà nước lý tưởng nhất là nhà
nước cộng hoà vì nó được xây dựng với ba đẳng cấp (tương ứng với ba loại linh
hồn, ba phẩm chất đạo đức) là đẳng cấp cai trị (có linh hồn trí tuệ, phẩm chất
thông thái và chủ yếu là các triết gia), đẳng cấp vệ quân (bảo vệ bộ máy cai trị và
an ninh xã hội, có phẩm chất dũng cảm, trung thành), đẳng cấp nông dân và thợ

thủ công (có nhiệm vụ tạo ra vật chất nuôi sống xã hội, có phẩm chất cần cù, chịu
khuất phục và chế ngự dục vọng). Ông cho rằng giai cấp nô lệ không thuộc một
SVTH: Dương Quang Hiếu 10 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
đẳng cấp nào hết vì họ không phải là con người, họ chỉ là một động vật biết nói
tiếng người, là một công cụ biết nói, họ không có một quyền nào khác ngoài
quyền được tự do làm nô lệ cho người khác.
Quan điểm về chính trị - xã hội của Platông chứa đầy tính bảo thủ và mâu
thuẫn. Bởi vì, ông vừa đòi hỏi phải xóa bỏ tư hữu vừa bảo vệ cho bằng được chế
độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội; vừa kêu gọi phải xây dựng cho
bằng được nhà nước cộng hòa lý tưởng, lại vừa ra sức bảo vệ cho bằng được lợi
ích và địa vị của tầng lớp chủ nô quý tộc chống lại nhà nước dân chủ Aten. [1,
trang 109]
SVTH: Dương Quang Hiếu 11 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHƯƠNG 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ
NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. NHỮNG GIÁ TRỊ
1. Xây dựng nên những khái niệm về chuẩn mực đạo đức chung của
con người:
Xôcrát thường nhấn mạnh câu châm ngôn: “Người ơi, hãy tự biết mình”
3
.
Học thuyết của ông đưa tới niềm tin rằng mọi đức hạnh đều qui về một mối, đó là
cái thiện, hoặc sự tự am hiểu bản ngã - “cái tôi” chân chính của ta - cùng những
cứu cánh của nó qua quá trình diễn tiến cuộc đời mình. Rồi tới lượt tri thức tùy
thuộc vào bản tính hoặc yếu tính của vạn vật đúng như chúng hiện hữu [8].
Quan điểm của Xôcrát thường được mô tả bằng lập trường cho rằng mục
đích của tri thức là đức hạnh - tri thức và đức hạnh là một - khiến con người
không thể làm điều sai trái một cách chủ tâm.

Sau này, môn đệ của Xôcrát - là Platông cũng giúp ta có cái nhìn sâu sắc
hơn về vấn đề đạo đức. Đạo đức của Platông được xây dựng dựa trên cơ sở học
thuyết về linh hồn, theo Platông linh hồn có 3 bộ phận là lý trí, ý chí và nhục dục.
Platông cho rằng lý tính của linh hồn là cơ sở của sự thông thái, ý chí là cơ sở
của lòng dũng cảm, chế ngự nhục dục là cơ sở của sự điều độ. Sự thông thái là
một đức tính cao nhất, sự kết hợp 3 yếu tố trên dưới sự chỉ đạo của lý tính sẽ tạo
ra chính nghĩa là yếu tố thứ tư. Như vậy, đạo đức học của Platông hướng con
người vào ý niệm tối cao của cái thiện, đó là sự thông thái và lòng dũng cảm.
3
Câu châm ngôn khắc trên cửa đền Delphi – đền thờ nổi tiếng linh thiêng thuộc vùng Phocis miền trung
Hy Lạp.
SVTH: Dương Quang Hiếu 12 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
2. Phương pháp biện chứng được cải tiến và áp dụng vào các vấn đề
luân lý:
Xôcrát đóng góp cho triết học một định hướng nhân văn cùng phương
pháp mới mẻ tiếp cận tri thức, một khái niệm về linh hồn như tâm điểm của ý
thức tỉnh táo bình thường lẫn đặc tính đạo đức và về ý nghĩa vũ trụ như một tinh
thần ngăn nắp có chủ ý. Kỹ thuật tra vấn của ông - được gọi là phương pháp
Xôcrát - yêu cầu người đối thoại định nghĩa các khái niệm có ý nghĩa đạo đức, ví
dụ như công bình, dũng cảm, mộ đạo, v.v. để cho thấy những mâu thuẫn trong
câu trả lời, qua đó phô bày sự ngu dốt của kẻ trả lời, và thúc đẩy phải tra vấn
thêm nữa các khái niệm. Phương pháp này, gọi là biện chứng pháp, cốt ở chỗ
dùng hình thức vấn đáp để khảo sát những lời phát biểu, bằng cách tra xét định
nghĩa, đào sâu khái niệm, truy nã nội hàm của chúng, với giả định rằng một lời
phát biểu đúng không thể nào dẫn tới hệ quả sai. [8]
Các triết gia của triết học cổ điển Đức (cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ
XIX) cũng đã tiếp thu những tư tưởng biện chứng quý báu trong di sản triết học
Hy Lạp, phát triển thêm và xây dựng được phép biện chứng mới như một học
thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong thế giới

[1, trang 176].
3. Hình thành nền tảng triết lý cho Thiên Chúa giáo:
Quan niệm về con người và linh hồn của Platông được những người theo
Thiên Chúa giáo rất ngưỡng mộ. Thêm vào đó, những huyền thoại mà Platông đã
đề ra như ý niệm về thiên đàng và địa ngục được Thiên Chúa giáo áp dụng làm
nền tảng triết lý cho mình. Dân chúng châu Âu hoàn toàn chấp nhận sự cai trị
này mà không cần dùng đến vũ lực. [6, trang 19]huyền thoại
4. Tạo động lực thúc đẩy phát triển khoa học:
Triết gia Platông và chủ nghĩa duy tâm khách quan của ông đã có ảnh
hưởng vô cùng sâu sắc đến nền triết học nói riêng và sự phát triển văn hóa Châu
Âu nói chung. Đặc biệt là nhận thức luận, triết học toán học và tư tưởng giáo dục
toán học của ông, dưới điều kiện xã hội Hy lạp đương thời, đã có một tác dụng
thúc đẩy mạnh mẽ đối với sự hình thành của khoa học và sự phát triển của toán
SVTH: Dương Quang Hiếu 13 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
học. Vào TK 3 TCN, Platông đã thành lập học phái của mình ở Athens. Platông
rất coi trọng toán học. Ông chủ trương bồi dưỡng khả năng tư duy logic thông
qua môn hình học, bởi vì hình học mang lại cho con người ấn tượng trực quan,
thể hiện sự trừu tượng của quy luật Logic trong các hình cụ thể.
Những học trò của Platông cũng góp phần không kém vào việc phát triển
sơ khai nền toán học. Chẳng hạn như Eudoxus, người đã sáng tạo ra “Phép so
sánh”, Arixtốt cũng là một nhà triết học cổ đại, đặt nền móng về logic hình thức.
Tư tưởng logic của ông đã mở ra con đường cho hệ thống logic chặt chẽ trong bộ
môn hình học sau này [5, trang 165].
Như vậy, có thể nói Platông - một nhà triết học vĩ đại đã có ảnh hưởng
không những là triết học, mà những tác phẩm của ông cũng là động lực thúc đẩy
khoa học phát triển.
5. Hình thành tư tưởng tiến bộ trong quan niệm về chính trị - xã hội:
Platông chủ trương một chính thể quý tộc dân chủ. Nhóm người lãnh đạo
sẽ là những nhóm người ưu tú, bất kể xuất thân. Dù là con của vua chúa hay thứ

dân đều bắt đầu ngang nhau. Nếu con vua chúa mà không có khả năng vẫn sẽ bị
đào thải, nếu con thứ dân mà học hỏi và tài năng vẫn sẽ có cơ hội vươn lên. “Đây
là nền dân chủ của học đường, một nền dân chủ trăm ngàn lần đẹp đẽ hơn nền
dân chủ của thùng phiếu.” [6, trang 16]
Trong hai tác phẩm “Chính Khách” và “Luật Pháp”, Platông đã nhấn
mạnh đến vai trò quan trọng của luật pháp. Bởi vì nhân loại không thể tìm kiếm
được một nhà lãnh đạo có tài đức như ý, luật pháp trở nên vô cùng cần thiết để
bảo vệ xã hội tránh sự lạm quyền của những kẻ thiếu tài đức. Đồng thời, Luật
pháp cũng là động lực khiến công dân sinh hoạt theo một phương hướng ổn định.
Ông đã công nhận một chính thể dân chủ pháp trị còn tốt hơn một chế độ
quân chủ hay quý tộc trị vô pháp. Nguyên tắc pháp trị của thầy Xôcrát đã được
Platông nâng cao trong tác phẩm “Chính Khách” và dần dần trở thành một trong
những nguyên lý căn bản của các tổ chức chính trị Tây phương [2, trang 22].
SVTH: Dương Quang Hiếu 14 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
II. NHỮNG HẠN CHẾ
1. Mang đầy màu sắc duy tâm và thần bí:
Theo Arixtốt, về mặt bản thể luận, việc Platông chia thế giới ra thành thế
giới ý niệm và thế giới sự vật là thiếu cơ sở và đầy mâu thuẫn. Bởi vì ý niệm là
cái tồn tại bên ngoài và độc lập với sự vật thì không thể làm bản chất cho sự vật
được. Hơn nữa, ý niệm là cái trừu tượng, phi cảm tính thì không thể làm khuôn
mẫu cho sự vật cảm tính được. Còn về mặt nhận thức luận, việc Platông coi ý
niệm là cái có trước và độc lập so với sự vật thì ý niệm (khái niệm) cũng không
thể được dùng để nhận thức sự vật được. Theo Arixtốt, sai lầm của Platông là ở
chỗ ông tách bản chất của sự vật ra khỏi sự vật; ở chỗ biến cái chung - đáng lẽ là
cái được khái quát từ sự vật riêng lẻ và thể hiện trong khái niệm chung - thành
cái riêng lẻ, nằm bên trên, có trước và quyết định thế giới sự vật cảm tính. [1,
trang 110]
2. Quan niệm về đạo đức chỉ mang tính duy lý:
Khi phủ nhận quan điểm của Platông coi hạnh phúc của con người gắn

liền với thế giới ý niệm, Arixtốt cho rằng hạnh phúc thật sự của con người phải
gắn liền với cuộc sống trần gian, gắn liền với bản tính tự nhiên của mình. Hạnh
phúc của con người không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan như sự khôn
ngoan của lý trí, đức hạnh trong hành vi, sự khoái lạc trong trạng thái…mà còn bị
chi phối bởi các điều kiện khách quan như tiền bạc, sức khỏe, tình bạn, xã hội
công bằng…Như vậy, theo Arixtốt, đời sống đạo đức, hạnh phúc của con người
không nằm trong thế giới ý niệm trên trời, mà nằm trong thế giới hiện thực, dưới
đất, nơi trần gian; đồng thời, chúng cũng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh,
nhu cầu của từng người trong cộng đồng xã hội. [1, trang 114]
3. Quan niệm về chính trị - xã hội chứa đầy tính bảo thủ và mâu
thuẫn:
Nhiều người cho rằng, thuật chính trị của Platông thiếu sự mềm dẻo và tế
nhị. “nó đề cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp nhưng không
biết nuôi dưỡng các nghệ sĩ”. [6, trang 22]
SVTH: Dương Quang Hiếu 15 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Trong các tác phẩm của Platông có thể thấy Platông đặt gánh nặng quá lớn
lên vai giới lãnh đạo quốc gia: họ phải hoàn toàn quên đi quyền lợi riêng tư và
luôn luôn chú trọng lo cho nhân dân được an lạc. Một nhà lãnh đạo công bằng
không bao giờ lo cho quyền lợi cá nhân bởi vì ông ta biết là hạnh phúc của riêng
ông ta không thể tách rời khỏi hạnh phúc của nhân dân. Trong thế giới hôm nay,
đi kiếm một cá nhân được như vậy thật không khác gì mò kim dưới đáy bể. [2,
trang 24]
Chúng ta cũng có thể thấy được là chính thể do Platông đưa ra xem
thường ý kiến của dân vô giáo dục và sẵn sàng bóp chết tự do cá nhân để lo cho
mục đích chung của quốc gia. Song song đó, Platông cũng đã đánh giá sai về bản
tính của con người khi ông kết luận là chỉ có ba động lực (ý thích, tinh thần, và lý
trí) chi phối các sinh hoạt của nhân loại. Khả năng cũng như tư cách của con
người về nhiều mặt không thể bị đóng khung trong một số quy tắc tiền định (như
sĩ, nông, công, thương), và sự khác biệt về kiến thức có thể được vượt qua một

cách tương đối không khó khăn cho lắm. [2, trang 25]
Nhiều luận điểm khác cũng chỉ trích quan niệm xóa bỏ sở hữu tư nhân,
phải xây dựng chế độ sở hữu công xã với tài sản chung, cha mẹ con cái chung,…
tuy với một lý tưởng tốt nhưng thật sự, Platông đã cũng ngấm ngầm phá vỡ nền
móng xã hội lý tưởng mà ông sắp xây cất. Mặc khác, chế độ cộng sản này lại
mâu thuẫn với chính chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng trong xã hội như đã
nêu ở trên. Ông vừa kêu gọi phải xây dựng cho bằng được nhà nước cộng hòa lý
tưởng nhưng lại vừa ra sức bảo vệ cho bằng được lợi ích và địa vị của tầng lớp
chủ nô quý tộc, chống lại nhà nước dân chủ Aten. [1, trang 109]
SVTH: Dương Quang Hiếu 16 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
KẾT LUẬN
Mác đã từng nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”. Và
những triết gia đã đóng góp vào kho tàng triết học ấy nổi bật và ngời sáng là
Xôcrát và Platông – những triết gia đã dành gần cả cuộc đời của mình để nghiên
cứu triết học.
Quả thật đến nay, những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và chủ
nghĩa duy tâm khách quan mang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị.
Những thành tựu đã đạt được của chủ nghĩa duy tâm khách quan là tiền đề cơ
bản cho sự phát triển rực rỡ của nền văn minh phương Tây ngày nay.
Mặc dù chủ nghĩa duy tâm khách quan vẫn còn tồn tại một số khuyết điểm
và các luận điểm chưa chính xác. Tuy nhiên, có thể hiểu và thông cảm cho những
thiếu sót này là do Xôcrát và Platông đã cố tâm đi tìm một mô hình tốt đẹp để
giải quyết các khó khăn của chế độ đương thời Bởi vì không một luận điểm hay
giải pháp nào là tuyệt đối hoàn hảo cho tất cả các chế độ.
SVTH: Dương Quang Hiếu 17 Lớp cao học: K21- Đêm 5
Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
*Sách:
[1] Bùi Văn Mưa chủ biên - Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học

(tài liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên
ngành triết học của trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh), 2011.
[2] Dương Thành Lợi - Triết lý Quốc Trị Tây Phương, 1994.
[3] Đinh Ngọc Thạch - Lịch sử triết học phương Tây (dùng cho học viên cao
học không thuộc chuyên ngành triết học của trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh), 2010.
[4] Tô Mộng Vi - Tìm lại nền văn minh Hy Lạp cổ đại, Nguyễn Kim Dân biên
dịch, NXB Lao động, 2010.
[5] Vũ Dương Minh chủ biên - Lịch sử văn minh thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục
Việt Nam, 2011.
[6] Will Durant - Câu chuyện triết học, Trí Hải và Bửu Đích biên dịch, NXB
Văn hóa thông tin, 2008.
*Các trang web:
[7] Nguyễn Minh Trường - Khái lược những nét cơ bản về Triết học Hy Lap cổ
đại
/>[8] Nguyễn Ước - Ba mươi triết gia Triết gia Tây Phương
/>m=module2&v=detailarticle&id=84&ia=14873
[9] Thích Trí Huệ - Cuộc đời và cái chết của triết gia Xôcrát
/>chet-cua-triet-gia-Xôcrát.html
SVTH: Dương Quang Hiếu 18 Lớp cao học: K21- Đêm 5

×