Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TRIẾT HỌC CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.62 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI NHĨM 6:
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
HVTH : Trần Thị Hoa - STT: 58
LỚP : ĐÊM 5 – K 21
GVHD : TS.Bùi Văn Mưa

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1:
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH
QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI 2
I. Hoàn cảnh ra đời 2
II. Những tư tưởng cơ bản 2
1. Tư tưởng của Xôcrát 2
2. Tư tưởng của Platông 4
CHƯƠNG 2:
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH
QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI 9
I. Những giá trị 9
II. Những hạn chế 11
KẾT LUẬN 15
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
MỞ ĐẦU
Hy Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thời cổ đại
- là thời kỳ tích trữ một khối lượng tri thức khổng lồ trên nhiều lĩnh vực như toán


học, vật lý học, thiên văn học, … đặc biệt không thể không nhắc đến triết học Hy
Lạp cổ đại, được xem là khởi nguyên tiềm tàng của triết học nhân loại làm tiền
đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương Tây sau này với những giá trị vô cùng
to lớn lần đầu tiên xuất hiện trong lich sử triết học là phép biện chứng của khái
niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc về đạo đức - chính trị - xã hội. Tất cả các giá trị
đó được phác họa trong Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại bởi các
triết gia tiêu biểu như Xôcrát, Platông.
Tiểu luận được thực hiện thông qua việc tham khảo và nghiên cứu các tài
liệu như: 1) Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử
triết học (tài liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
chuyên ngành triết học của trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh),
2011; 2) Vũ Dương Minh chủ biên, Lịch sử văn minh thế giới cổ đại, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2011; 3) Tô Mộng Vi, Tìm lại nền văn minh Hy Lạp cổ đại,
Nguyễn Kim Dân biên dịch, NXB Lao động, 2010; 4) Norman F.Cantor, Nền
văn minh thế giới cổ đại, Kiến Văn và Khắc Vinh biên dịch, NXB Lao động xã
hội, 2008; 5) Will Durant, Câu chuyện triết học, Trí Hải và Bửu Đích biên dịch,
NXB Văn hóa thông tin, 2008; …
Nhằm hệ thống hóa các tư tưởng triết học của Chủ nghĩa duy tâm khách
quan Hy Lạp cổ đại và mong muốn được đóng góp một phần ý kiến trong cách
nhìn nhận những tư tưởng này, qua đó có thể rút ra được những giá trị cũng như
những hạn chế của nó. Nhưng do còn hạn chế nhiều mặt nên tiểu luận chỉ dừng
lại ở mức khái quát một số tư tưởng cơ bản mà chưa thể đi sâu nghiên cứu chi
tiết tất cả các tư tưởng trong đề tài.
HVTH: TRẦN THỊ HOA 1
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
CHƯƠNG I
NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Hoàn cảnh ra đời

Hy Lạp cổ đại là một quốc gia sớm có nền công - thương nghiệp phát triển,
lại có điều kiện tự nhiên thuận lợi và một nền văn hóa tinh thần phong phú, đa
dạng. Sự phát triển về mặt kinh tế - xã hội này đã làm cho sự phân hóa giai cấp
diễn ra ngày càng sâu sắc, đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt. Dưới con mắt
của người Hy Lạp cổ đại, nô lệ không phải là người mà chỉ là “công cụ biết nói”,
họ không được hưởng một chút quyền lợi gì về chính trị và quyền làm người.
Chế độ cộng hòa dân chủ chỉ thuộc về giai cấp chủ nô, còn về phía đông đảo nô
lệ thì đó là một nền chuyên chính tàn bạo.
Ăngghen đã viết: “Chúng ta không bao giờ được quên rằng tiền đề của toàn
bộ sự phát triển kinh tế, chính trị và trí tuệ của chúng ta là một trạng thái trong đó
chế độ nô lệ cũng hoàn toàn cần thiết giống như nó được tất cả mọi người thừa
nhận. Theo nghĩa đó chúng ta có quyền nói rằng: Không có chế độ nô lệ cổ đại,
thì không có chủ nghĩa xã hội hiện đại” [2, tr.254].
II. Những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy
Lạp cổ đại
Xôcrát và Platông là hai đại biểu của hệ thống triết học duy tâm khách quan
Hy Lạp cổ đại. Nếu triết học của Xôcrát có đóng góp quan trọng vào việc tạo ra
bước tiến mới trong sự phát triển triết học khi đưa đề tài con người làm trọng tâm
nghiên cứu thì triết học của Platông lại trở nên kiệt xuất với nội dung chính là
thuyết ý niệm mà giá trị bên trong là phép biện chứng của khái niệm.
1. Tư tưởng của Xôcrát [Socrate (469-399 TCN)]
HVTH: TRẦN THỊ HOA 2
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Xôcrát xuất thân trong một gia đình khá giả ở Aten. Ông là nhà triết học
“đối thoại” vì đối với ông, chỉ có văn nói mới sống động, còn những gì người ta
viết ra thì đã bị khô cứng nên ông không viết một tác phẩm nào, chúng ta chỉ biết
về ông chủ yếu qua các tác phẩm của học trò ông.
Khác với các triết gia khác, ông không chủ trương nghiên cứu các hiện
tượng tự nhiên vì theo ông, chúng đã được thần thánh an bài, con người không có

khả năng khám phá được giới tự nhiên và cũng không thể cải đổi được giới tự
nhiên theo ý mình nên ông đã dành phần lớn vào việc nghiên cứu về con người.
Ông cho rằng triết học không gì khác hơn là sự nhận thức của con người về chính
mình, “con người hãy nhận thức chính mình”.
- Quan niệm về nhận thức: Xôcrát tìm cách khám phá ra các chân lý chung
cho con người trong các cuộc đàm thoại. Theo ông, để có đàm thoại được, những
người tham gia cuộc đàm thoại phải có “ngôn ngữ chung” nhất định. Ngôn ngữ
đó mang tính khách quan và nhờ đó, con người mới khám phá ra chân lý một
cách đích thực mà ai cũng phải thừa nhận. Theo ông, ngoài yếu tố chủ quan, ý
thức của con người trong cuộc đàm thoại còn có một nội dung khách quan, có tri
thức phổ biến mang tính tổng quát. Đó là tri thức chung mà mỗi con người chúng
ta có được bằng nỗ lực của mình. Xôcrát cho rằng tri thức chung đó là chân lý
khách quan thu được trong các cuộc đàm thoại mà ai cũng phải thừa nhận nên ý
kiến chủ quan của mỗi người không phải là tiêu chuẩn của chân lý. Theo ông,
khám phá ra chân lý đích thực về bản chất sự vật tức là phải hiểu nó có khái
niệm, nếu không có khái niệm xem như không có tri thức.
- Quan niệm về đạo đức: Đạo đức học của Xôcrát mang tính chất duy lý,
ông thừa nhận đạo đức và tri thức thống nhất làm một. Xôcrát cho rằng hiểu biết
là cơ sở của điều thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác; và chỉ có cái thiện phổ
biến mới là cơ sở của đạo đức, mới là tiêu chuẩn của đạo đức; ai tuân theo cái
thiện phổ biến thì người đó mới có đạo đức và muốn theo cái thiện phổ biến thì
phải hiểu được nó, muốn hiểu được nó phải thông qua các cuộc tranh luận, tọa
đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cách thức mà về sau được gọi là phương
HVTH: TRẦN THỊ HOA 3
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
pháp Xôcrát. Phương pháp này gồm bốn bước. Một là “mỉa mai”, tức là nêu ra
những câu hỏi mẹo, hỏi vặn, hỏi châm biếm nhằm làm cho đối phương sa vào
mâu thuẫn. Hai là “đỡ đẻ tinh thần”, tức là giúp đối phương thấy được con đường
để tự mình khám phá ra chân lý. Ba là “quy nạp”, tức là xuất phát từ những hiểu

biết riêng lẻ khái quát lên thành những hiểu biết phổ biến, từ những hành vi đạo
đức riêng lẻ tìm ra cái thiện phổ biến của mọi hành vi đạo đức. Bốn là “định
nghĩa”, tức là chỉ ra hành vi thế nào là đạo đức, quan hệ thế nào là đúng mực [1,
tr.106]. Bốn bước này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri
thức chân thật giúp con người sống đúng với tư cách và phận sự của mình trong
đời sống xã hội.
- Quan niệm về chính trị - xã hội: Xôcrát chủ trương việc trị nước không
nên do nhiều người mà phải do những nhà thông thái có tài năng và đạo đức, nói
một cách khác là do một số quý tộc. Chủ trương đó rõ ràng là trái với nguyên tắc
cơ bản của chế độ dân chủ của Aten. Năm 399 TCN, ông bị kết tội truyền bá học
thuyết kỳ quặc đầu độc thanh niên, làm hại đến chế độ dân chủ và sự tồn tại của
quốc gia nên bị xử tử bằng thuốc độc [8, tr.245].
- Quan niệm về mỹ học: Theo Xôcrát cái đẹp ở đây là cái đẹp tâm hồn, là
kết hợp giữa vẻ đẹp với phẩm chất tâm hồn. Chính vì vậy ông đòi hỏi trong nghệ
thuật các nghệ sĩ phải thể hiện được những “trạng thái của tâm hồn” hay nói cách
khác cái đẹp của Xôcrát là cái đẹp đạo đức, chú trọng nội dung hơn hình thức.
Chủ nghĩa duy tâm của Xôcrát đã thể hiện việc tách các khái niệm ra khỏi
chủ thể nhận thức. Khái niệm tồn tại tự thân và không lệ thuộc vào tồn tại của sự
vật, con người. Ông đã phác thảo nên những nét đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm
khách quan để Platông đẩy nó lên trình độ một hệ thống.
2. Tư tưởng của Platông [Platon (472-347 TCN)]
Platông sinh trưởng trong một gia đình chủ nô quý tộc ở thành phố Aten, là
nhà triết học duy tâm khách quan kiệt xuất nhất thời cổ Hy Lạp, Platông chịu ảnh
hưởng bởi tư tưởng của Pácmênít, Pytago, đặc biệt là của Xôcrát. Ông là người
HVTH: TRẦN THỊ HOA 4
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
xây dựng Viện hàn lâm Aten và viết nhiều tác phẩm như Biện hộ cho Xôcrát,
Đối thoại, Bữa tiệc, …
Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm của Platông là học thuyết về

ý niệm, từ học thuyết này mà tất cả các vấn đề khác như lý luận, chính trị, mỹ
học, … được xây dựng nên. Nội dung chính của thuyết ý niệm xoay quanh quan
niệm về thế giới các sự vật cảm biến và thế giới ý niệm.
2.1 Thuyết ý niệm
a) Thế giới các sự vật cảm biến và thế giới ý niệm
Platông chia thế giới ra thành thế giới các sự vật cảm biến và thế giới ý
niệm. Thế giới các sự vật cảm biến là không chân thực, không đúng đắn vì các sự
vật không ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi và vận động, nó không ổn định,
không bền vững và khiếm khuyết trong khi thế giới ý niệm là thế giới chân thực,
đúng đắn, tuyệt đối, mang tính phổ biến, … nó là cái sản sinh, có trước, là
nguyên nhân, là bản chất, là khuôn mẫu của sự vật, còn sự vật là cái được sản
sinh, có sau; là cái bóng được mô phỏng, sao chép lại từ ý niệm [1, tr.107]. Chỉ
có thế giới ý niệm mới tồn tại vĩnh hằng và bất biến theo thời gian, không gian.
Thời gian có thể cuốn đi những gì xung quanh chúng ta nhưng ý niệm về chúng
thì vẫn còn.
b) Tồn tại và không tồn tại
Đây là một sự nhận thức khác về thế giới ý niệm. Ở khía cạnh này, Platông
một lần nữa khẳng định nhận định của mình, ông cho rằng tồn tại là cái phi vật
chất, là cái nhận biết bằng trí tuệ siêu tự nhiên. Cái tồn tại là thế giới ý niệm, nó
vô hình nhưng nó tồn tại vĩnh hằng, không bị chi phối, nó là thực thể bất khả
phân. Như khi ông nhìn xuống nước liền thốt lên rằng: “Nhìn kìa, cây Sồi dưới
nước kia mới là cây Sồi thật, còn cây Sồi mọc trên bờ kia chỉ là phản ánh của cây
Sồi dưới nước mà thôi”.
Như vậy theo quan niệm của Platông, cây Sồi trong ý niệm, phản chiếu
đằng sau là cái tồn tại. Còn cây Sồi mà chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường của
HVTH: TRẦN THỊ HOA 5
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
chúng ta mới là cây Sồi không tồn tại. Tóm lại, những gì có hình tượng ở thế
gian này theo ông là cái không tồn tại, ngược lại cái mà lưu lại trong tâm thức

của chúng ta là cái hằng tri, hằng giác. Đó là quan điểm nhận thức tồn tại và
không tồn tại của triết gia Platông.
2.2 Quan niệm về nhận thức
Platông không những giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học một
cách duy tâm khách quan mà khi giải quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết
học Platông cũng rơi vào quan niệm duy tâm, thần bí.
Theo Platông, đối tượng của nhận thức không phải là các sự vật cảm biến khách
quan bên ngoài, mà là thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính không phải là nguồn
gốc của tri thức, tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính,
được thể hiện ở các ý niệm. Mỗi sự vật đều có ý niệm về nó, sự vật có thể mất đi
nhưng ý niệm về sự vật thì không bao giờ mất đi, ví dụ: cái bàn có thể mục nát,
không còn là cái bàn nữa nhưng ý niệm về cái bàn (khái niệm bàn) thì không mất
đi. Như vậy bằng cách nào để có thể nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Đó
là “sự hồi tưởng lại (trực giác thần bí) của linh hồn bất tử (lý trí) về những gì nó
đã từng chiêm ngưỡng được trong thế giới ý niệm những lãng quên. Linh hồn
nhận thức bằng cách đàm thoại trực tiếp với nhau để làm thức tỉnh các ý niệm
trong bản thân mình. Tranh luận, sự va chạm giữa các ý kiến riêng khác hay thậm
chí trái ngược nhau để tiến đến sự thừa nhận những ý kiến chung; chúng là biện
pháp khám phá ra các ý niệm phổ biến, vĩnh hằng, chân thực, là công cụ để nhận
thức chân lý” [1, tr.108].
2.3 Quan niệm về đạo đức
Xuất phát từ đạo đức học duy lý, Platông cho rằng sống hạnh phúc là sống
có đạo đức. Sống có đạo đức là làm điều thiện. Hành vi hướng thiện là hành vi
không dựa trên khoái lạc, lợi thú chủ quan mà là hướng đến những ý tưởng tuyệt
đối khách quan thuộc về thế giới ý niệm ở trên trời, con người phải dùng lý trí để
HVTH: TRẦN THỊ HOA 6
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
chiêm nghiệm những ý tưởng và khắc phục những dục vọng thấp hèn để giúp
linh hồn thoát khỏi gông cùm của nhà tù thể xác [1, tr.108].

Vậy làm thế nào để phục hồi đạo đức đã mất? Platông cho rằng: Lý trí phải
dành lại quyền điều khiển các phần phi lý tính của bản ngã. Chỉ tri thức mới có
khả năng tạo ra đức hạnh, bởi vì chính sự ngu dốt hay tri thức sai lạc đã tạo ra cái
ác. Tri thức nằm sâu trong kí ức trí khôn. Những gì linh hồn biết trước kia bây
giờ nhớ lại. Nó di chuyển từ bóng tối ra ánh sáng, từ mê muội sang hiểu biết.
Phải có một tác nhân bên ngoài giúp linh hồn thức tỉnh, bắt linh hồn đứng dậy,
quay lại… và vươn tới ánh sáng. Khi trí khôn đi từ mức độ thấp lên cao, nó dần
nhớ lại những gì nó đã biết trước đây và cần thiết phải biết để đạt sự hòa hợp nội
tâm. Sự phát triển đạo đức song song với tri thức của người ấy, vì sự gia tăng tri
thức làm gia tăng tình yêu đối với chân, thiện và mỹ.
2.4 Quan niệm về chính trị - xã hội
a) Quan niệm Platông về Nhà nước
Theo Platông, Nhà nước là một hình thức xã hội tự nhiên của loài người, họ
hợp thành một Nhà nước để giúp đỡ lẫn nhau sống một cuộc đời tốt đẹp hơn và
họ thiết lập một giai cấp cai trị để đem lại lợi ích cho toàn thể đất nước. Một
nước là công bằng khi các thành viên của nước ấy thi hành đúng các chức năng
của mình. Như vậy, Nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng các nhu cầu của con người
và từ đó xuất hiện các dạng phân công lao động xã hội để thỏa mãn các nhu cầu
ấy. Vì vậy, trong xã hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau. Platông đưa
ra các thể chế chính trị quân chủ, quý tộc và dân chủ. Ông cho rằng, nếu quyền
lực Nhà nước thuộc về số đông thì xã hội không thể tránh khỏi rơi vào hỗn loạn,
bởi vì đám đông dân chúng vừa không có học thức lại dễ bị kích động, hơn nữa
nếu cho họ quyền lực thì họ sẽ đòi hỏi thoát ra khỏi vị trí của mình và như vậy
trật tự xã hội sẽ bị đảo lộn. Giải pháp lý tưởng mà Platông đưa ra là các nhà triết
học phải nắm quyền, khi đó xã hội mới đạt được lẽ công bằng, mọi người sẽ giữ
đúng phận vị của mình, vì chỉ có các nhà triết học mới có được tri thức và đức độ
để cai trị, khiến cho người bị cai trị bằng lòng với sự cai trị một cách tự giác.
HVTH: TRẦN THỊ HOA 7
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

b) Học thuyết Nhà nước lý tưởng của Platông
Một cộng đồng hay Nhà nước lý tưởng theo Platông phải bao gồm ba giai
cấp khác nhau tương ứng với ba thành phần của linh hồn con người. Ba giai cấp
này có các chức năng khác nhau và cùng thể hiện đức tính tốt trong cộng đồng
của Nhà nước. Platông đã gán những thành phần của linh hồn con người và phẩm
chất đạo đức tương ứng của chúng với một cơ thể xã hội, như vậy cá nhân khi
sống trong cộng đồng sẽ mất đi vai trò độc lập trong việc thể hiện mình như một
nhân cách. Platông đã biến mục đích thành phương tiện, lẽ ra con người mới là
mục đích mà Nhà nước phải hướng tới thì trái lại con người phải sống vì Nhà
nước.
Platông đặc biệt trú trọng đến việc giáo dục vì giáo dục là một phương pháp
nhằm bảo vệ và duy trì Nhà nước. Một nội dung rất quan trọng trong giáo dục là
giáo dục các triết gia, vì họ đảm trách công việc cai trị một cách lý tưởng. Những
môn học mà họ cần phải nắm được để có thể cai trị cộng đồng một cách hiệu quả
là toán học, thiên văn học, âm nhạc và trên hết là phép biện chứng.
2.5 Quan niệm về mỹ học
Dựa trên cơ sở thuyết ý niệm, Platông cho rằng cái đẹp là một ý niệm tồn tại
vĩnh viễn và nguồn gốc của nó nằm trong thế giới thần linh. Đặc biệt Platông đưa
ra một định nghĩa về cái đẹp đó là “Cái đẹp tồn tại vĩnh viễn, nó không tự xuất
hiện, không mất đi, không tăng thêm, không giảm đi, thậm chí nó không đẹp ở
nơi đây mà lại xấu ở nơi kia, không đẹp ở quan hệ này mà lại xấu ở điểm khác,
không đẹp đối với cái này và lại thô kệch đối với cái kia. Cái đẹp hiện ra không
như một vẻ mặt hoặc như một cánh tay, cũng không ở bất cứ phần nào của cơ
thể. Đẹp cũng không hiện ra như một lập luận hay một khoa học nào, cái đẹp là
tự nó …”. Như vậy với định nghĩa này của Platông đã khẳng định quan điểm duy
tâm khách quan về cái đẹp khi kéo nó lên thế giới của thần linh, siêu hiện thực,
bất biến, tồn tại vĩnh viễn.
HVTH: TRẦN THỊ HOA 8
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

CHƯƠNG II
NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ
CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI
I. Những giá trị của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại
1. Giá trị về mặt con người, nhận thức, đạo đức, giáo dục
Xã hội loài người với những biểu hiện phong phú và đa dạng, từ Xôcrát trở
đi con người trở thành chủ điểm của các cuộc tranh luận triết học. Con người vừa
là chủ thể vừa là đối tượng nghiên cứu. Chủ đề con người và thiết chế xã hội
dành cho con người được phân tích trong các công trình thẩm mỹ, nghệ thuật,
đạo đức và pháp quyền.
Các nhà triết học đã tập trung tranh luận về khả năng và giới hạn của nhận
thức, về các phương pháp, phương tiện nhận thức, về nguồn gốc, cơ sở và tiêu
chuẩn của chân lý. Bên cạnh việc đề cao lý trí, óc khám phá sáng tạo của con
người.
Với luận điểm nổi tiếng của Xôcrát “hãy nhận thức chính mình” có ý nghĩa
xây dựng nên những khái niệm về chuẩn mực đạo đức chung của con người. Đạo
đức đòi hỏi phải biết ý thức về cái thiện và đức hạnh nói chung. Nó phải trở
thành khoa học về sự hoàn thiện phẩm chất con người.
Thông qua học thuyết Nhà nước lý tưởng, Platông đề cao việc giáo dục và
tự giáo dục, coi đây là vấn đề vô cùng thiết yếu mà Nhà nước cần quan tâm. Điều
này luôn đúng, vì trong bất cứ một xã hội nào, con người cũng cần có tri thức và
đội ngũ tri thức là một thành phần không thể thiếu của một quốc gia vững mạnh.
2. Giá trị về chính trị – xã hội
Được thể hiện thông qua học thuyết Nhà nước lý tưởng, Platông đã kết luận
“Nhà triết học cần phải làm vua, hoặc người thống trị cần phải là nhà triết học”.
Có thể thấy Platông đã quá đề cao triết học và các triết gia. Song, trong thời đại
HVTH: TRẦN THỊ HOA 9
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
đó thì chỉ có các triết gia mới là nhà khoa học, nhà tri thức. Platông đã đem triết

học vào chính trị được đề cập mối quan hệ giữa triết học và thế giới hiện thực
hay nói cách khác chính trị cần phải dựa trên một hệ thống khái niệm, phạm trù
và những quy luật.
Theo Platông, các thể chế chính trị đã từng tồn tại không có được một nguyên
lý làm nền tảng nên không thể bền vững được. Một Nhà nước được tổ chức và
cai trị hợp lý thì sẽ bền vững, hưng thịnh nếu không thì sẽ tan rã rối loạn. Chỉ có
các triết gia mới nắm được nguyên lý đó, do vậy Nhà nước được cai trị bằng các
triết gia thì mới có thể đem lại sự công bằng.
3. Tạo động lực thúc đẩy khoa học của nhân loại phát triển
Tư tưởng triết học toán học của Platông là sự đồng nhất đối với nhận thức
luận của ông, đặc biệt là sự không thể tách rời đối với quan niệm lý tính do ông
đề xướng. Theo ông, đối tượng nghiên cứu của toán học phải là những quan hệ
vĩnh hằng bất biến trong thế giới quan niệm lý tính có thể nhận biết được, chứ
không phải là những biến động vô thường trong thế giới vật chất không thể cảm
thụ. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của toán học phải là những con số trừu tượng
và những hình vẽ lý tưởng [4, tr.207]. Ông chủ trương bồi dưỡng khả năng tư
duy lôgíc thông qua môn hình học, bởi vì hình học mang lại cho con người ấn
tượng trực quan, thể hiện sự trừu tượng của quy luật lôgíc trong các hình cụ thể.
Ở trước cửa Hàn Lâm viện, Platông đã cho viết những chữ sau: “Kẻ nào không
thông suốt hình học thì xin chớ vào đây”.
4. Bước đầu hình thành phép biện chứng – phép biện chứng chất phác
Bằng nghệ thuật đàm thoại, tranh luận; Xôcrát đã đóng góp cho nền triết
học phương Tây một phương pháp quan trọng là phương pháp truy vấn biện
chứng, được biết đến dưới tên gọi là “phương pháp Xôcrát” hay “phương pháp
bác bỏ bằng lôgíc” (elenchus). Ông đã áp dụng phương pháp này chủ yếu cho
việc kiểm nghiệm các khái niệm quan trọng về mặt đạo đức như cái thiện – cái
ác, cái tốt – cái xấu, … Để giải quyết một vấn đề, ông dẫn dắt người đối thoại
HVTH: TRẦN THỊ HOA 10
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ

đến với chân lý bằng tư duy lôgíc và khả năng biện luận thuyết phục, có cơ sở, có
chứng cứ. Đó là phép biện chứng của khái niệm hay biện chứng chủ quan [3,
tr.11]. Bằng thuyết ý niệm, các quan niệm triết học của Platông cũng chứa đựng
nhiều yếu tố biện chứng thông qua các khái niệm đối lập và phương pháp đối
chiếu những mặt đối lập, ông giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa vận động –
đứng im, hữu hạn – vô hạn, liên tục – gián đoạn, tồn tại – hư vô, … [3, tr.23].
II. Những hạn chế của chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại
1. Mang đầy màu sắc duy tâm và thần bí
Theo Arixtốt, về mặt bản thể luận, việc Platông chia thế giới ra thành thế
giới ý niệm và thế giới sự vật là thiếu cơ sở và đầy mâu thuẫn. Vì ý niệm là cái
tồn tại bên ngoài và độc lập với sự vật thì không thể làm bản chất cho sự vật
được. Hơn nữa, ý niệm là cái trừu tượng, phi cảm tính thì không thể làm khuôn
mẫu cho sự vật cảm biến được. Còn về mặt nhận thức luận, việc Platông coi ý
niệm là cái có trước và độc lập so với sự vật thì ý niệm cũng không thể được
dùng để nhận thức sự vật được. Arixtốt cho rằng bản chất phải nằm ngay trong
bản thân sự vật và phải được nhận thức của con người khái quát thành cái chung
dưới dạng khái niệm, quy luật, phạm trù. Khái niệm, quy luật, phạm trù không
phải là cái có trước, sinh ra và quyết định sự tồn tại của sự vật [1, tr.110].
Như vậy, chủ nghĩa duy tâm khách quan mang tính “duy tâm” là vì cho rằng
ý niệm là cái có trước, sản sinh ra giới tự nhiên và mang tính “thần bí” là vì nó
không thể giải thích được ý niệm đã sản sinh ra giới tự nhiên như thế nào và bằng
cách nào.
2. Quan niệm về đạo đức mang tính duy lý
Khi phủ nhận quan điểm của Platông coi hạnh phúc của con người gắn liền
với thế giới ý niệm, Arixtốt cho rằng phẩm hạnh của con người nếu có được nhờ
vào việc hiểu thấu và làm theo chân lý (hành động dựa theo cái tất yếu – phổ
biến, do thông qua giáo dục và đạo tạo) thì là phẩm hạnh lý tính; còn phẩm hạnh
của con người có được nhờ vào thói quen làm theo lẽ phải đời thường (hành
HVTH: TRẦN THỊ HOA 11
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
động dựa theo cái trung dung, tức là không thái quá, thông qua tập quán lâu đời
của cộng đồng) thì đó là phẩm hạnh luân lý [1, tr.114]. Theo Arixtốt: thứ nhất,
các thái độ ích kỷ hay hy sinh cực độ đều không có tác dụng đối với hầu hết mọi
người mà hãy tìm một biện pháp trung dung. Thứ hai, hành vi tốt không phải là
kết quả của cảm hứng đột ngột hoặc kìm chế khắc nghiệt, nó là một thói quen,
được điều kiện hoá chậm rãi và đều đặn. “Một con én không làm nên mùa xuân”
tức là chỉ một việc làm tốt thì không tạo ra tư cách đạo đức [5, tr.38].
Arixtốt cho rằng hạnh phúc thật sự của con người phải gắn liền với cuộc
sống trần gian, gắn liền với bản tính tự nhiên của mình. Hạnh phúc của con người
không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan như sự khôn ngoan của lý trí, đức
hạnh trong hành vi, sự khoái lạc trong trạng thái…mà còn bị chi phối bởi các
điều kiện khách quan như tiền bạc, sức khỏe, tình bạn, xã hội công bằng, … Như
vậy, theo Arixtốt, đời sống đạo đức, hạnh phúc của con người không nằm trong
thế giới ý niệm trên trời, mà nằm trong thế giới hiện thực dưới đất; đồng thời,
chúng cũng phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, nhu cầu của từng người trong
cộng đồng xã hội [1, tr.114].
3. Tạo nền tảng triết lý và trở thành công cụ của Thiên chúa giáo
Với ý niệm về thiên đàng và địa ngục cùng những huyền thoại mà Platông
đề ra, giáo hội Thiên chúa giáo đã áp dụng nhằm thực hiện nền đạo đức và các
thủ đoạn chính trị của mình. Cả nghìn năm dân chúng Châu Âu đã được cai trị
mà không cần dùng đến vũ lực, họ sẵn sàng chấp nhận sự cai trị ấy và không bao
giờ đòi hỏi tham gia trực tiếp vào bộ máy chính quyền [9, tr.20].
4. Quan niệm về chính trị - xã hội chứa đầy tính bảo thủ và mâu thuẫn
Platông đã phân loại con người thành những giai cấp không khác gì nhà côn
trùng học phân loại các côn trùng khi ông coi nô lệ không phải là con người mà
chỉ là “động vật biết nói”. Rõ ràng, thuật chính trị của Platông thiếu sự tế nhị
mềm dẻo, nó đề cao trật tự nhưng lại không đề cao sự tự do. [9, tr.21]
HVTH: TRẦN THỊ HOA 12
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA

VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Mô hình Nhà nước lý tưởng của Platông với việc thủ tiêu sở hữu tư nhân đã
được các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng tiếp thu để xây dựng một xã hội lý
tưởng. Họ đều chưa phân biệt được sự khác nhau giữa sở hữu tư nhân và chế độ
tư hữu, họ hoàn toàn không nhận thấy được vai trò của lợi ích cá nhân trong hoạt
động của con người.
Nhà nước lý tưởng của Platông chủ trương xóa bỏ gia đình, thiết lập chế độ
cộng đồng cả về tài sản và con người với quan niệm cần phải xóa bỏ sở hữu tư
nhân, phải xây dựng chế độ sở hữu công xã với tài sản chung, cha mẹ chung, con
cái chung, … tuy với một ý tưởng tốt nhưng Platông cũng đã ngấm ngầm phá vỡ
nền móng xã hội lý tưởng mà ông lập nên. Platông khinh thường sức mạnh của
tập tục đã được xây dựng lâu đời như phong tục độc thê và không tiên liệu được
tánh ghen tuông tự nhiên của đàn ông, tình mẫu tử của đàn bà. Khi ông muốn phá
vỡ đời sống gia đình, ông đã phá vỡ những điều kiện cho một nếp sống đạo đức.
Ngoài ra, chế độ cộng sản sẽ làm cho tinh thần trách nhiệm bị lu mờ, khi tất cả
của cải đều thuộc quyền sở hữu của tất cả mọi người thì sẽ không còn ai lo giữ
gìn của cải ấy. Nó buộc dân chúng sống cuộc đời tập thể nghĩa là giết chết sự độc
đáo cá nhân và sự tự do của đời tư [9, tr.20]. Như vậy có thể thấy được vì sao
Nhà nước lý tưởng của Platông đã không thoát khỏi phạm vi lý thuyết để bước
vào xã hội hiện thực.
5. Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, rời rạc, chưa được hệ thống hóa
Mối liên hệ giữa triết học với thần thoại và tôn giáo nguyên thủy đan xen
với những mầm mống của tri thức khoa học, phản ánh trình độ nhận thức chung
của xã hội. Sự ra đời của triết học không có nghĩa là kỷ nguyên thần thoại đã kết
thúc, mà những câu chuyện thần thoại dần dần được sử dụng vào mục đích thể
hiện nhân sinh quan, một triết lý sống. Những khái niệm có nguồn gốc thần thoại
đều được cải biến, duy lý hóa để làm sáng tỏ thêm tư tưởng của các triết gia.
Nietzsche cho rằng những nhà tư tưởng Hy Lạp đầu tiên là những con người hồn
nhiên và dũng cảm nhất, chấp nhận “cô đơn trong rạng rỡ hào quang”, sẵn sàng
dấn thân vào con đường khám phá sáng tạo. Những cuộc tranh luận tư tưởng dẫu

HVTH: TRẦN THỊ HOA 13
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
không đạt được kết quả cụ thể, song điều quan trọng là đã chứng minh khả năng
vô tận của con người [6, tr.19, 65, 70].
6. Tuyệt đối hóa vai trò của triết học
Trong bối cảnh trình độ nhận thức của con người còn tương đối thấp, tri
thức về mọi mặt chưa phát triển cao, nên triết học đóng vai trò là nhận thức lý
luận gần như duy nhất. Những lý giải về các vấn đề của các khoa học cụ thể vào
thời kỳ này còn trong tình trạng tản mạn, sơ khai, mang nặng tính trực quan, thực
nghiệm. Triết học được xem như “khoa học của các khoa học”, còn các triết gia
thì được tôn vình thành những nhà thông thái, đại diện cho trí tuệ xã hội. Trong
mô hình Nhà nước lý tưởng của Platông, các triết gia được đặt ở vị trí cao nhất.
Các tư tưởng đạo đức, chính trị, mỹ học, … đều được quy về tư tưởng triết học,
được hiểu như một phần của triết học. Quan điểm này đã tồn tại khá lâu và điều
này đưa đến chỗ các nhà triết học nhận thức lý luận là cái vượt lên trên hoạt động
thực tiễn, biết thành “nhận thức để nhận thức”, “nhận thức tự thân”, đối lập với
thực tiễn.
7. Phép biện chứng duy tâm
Theo Xôcrát, ý thức về sự vật của những người trong đàm thoại, ngoài
những yếu tố chủ quan còn có nội dung khách quan, có tri thức phổ biến mang
tính tổng quát. Ông cho rằng nếu không hiểu cái chung, cái phổ biến thì người ta
không thể phân biệt cái thiện – cái ác, cái tốt – cái xấu. Song, muốn phát hiện ra
cái thiện phổ biến thì phải có phương pháp tìm ra chân lý thông qua các cuộc
tranh luận, tọa đàm, luận chiến. Đây chính là yếu tố biện chứng trong triết học
Xôcrát nhưng nó lại dựa trên lập trường duy tâm vì Xôcrát cho rằng giới tự nhiên
là do thần thánh an bài. Còn Platông cũng thừa nhận sự vận động của thế giới,
song đó chỉ là vận động theo sự điều khiển của ý niệm. Đó là biện chứng duy tâm
– biện chứng của các khái niệm, tách rời hiện thực, chỉ nhận thức bằng tư duy
thuần túy.

HVTH: TRẦN THỊ HOA 14
CHỦ NGHĨA DUY TÂM KHÁCH QUAN HY LẠP CỔ ĐẠI GVHD: TS.BÙI VĂN MƯA
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
KẾT LUẬN
Những tư tưởng triết học của Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại
là tài sản tinh thần có giá trị quý báu không chỉ trong thời cổ đại mà còn cả các
giai đoạn lịch sử sau này, mà các triết gia tiêu biểu có đóng góp nổi bật là Xôcrát
và Platông.
Nếu ở Xôcrát, triết học không có gì khác hơn là sự nhận thức của con người
về chính mình, con người đã trở thành chủ đề trọng tâm của triết học. Rồi từ đó,
đạo đức và tri thức thống nhất làm một, làm cho con người sống đúng với tư cách
và phận vị của mình. Sự đóng góp này của ông đã tạo nên một bước chuyển mới
trong nền triết học – từ nguyên lý vũ trụ sang nguyên lý nhân minh. Còn ở triết
học của Platông, lần đầu tiên những quan điểm của triết học đã được hệ thống
hóa và đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó nổi bật là học thuyết ý niệm và linh
hồn, học thuyết Nhà nước lý tưởng, đạo đức học, … và “phép biện chứng”.
Mặc dù thông qua các tư tưởng đó, có thể thấy đầy sự phức tạp và mâu
thuẫn. Vì một mặt nó chứa đựng những yếu tố thần bí và phản khoa học nhưng
mặt khác nó chứa đựng những tư tưởng và luận chứng tinh tế, có tinh thần phê
phán sâu sắc và cung cấp cho khoa học giá trị về mặt tư tưởng. Vì thế mà các tư
tưởng của Chủ nghĩa duy tâm khách quan Hy Lạp cổ đại vẫn còn nguyên giá trị
và được xem như những viên gạch đầu tiên xây dựng nên toàn bộ ngôi nhà văn
minh của Châu Âu ngày nay, C.Mác đã nói “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy
Lạp cổ đại”.
HVTH: TRẦN THỊ HOA 15
CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo
[1]: Bùi Văn Mưa chủ biên, Triết học – Phần 1 – Đại cương về lịch sử triết học (tài
liệu dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết
học của trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh), 2011.

[2]: C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội,
1994.
[3]: Đinh Ngọc Thạch, Lịch sử triết học phương Tây (dùng cho học viên cao học
không thuộc chuyên ngành triết học của trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn – Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh), 2010.
[4]: Edward McNall Burns, Văn minh phương Tây - Lịch sử và văn hóa, NXB Từ
điển bách khoa, 2010.
[5]: Norman F.Cantor, Nền văn minh thế giới cổ đại, Kiến Văn và Khắc Vinh biên
dịch, NXB Lao động xã hội, 2008.
[6]: Nietzsche, Triết lý Hy Lạp thời bi kich, Trần Xuân Khiêm biên dịch, NXB Tân
An, 1975.
[7]: Tô Mộng Vi, Tìm lại nền văn minh Hy Lạp cổ đại, Nguyễn Kim Dân biên dịch,
NXB Lao động, 2010.
[8]: Vũ Dương Minh chủ biên, Lịch sử văn minh thế giới cổ đại, NXB Giáo dục
Việt Nam, 2011.
[9]: Will Durant, Câu chuyện triết học, Trí Hải và Bửu Đích biên dịch, NXB Văn
hóa thông tin, 2008.
Website tham khảo
[10]: Phan Thị Cam, Cuộc đời và nội dung triết học của Platon,
/>dhoi-va-noi-dung-triet-hoc-cua-platon.
[11]: Wikipedia, />

×