Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-
THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
-
Mã số: 60.42.01.20
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS.
THÁI NGUYÊN - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận án này là hoàn toàn trung thực và chưa từng
được ai công bố, sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Các thông tin, tài liệu trích
dẫn trong luận án này đã được ghi rõ nguồn gốc.
4 năm 2014
Tác giả
Phạm Thị Tuyết Mai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi luôn nhận
được sự giúp đỡ quý báu, sự chỉ bảo tận tình của các thầy hướng dẫn PGS.TS.
Hoàng Chung trong suốt qúa trình thực hiện luận án. Nhân dịp hoàn thành luận
án này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các thầy hướng dẫn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự quan tâm giúp đỡ của
các thầy PGS.TS Lê Ngọc Công cùng toàn thể các thầy cô giáo, cán bộ, nhân
viên khoa Sinh - KTNN, khoa sau đại học - Đại học sư phạm Thái Nguyên đã
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đối với Ban lãnh đạo và các cán bộ viên
chức của các đơn vị: Trung tâm Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển chăn nuôi
miền núi đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ nhiệt tình cho tôi trong quá trình
thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, người thân đã tạo điều kiện,
động viên tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn
Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về thời gian, kinh phí
cũng như trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những sai sót. Rất mong
nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học và
bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Thái Nguyên, 15 tháng 4 năm 2014
Tác giả
Phạm Thị Tuyết Mai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC CÁC BẢNG v
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ vi
MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Đặc tính cỏ hòa thảo 3
1.1.1. Đặc tính sinh thái 3
1.1.2. Đặc tính sinh vật học 4
1.1.3. Đặc tính sinh lý 5
1.1.4. Đặc tính sinh trưởng 6
1.1.5. Sức sống cỏ hòa thảo 11
1.1.6. Sản lượng chất xanh 12
1.1.7. Giá trị kinh tế của cỏ hòa thảo 13
1.2. Lý do phải trồng cây thức ăn cho chăn nuôi trong hệ thống nông
nghiệp bền vững ở nông hộ 14
1.3. Đặc điểm giống cỏ làm thí nghiệm - cỏ voi (Pennisetum purpureum) 15
1.3.1. Nguồn gốc 15
1.3.2. Đặc điểm sinh vật học 15
1.3.3. Đặc tính sinh thái học 15
1.3.4. Tính năng sản xuất 16
1.3.5. Sử dụng 17
1.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
1.4.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn chăn nuôi trên thế giới 18
1.4.1.1. Tình hình phát triển cây thức ăn ở các nước trên thế giới 18
1.4.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới 20
1.4.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn ở Việt Nam 21
1.4.2.1. Tình hình phát triển cây thức ăn cho gia súc ở nước ta 21
1.4.2.2. Những kết quả nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi 23
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU 29
2.1. Một vài nét về điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu 29
2.1.1. Vị trí địa lý, danh giới 29
2.1.2. Điều kiện về khí hậu 29
2.1.3. Điều kiện về địa hình, đất đai, giao thông, thuỷ lợi 30
2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 31
Chƣơng 3: , NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 32
3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu 32
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 32
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu 32
3.1.3. Thời gian nghiên cứu 32
3.2. Nội dung nghiên cứu 32
3.3. Phương pháp nghiên cứu 32
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên 32
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 38
3.3.3. Phương pháp xử lý và phân tích mẫu 39
3.3.4. Phương pháp tính toán và xử lý số liệu 39
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 39
4.1. Đặc điểm khí hậu và đất khu vực thí nghiệm 39
4.1.1. Đặc điểm khí hậu 39
4.1.2. Đặc điểm đất đai 41
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
4.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của nước đến khả năng sinh trưởng, tái sinh
của cỏ voi 44
4.2.1. Tốc độ sinh trưởng của giống cỏ nghiên cứu 45
4.2.2. Khả năng đẻ nhánh của giống cỏ nghiên cứu 46
4.2.3. Tốc độ tái sinh của giống cỏ nghiên cứu 47
4.2.4. Chiều cao thảm cỏ ở các lứa cắt 48
4.2.5. Theo dõi số cây chết trên 2 ô 49
4.3. Năng suất giống cỏ nghiên cứu 50
4.3.1. Năng suất và cấu trúc năng suất phần trên mặt đất 50
4.3.1.1. Năng suất chất xanh 50
4.3.1.2. Năng suất vật chất khô 52
4.3.1.3. Cấu trúc năng suất phần trên mặt đất của giống cỏ nghiên cứu 54
4.3.2. Năng suất phần dưới mặt đất 57
60
64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 66
1. Kết luận 66
2. Kiến nghị 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CIAT : Center of International Tropical Agriculture
CP : Protein thô
CS : Cộng sự
KL : Khối lượng
NS : Năng suất
NSCX : Năng suất chất xanh
SL : Sản lượng
TB : Trung bình
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
TS : Tổng số
VCK : Vật chất khô
ĐC : Đối chứng
TN : Thí nghiệm
DTL : Diện tích lá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Ảnh hưởng tuổi thu cắt đến năng suất (tấn/ha) và tỷ lệ chất
khô (%) của cỏ voi 16
Bảng 1.2. Năng suất cỏ voi thay đổi theo tuổi thu hoạch 16
Bảng 1.3. Năng suất cỏ voi thay đổi theo mùa 17
Bảng 1.4. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng 17
Bảng 1.5. Năng suất của các giống cỏ hòa thảo (tấn/ha/năm) 23
Bảng 4.1. Điều kiện khí hậu vùng nghiên cứu trong thời gian thí nghiệm 40
Bảng 4.2. Thành phần hóa học của đất thí nghiệm 42
Bảng 4.3. Lượng nước trong 100g đất tát ngập nước và đất ô TN 43
Bảng 4.4. Tốc độ sinh trưởng của cỏ theo giai đoạn (cm/ngày đêm) 46
Bảng 4.5. ) 47
Bảng 4.6. Khả năng tái sinh của cỏ sau 1 lứa cắt (cm/ngày đêm) 48
Bảng 4.7. Chiều cao thảm cỏ của các lứa cắt (cm) 48
Bảng 4.8. Năng suất chất xanh của cỏ voi (kg/m
2
/lứa) 50
Bảng 4.9. Năng suất VCK của cỏ nghiên cứu (kg/m
2
) 52
Bảng 4.10. Tỷ lệ % năng suất vật chất khô/ năng suất chất xanh của
cỏ voi 54
Bảng 4.11. Tỷ lệ thân lá của cỏ voi qua các lứa cắt 55
Bảng 4.12. Diện tích bề mặt lá của cỏ voi (m
2
/m
2
đất/lứa) 56
Bảng 4.13. Năng suất phần dưới mặt đất của cỏ voi 57
(kg/m
2
) 60
4.15. D 63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 3.1. Hình vẽ mô tả phương pháp lấy khối đất rửa lấy rễ 36
ươ 37
51
Hình 4.2. Biểu đồ năng suất tươi phần dưới mặt đất của cỏ voi 58
63
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, hơn nửa diện tích
nước ta trải dài trên nhiều vĩ độ. Đa dạng về khí hậu, địa hình cho nên Việt
Nam là nước giàu tài nguyên, thành phần thực vật đa dạng, phong phú.Thảm
thực vật cơ bản thuộc “rừng mưa nhiệt đới, không có đồng cỏ và savan như các
nước ôn đới hay Châu Phi nhiệt đới.
Khi nghiên cứu về đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam, PGS.TS Hoàng
Chung (1999) cho biết: Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam là loại hình thứ
sinh, phân bố rải rác hay tập trung thành vùng 2 đai nhiệt đới và á nhiệt đới.
Các quần xã cỏ và cây bụi được hình thành trên những quần xã bị chặt phá.
Như vậy, thảm cỏ đã hình thành với những cây hòa thảo, cỏ tạp và cây bụi.
Hiện nay đồng cỏ tự nhiên đang suy giảm nghiêm trọng về diện tích và
chất lượng do đốt đồng cỏ, chăn thả gia súc tự do…làm cho cỏ tốt mất dần đi,
các loài cỏ dại, cỏ cứng, cây bụi…lan rộng dần. Đồng cỏ tự nhiên bị thoái hóa
nghiêm trọng. Từ thực tế đó để đảm bảo nuôi dưỡng đàn gia súc hiện có và
phát huy khả năng của các giống gia súc nhập nội được lai tạo với tính năng
sản xuất cao, ta cần có giải pháp tích cực để giải quyết vấn đề thức ăn trong
chăn nuôi.
Trong những năm gần đây, với các chương trình phát triển khoa học kĩ
thuật và hợp tác chăn nuôi với các tổ chức quốc tế, nước ta đã nhập hàng trăm
cây thức ăn hòa thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới từ các chương trình
CSIO, CIAT từ các nước như Philipin, Inđônêxia, Thái Lan. Một số giống cỏ
nhập nội đã được đánh giá ban đầu là đạt kết quả tốt. Một trong số đó phải kể
đến là giống cỏ voi.
Thái Nguyên là vùng trung du miền núi trong mấy năm gần đây nông
dân ở khắp các huyện thị đã tiến hành trồng cỏ voi để chăn nuôi gia súc. Trong
đó có một số cơ sở lớn như trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền
núi - Viện chăn nuôi, nơi đã và đang cung cấp không những cỏ voi mà còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
nhiều giống cỏ trồng cho nông dân trong và ngoài tỉnh.
Để tạo ra các đồng cỏ có năng suất cao, chất lượng cao cần có biện pháp
chăm sóc hợp lý như là bón phân, tưới nước. Để cỏ sinh trưởng và phát triển tốt
nhất thì cần đảm bảo đất phải có độ ẩm hợp lý. Theo Andreef, với đồng cỏ độ
ẩm hợp lý của môi trường đất là 70 - 80% của độ ẩm bão hòa. Cỏ voi là loài cỏ
nhiều năm, nhưng do khai thác và môi trường sống khắc nghiệt nên trong quá
trình khai thác cỏ chết nhiểu ngay từ những năm đầu vì thế năng suất giảm
mạnh nên hiện nay cỏ trồng tại trại ngựa Bá Vân chỉ khai thác khoảng 4 năm
rồi cũng phải trồng lại. Với ý đồ kéo dài khả năng sản suất của chúng, chúng tôi
ngoài tiến hành bón phân định kỳ như đã làm thì còn cung cấp đủ độ ẩm cho cỏ
và theo dõi sự sinh trưởng, phát triển của cỏ năm cuối ngoài chu kỳ khai thác.
Xuất phát từ cơ sở trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh
hưởng của độ ẩm đến khả năng kéo dài tuổi khai thác của cỏ voi tại Bá Vân
- Thái Nguyên”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò của độ ẩm đất trong một giới hạn xác
định ảnh hưởng và tác động đến sự sinh trưởng, phát triển của cỏ voi năm cuối
ngoài chu kỳ khai thác. Từ đó có những biện pháp chăm sóc, tưới tiêu hợp lý để
kéo dài tuổi khai thác của cỏ voi tại Bá Vân - Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc tính cỏ hòa thảo
Cỏ hòa thảo chỉ có một họ duy nhất là họ hòa thảo và có 28 họ phụ, 563
chi, 6902 loài (Võ Văn Chi và Dương Đức Tiến)[2]. Cỏ hòa thảo thường chiếm
phần lớn trong đồng cỏ 95 - 98% và trong khẩu phần ăn của gia súc nhai lại
chiếm 70-80%. Ở nước ta, cỏ hoà thảo chiếm vị trí quan trọng trong nguồn thức
ăn xanh của gia súc ăn cỏ, vì nó chiếm 95 - 98 % trong thảm cỏ (Từ Quang
Hiển và CS, 2002) [12]. Hanson, (1972) [45] cho biết, có gần 75 % cỏ được
trồng ở vùng đất trồng cỏ là loài hòa thảo. Cỏ hòa thảo chiếm phần lớn trong
đồng cỏ tự nhiên. Riêng ở Mỹ có gần 1500 loài hòa thảo.
Cỏ hòa thảo trồng nói chung là những loại cỏ đã được nghiên cứu lai tạo
hay tuyển chọn từ tự nhiên, với mục đích tạo ra các giống cho năng suất cao,
chất lượng tốt, thích nghi với điều kiện tự nhiên và điều kiện canh tác ở một
vùng hay khu vực nào đó.
1.1.1. Đặc tính sinh thái
Thuộc vào đặc điểm sinh thái học là các mối quan hệ riêng biệt của thực
vật với từng yếu tố sinh thái cũng như ảnh hưởng của thực vật trên nơi sống.
Cỏ hòa thảo có khả năng phân bố rộng rãi, có thể thích ứng được ở nhiều
vùng và trong những điều kiện đất đai khác nhau.
Cỏ hòa thảo có thể sinh trưởng được ở vùng đất khô, mùa khô kéo dài,
độ ảm trung bình 20 - 30%, mùa đông nhiệt độ thấp nhưng chúng vẫn có thể
sinh trưởng và phát triển được như cỏ xương cá, cỏ lông đồi, cỏ Andropogon,
cỏ Braciaria decumbens,…
Có loài sinh trưởng ở vùng ẩm thấp, độ ẩm từ 60-80%, có loài lại có khả
năng sinh trưởng được ở những nơi đất lầy thụt ngập nước như cỏ môi, cỏ bấc,
cỏ lông para…[14]. Một số loài lại sống được ở nơi đất chua, số khác sống ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
nơi đất mặn.
Như vậy có thể nói thực vật trong đồng cỏ tồn tại trong những điều kiện
khác nhau của các yếu tố sinh thái cơ bản trong vùng và khác nhau ở cả hai
phần trên và dưới mặt đất (ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, muối khoáng, CO
2
…) nó
biểu thị rõ rệt theo chiều thẳng đứng và chiều nằm ngang.
1.1.2. Đặc tính sinh vật học
Cỏ hòa thảo là cây một lá mầm (đơn tử diệp) thân tròn hoặc bầu dục (tùy
theo giống) lá mọc thành hai dãy, phần lớn không có cuống nhưng bẹ to, có
thìa lìa, phiến lá dài, gân song song, thân cỏ thuộc loại thân rạ, rỗng(trừ mấu
đốt). Cũng có loài thân đặc như cỏ voi, rễ thuộc loại rễ chùm, hoa phần lớn là
lưỡng tính thích ứng với lối thụ phấn nhờ gió.(Võ Văn Chi và Dương Đức
Tiến, 1976) [2]
Căn cứ vào hình dáng của thân và đặc điểm sinh trưởng, người ta chia cỏ
thảo thành các loại sau:
+ Loại thân rễ: Loại thân này nằm dưới mặt đất, chia nhánh dưới mặt đất
đại diện là cỏ tranh (Imperata cylindrica) loại này yêu cầu đất tơi xốp, mật độ
cỏ thưa, độ che phủ có thể trồng làm đồng cỏ chăn thả.
+ Loại thân búi: Loại thân này từ gốc đẻ ra nhiều nhánh tạo thành búi
như khóm lúa, bộ rễ phát triển mạnh, nhánh có thể đẻ ra từ dưới mặt đất hoặc
trên mặt đất, cỏ này cho năng suất cao ở những nơi đất tơi xốp và thoáng khí,
đại diện là cỏ Ghinê (Panicum maximum).
+ Loại thân bò: cỏ này thân nhỏ và mềm chính vì vậy thường nằm ngả
trên mặt đất do thân bò lan nhanh nên có khả năng tạo thành một thảm cỏ dày
che phủ kín mặt đất, đại diện là cỏ pangola, lông para, cỏ thân bò cho năng suất
thấp thường dùng để chăn thả hoặc cắt làm cỏ phơi khô, dự trữ cho gia súc vào
mùa đông.
+ Loại thân đứng: Loại này mọc mầm từ phần dưới gốc ở dưới mặt đất
hoặc hom trồng, mầm vươn thẳng nên giống cây mía. Thân cây to có năng suất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
cao, đại diện là cây cỏ voi (Pennisetum Purpureum).
1.1.3. Đặc tính sinh lý
* Nhu cầu về nước:
Nước đóng góp vào sự phong hóa, giữ vai trò quan trọng cho sự phát
triển của thực vật cũng như các vi sinh vật đất. Cỏ hòa thảo yêu cầu nước cao
do bộ lá lớn, hệ số tỏa hơi nước lớn hơn họ đậu. Hệ số tỏa hơi nước vào khoảng
400 - 500 gram, trong khi cỏ họ đậu là 214 - 216 gram.
Theo N.G Andreep(1974) với đồng cỏ có độ ẩm đất khoảng 70%, một
tháng 10m
2
cỏ bay hơi khoảng 1m
3
nước, trong 5 tháng sẽ có 50 tạ cỏ khô. Trên
cơ sở đó chúng tôi xác định công thức tưới nước vào mùa đông.
Như vậy, chế độ nước của các sinh địa quần lạc cỏ trong một vùng khí
hậu xác định phụ thuộc địa thế của đồng cỏ và thành phần cơ giới của đất như
đất bằng, đất trũng, đất dốc, đất thấp hay bãi bồi…
Độ ẩm của đất cũng yêu cầu theo từng giai đoạn trong đời sống của cây:
Từ nảy mầm đến lúc chia nhánh: 25 - 30%
Giai đoạn phát triển cành: 75%
Cuối thời kỳ sinh trưởng nhu cầu nước giảm dần
(Trịnh Văn Thịnh và cộng sự, 1974)[23]
* Nhu cầu về dinh dưỡng
Cỏ hòa thảo đòi hỏi đất tốt, giàu mùn và đạm, lân, kaly. Nhu cầu về dinh
dưỡng cũng chia theo từng giai đoạn.
Giai đoạn 1 (nẩy mầm - phân nhánh) cần nhiều đạm, lân, kaly.
Giai đoạn 2 (phân nhánh) cần nhiều đạm, lân.
Giai đoạn 3 (ra hoa hình thành hạt) cần nhiều lân và kaly.
Cỏ càng cho năng suất cao thì yêu cầu lượng phân bón càng lớn.
(Nguyễn Đăng Khôi, Dương Hữu Thời, 1981)[14]
Trong đồng cỏ người ta thấy có sự quan hệ rõ rết giữa việc bón phân đạm
và số chồi có hoa. Trong điều kiện có bón đạm vào mùa xuân số chồi sinh sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
tăng lên. Bón phân tưới nước cũng làm tăng số chồi của cây cỏ loại nhiều chồi.
Quan hệ với phân cũng vậy, cỏ Pleum pratens không có phân bón thì có
605 chồi trên đơn vị diện tích, có 19% số chồi có hoa, nếu bón phân NPK có
790 chồi trong đó có 35% chồi có hoa (Rabốtnốp. T.A, 1984)[48].
Trong đất nghèo không có phân bón thì đời sống thường kéo dài không
quá 3 - 5 năm. Trên đất phì nhiêu hay thường xuyên có phân bón thì dời sống
của cỏ có thể kéo dài hơn.
1.1.4. Đặc tính sinh trưởng
Theo David và cs, (1993) [41] thì hiệu quả của cỏ là biến đổi năng lượng
mặt trời thành lá xanh để động vật có khả năng thu nhận năng lượng này. Tuy
nhiên, sử dụng năng lượng từ lá lại phụ thuộc vào chu kỳ phát triển của cây.
Các loài cỏ nói chung và cỏ hòa thảo nói riêng, sinh trưởng và tái sinh đều trải
qua ba giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có đặc điểm riêng như sau:
Giai đoạn I (sinh trưởng chậm): xảy ra sau khi cây cỏ mới bị chăn thả,
thu cắt hay mới gieo trồng. Sau khi thu cắt, lá mất đi nên cây không có khả
năng thu nhận ánh sáng mặt trời. Trong khi đó, cây đòi hỏi nhiều năng lượng để
phát triển. Vì vậy, để bù lại sự thiếu hụt đó, năng lượng được huy động từ rễ.
Rễ trở nên nhỏ đi và yếu hơn, vì năng lượng được sử dụng để phát triển lá.
Chính vì vậy, khi cây bị ngập úng vào giai đoạn này, cỏ sẽ rất dễ chết, do lá để
thoát hơi nước không có, còn rễ thì yếu nên dễ bị tổn thương dẫn đến thối rễ.
Cây cỏ ở trong giai đoạn I sinh trưởng rất chậm, năng suất thấp, nhưng lá
mềm, ngon miệng và có giá trị dinh dưỡng cao.
Giai đoạn II (sinh trưởng nhanh): là giai đoạn từ sau khi gieo trồng hoặc
sau khi thu cắt hay sau chăn thả từ 10 - 15 ngày trở đi. Khi tái sinh đạt tới 1/4
hay 1/3 kích thước của cây trưởng thành, năng lượng được hấp thu đủ qua quá
trình quang hợp để cung cấp cho sự phát triển và bắt đầu bổ sung cho rễ. Đây là
thời gian cỏ phát triển nhanh nhất. Trong giai đoạn này, lá chứa đủ protein và
năng lượng thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cho gia súc và cỏ có chất lượng dinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
dưỡng cao.
Giai đoạn III (sinh trưởng chậm hoặc ngừng hẳn): Là giai đoạn từ sau khi
gieo trồng hoặc sau khi chăn thả, sau khi cắt cỏ khoảng 40 - 70 ngày (Đoàn Ẩn
và Võ Văn Trị, 1976) [1]. Cây tiếp tục phát triển, nhưng lá ngày càng trở nên
nhạt dần, lá ở phần gốc chết đi và bị phân huỷ. Lá sử dụng nhiều năng lượng để
hô hấp hơn là chúng có thể tạo ra từ quang hợp. Ở giai đoạn 3, cỏ có phần thân
chiếm đa số và nhiều xơ. Năng suất và hàm lượng các chất dinh dưỡng trong cỏ
cao, tuy nhiên, tỷ lệ cỏ được sử dụng (gia súc ăn) và khả năng tiêu hoá của gia
súc đối với lá và thân cây giai đoạn này thấp dần.
Căn cứ vào đặc điểm sinh trưởng của từng giống theo từng giai đoạn để
chúng ta định ra thời gian chăm sóc và thu cắt hợp lý.
Giai đoạn I và đầu giai đoạn II, cần chăm sóc, xới xáo, diệt cỏ dại và bón
thúc phân cho cỏ.
Cuối giai đoạn II, đầu giai đoạn III, cần nhanh chóng thu cắt hoặc chăn
thả, vì lúc này năng lượng thu được từ đồng cỏ là cao nhất. Nếu không thu
hoạch ngay, cỏ sẽ già, lá mất mầu dần, hiệu suất quang hợp kém nên giá trị
dinh dưỡng giảm dần, ảnh hưởng đến khả năng tái sinh lần sau và giảm số lứa
cắt hay số lần chăn thả trên năm. Còn nếu thu hoạch non, năng suất sẽ thấp,
đồng thời nếu thu hoạch quá nhiều lứa trên năm, thì dự trữ các chất dinh dưỡng
và khoáng ở phần gốc và rễ để phát triển cành lá sẽ bị cạn kiệt, đồng cỏ chóng
bị tàn lụi. Vì vậy, cần có thời gian nghỉ (khoảng cách cắt hoặc chăn thả) hợp lý
để duy trì nhiệm kỳ sử dụng cỏ lâu dài.
Không cho động vật gặm hay cắt cỏ quá thấp để tránh cỏ bị quay lại giai
đoạn I và tồn tại ở giai đoạn này lâu, do tái sinh rất chậm nên sẽ làm giảm tổng
sản lượng cỏ.
* Đặc tính sinh trưởng của thân và lá
Sau khi nẩy mầm, khối lượng vật chất khô (VCK) của hạt sẽ giảm dần,
do chất dự trữ ở hạt được sử dụng cho quá trình nẩy mầm. Sinh trưởng lúc này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
chậm. Khi lá xanh xuất hiện, cây non bắt đầu hoạt động quang hợp, sự sinh
trưởng bắt đầu tăng dần. Đến gần giai đoạn trưởng thành thì sinh trưởng giảm
dần và ngừng hẳn, cũng có khi ở giai đoạn này khối lượng VCK của cây bị
giảm đi.
Lá non của cỏ non phát triển từ lá chồi mầm tạo ra ở đỉnh mô phân sinh.
Hầu hết các tế bào của lá được cấu tạo trong khi lá còn rất nhỏ trong chồi. Kết
quả sinh trưởng của lá là sự mở rộng của kích cỡ tế bào và tăng khối lượng. Lá
mới sinh lấy cacbohydrate từ rễ, thân hay từ lá già cho tới khi chúng hoàn thiện
và do đòi hỏi phải sinh trưởng, nên chúng đồng hóa các sản phẩm dự trữ được
từ rễ, lá, gốc để hình thành lá mới.
Có rất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cỏ như
giá trị của phẩm giống hay các yếu tố khí hậu, thời tiết, đất đai Trong các yếu
tố đó, thì ánh sáng, nhiệt độ, nước và chất dinh dưỡng có trong đất là các yếu tố
chủ yếu ảnh hưởng tới đời sống của cỏ.
Tất cả quá trình sinh lý thực vật đều bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ. Nhiệt độ
có ảnh hưởng trực tiếp tới sinh trưởng của cây, nhiệt độ tăng (nằm trong nhiệt
độ tới hạn) thì sinh trưởng tăng và khi nhiệt độ giảm thì sinh trưởng chậm lại.
Nếu tăng nhiệt độ tới giới hạn nhất định có tác dụng thúc đẩy quá trình hấp thu
chất khoáng của rễ . Theo Bogdan, (1977) [36] nhiệt độ thấp nhất để cỏ nhiệt
đới nẩy mầm là 15 - 20
0
C và tối ưu là 25 - 35
0
C. Nhiệt độ tối ưu cho cỏ ôn đới
quang hợp là 15 - 20
0
C và cỏ nhiệt đới là 30 - 40
0
C. Sự hình thành diệp lục bắt
đầu khi nhiệt độ lớn hơn 10 - 15
0
C.
Cây thức ăn gia súc sinh trưởng tốt nhất trong biên độ nhiệt độ ban ngày
hẹp từ 7,2
0
C đến 35
0
C. Nhiệt độ thích hợp cho đẻ nhánh con của cỏ nhiệt đới
thường nhỏ hơn nhiệt độ thích hợp cho nhánh sinh trưởng. Ở nhiệt độ thấp dưới
10
0
C cây cỏ nhiệt đới có hiện tượng úa vàng, sau đó chết, do diệp lục bị phá
hủy. Chính vì vậy, ở các vùng núi cao và xa xích đạo, thì giá lạnh và sương
muối là yếu tố giới hạn đối với các giống cây thức ăn có nguồn gốc từ vùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
nhiệt đới (McWilliam, 1978) [49].
Hầu hết cỏ hòa thảo có nhiệt độ tối thích hợp cho sinh trưởng khoảng
20
0
C, nhưng vẫn có thể sinh trưởng ở nhiệt độ thấp hơn.
Nếu nhiệt độ tăng, tỷ lệ tiêu hóa được của cỏ và tỷ lệ cacbohydrate phi
cấu trúc giảm, nhưng thường thì tỷ lệ chất khoáng và protein tăng. Vì vậy, nhiệt
độ hay thời gian thu hoạch cỏ trong năm sẽ ảnh hưởng tới giá trị dinh dưỡng
của thức ăn.
Ẩm độ hay lượng nước trong đất có ý nghĩa đặc biệt đối với đời sống cây
trồng. Đây là yếu tố cần thiết, căn bản, không thể thay thế trong đời sống cây
trồng. Lượng nước trong đất ít hay nhiều đều ảnh hưởng tới độ thoáng khí của
đất và việc cung cấp dinh dưỡng, chế độ quang hợp, chế độ thoát hơi nước để
thực vật không bị nóng quá điều đó ảnh hưởng tới năng suất, sinh trưởng và
chất lượng cây trồng. Nước còn quy định sự điều hòa nhiệt từ đất và thực vật
thông qua hiện tượng bốc hơi và phát tán. Nước cũng liên quan chặt chẽ tới các
tính chất cơ lý tính của đất, như độ rắn, tính dính, tính dẻo sự di chuyển nước
trên mặt đất có ảnh hưởng xấu tới độ phì của đất, vì nó làm rửa trôi các chất
dinh dưỡng của đất hay làm xói mòn mặt đất (Vụ Tuyên Giáo, 1975) [32].
Nhiệt lượng từ mặt trời quyết định mọi hoạt động sống của thực vật, còn
ánh sáng mặt trời là nhân tố cần thiết để thực vật tạo ra chất hữu cơ do quá trình
quang hợp.
Người ta đã nhận thấy rằng lá của cây cỏ họ đậu và cây hòa thảo vùng
lạnh nhanh bão hòa ánh sáng ở cường độ ánh sáng yếu hơn là cỏ hòa thảo nhiệt
đới. Bão hòa ánh sáng của cây hòa thảo vùng lạnh xảy ra xung quanh khoảng từ
20.000 - 30.000 lux, trong khi đó cỏ hòa thảo nhiệt đới sẽ bão hòa ánh sáng ở
60.000 lux (Smith, 1970) [51]. Sự chuyển hóa của năng lượng ánh sáng khoảng
5 - 6 % ở cỏ hòa thảo nhiệt đới, nhưng cỏ hòa thảo ôn đới là dưới 3 %. Vì vậy,
cỏ hòa thảo nhiệt đới có tiềm năng lớn trong sử dụng ánh sáng cho quang hợp.
Khi cường độ ánh sáng cao trên mức bão hòa, thì lá có chiều hướng nhỏ đi,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
lóng ngắn lại, tổng chiều cao cũng giảm đi và rễ lớn hơn so với cỏ sinh trưởng
trong điều kiện cường độ ánh sáng yếu.
Sinh trưởng của các loại cỏ dưới tán che của cây cao, thì vấn đề cạnh
tranh cơ bản không phải là dinh dưỡng, độ ẩm mà là ánh sáng. Hầu hết cỏ đều
là cây ưa sáng hơn là cây ưa bóng. Ngoài ra, ánh sáng còn là nguyên nhân chủ
yếu khiến cây ra hoa kết hạt.
Đất có hạt sét quá nhiều thì thường dí chặt, yếm khí, hoạt động của rễ
thực vật bị hạn chế. Những loại đất này thường khiến cho rễ thực vật tiết ra
nhiều độc tố. Những cây thức ăn dùng cho gia súc thường không thích hợp
trồng ở đất này (Từ Quang Hiển và CS, 2002) [12].
* Đặc tính sinh trưởng của rễ
Sinh trưởng của rễ cũng mang tính chất mùa vụ rõ rệt như các bộ phận
trên mặt đất. Phần lớn bộ rễ sinh trưởng mạnh vào mùa xuân, đạt tới mức cao
nhất trước khi bộ phận trên mặt đất đạt được tối đa và ngừng khi cây ra hoa.
Khi cây cỏ đã qua thời kỳ sinh trưởng và bước sang giai đoạn già, thì sự ra rễ
ngừng và một số rễ bắt đầu chết. Sinh trưởng của rễ cũng phụ thuộc vào nhiệt
độ, ẩm độ, ánh sáng và tuổi của rễ
Khi sinh trưởng, cỏ đòi hỏi có đầy đủ diện tích lá, để sử dụng cho quá
trình quang hợp và cung cấp dinh dưỡng cho các lá sinh trưởng tiếp theo. Toàn
bộ cacbohydrate phi cấu trúc của cỏ giảm thấp trong suốt giai đoạn hô hấp của
cây trong mùa đông, cacbohydrate dự trữ chủ yếu ở rễ và thân cây, để cung cấp
cho rễ và lá phát triển trong đầu mùa xuân. Khả năng tích tụ cacbohydrate thấp
sẽ không đáp ứng đủ cho toàn bộ nhu cầu để rễ và lá sinh trưởng. Vì vậy, cây
cần đủ diện tích lá để quang hợp và cung cấp dinh dưỡng cho cây sinh trưởng
và các quá trình trao đổi khác.
Bình thường, cây không thể cung cấp đủ dinh dưỡng cho sự phát triển
nhanh ở chồi và rễ cùng một lúc. Nếu đồng cỏ trồng bị chăn thả, thu cắt quá
nhiều lần, rễ ngừng phát triển và có thể chết. Do bị khai thác quá mức, cỏ sẽ có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
ít diện tích lá để quang hợp, vì vậy, cây sẽ có ít năng lượng. Cacbohydrate
trước tiên được huy động cho phát triển lá để phục vụ cho quá trình quang hợp,
nên chúng không vận chuyển cacbohydrate xuống cho rễ phát triển, điều đó
khiến cho rễ yếu dần và chết nên cây chỉ có đủ năng lượng cho phát triển hệ
thống rễ nông dưới đất. Kết quả là đồng cỏ trồng sẽ bị tổn thương khi gặp điều
kiện stress, như thời tiết khô hạn và sự xâm lấn của cỏ dại. Tuy nhiên khả năng
sinh trưởng của rễ cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, đó là: nhiệt độ, ẩm độ
đất, ánh sáng, dinh dưỡng trong đất.
Cường độ ánh sáng yếu đồng nghĩa với năng suất VCK thấp và giảm
sinh trưởng của rễ. Khi lá cỏ phát triển hoàn thiện thì cây che bóng mới phát
huy hiệu quả, lúc này nếu không có các yếu tố giới hạn, thì năng suất cũng
không tăng lên nữa. Chính vì vậy, khi tán lá phát triển đầy đủ, là lúc cây cỏ cho
năng suất VCK cao nhất.
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng, cả cỏ hòa thảo và bộ đậu đều thích
nghi với nguồn cung cấp dinh dưỡng thấp bằng cách chia cắt thành nhiều phần
tăng trưởng vật chất khô ở rễ trong thời gian lá và chồi cây phát triển (Rao,
2001) [52].
1.1.5. Sức sống cỏ hòa thảo
Sức sống của cây hòa thảo không giống nhau, có loài sống lâu năm, có
loài chỉ sống được một năm. Vì vậy người ta chia cỏ hòa thảo thành 4 loại sau:
- Loài cỏ sống một năm thì tàn lụi và chết gọi là cỏ hàng năm như cỏ
Xuđăng, cỏ lồng vực…
- Loài cỏ có sức sống ngắn (2- 3 năm) như cỏ giầy, cỏ mật…
- Loài cỏ có sức sống vừa (4- 6 năm) như cỏ Pangola, cỏ voi, cỏ ghine…
- Loại cỏ có sức sống lâu (6 - 10 năm) như cỏ mạch tước không
râu(Quang Ngọ, Sinh Tặng, 1976)[19].
Căn cứ vào sức sống của các loài cỏ mà người ta dự tính thời gian trồng
lại để đảm bảo năng suất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
1.1.6. Sản lượng chất xanh
Sản lượng cỏ hòa thảo thay đổi nhiều tùy thuộc vào loài, vùng khí hậu và
kỹ thuật canh tác. Có rất nhiều kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố
này tới năng suất cỏ hòa thảo.
Các kết quả nghiên cứu trong nước của Nguyễn Ngọc Hà và CS, (1985)
[9]; Nguyễn Ngọc Hà và cs, (1995) [10]; Khai và CS, (1995) [48] cho biết các
giống cỏ hòa thảo trồng tại các vùng ở nước ta có sản lượng biến động rất lớn,
lệ thuộc vào các yếu tố, như đất đai, chăm sóc, chế độ bón phân và độ dài của
mùa khô. Sản lượng của các giống Brachiaria spp có thể biến động từ 5 - 30
tấn vật chất khô/ha/năm.
Kết quả nghiên cứu của CIAT, (1978) [39] tại Quilichao, Colombia, thì
giống cỏ Brachiaria decumbens có thể đạt sản lượng chất khô trên 4.000
kg/ha/năm với thí nghiệm không có bón đạm, nhưng bón đủ lân và nó là một
giống cỏ tốt nhất trong điều kiện bón lân và đạm thấp.
Tại Samford, Queensland, sản lượng hàng năm của giống P. dilatatum là
15.000 kg VCK (Davies, 1970) [42]. Tại Fiji sản lượng trung bình là 5.313 kg
VCK/ha/năm với mức protein thô trong VCK là 9,9 % trong thời gian theo dõi
3 năm (Roberts, 1970) [53], tại Mỹ sản lượng cỏ này đạt từ 1.230 - 12.000 kg
vật chất khô/ha/năm (Bennett, 1973) [37] [38].
Như vậy, các giống cỏ khác nhau có sản lượng chất xanh và vật chất khô
khác nhau; Cùng một giống cỏ nhưng trồng ở các vị trí địa lý khác nhau cũng
cho năng suất khác nhau.
Khi cỏ sống ở các điều kiện khác nhau thì yếu tố khí hậu là nhân tố
thường hạn chế tới sản lượng của cỏ. Đối với các vùng lạnh và vùng khan hiếm
nước, thì yếu tố hạn chế về năng suất chính là nước. Do vậy, đã không ít những
nghiên cứu về mùa vụ và nước tưới ảnh hưởng tới sản lượng của cỏ.
Sản lượng trung bình của cỏ Nadi blue ở Sigatoka, Fiji là 22.725
kg/ha/năm (Roberts, 1970) [54]. Sản lượng vật chất khô trung bình của cỏ Nadi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
là 11.500 kg/ha/năm trong năm 1971 - 1972 và trong đó 31 % sản lượng đạt
được ở trong mùa khô năm 1972 (Partridge, 1979) [50].
Cỏ pangola ở Beerwah, nam Queensland, với tổng lượng mưa hàng năm
1.075 mm, có sản lượng trung bình là 10.565 kg/ha/năm, khi cỏ được bón phân
đầy đủ (Evans, 1967) [44] đã đạt năng suất 113 kg vật chất khô/ha/ngày vào
mùa hè, nhưng chỉ đạt 2,25 kg vật chất khô/ha/ngày vào mùa đông mặc dù
cùng một chế độ bón phân. Ở phía bắc Queensland với lượng mưa lớn hơn và
được bón 220 kg N, 22 kg P
2
O
5
và 55 kg K
2
O/ha/năm thì sản lượng của giống
cỏ này đã đạt 28.282 kg vất chất khô/ha/năm.
Cỏ Echinochloa scabra đạt sản lượng 4.000 kg vật chất khô/ha ở cỏ non
đang sinh trưởng, 13.000 kg vật chất khô/ha ở cỏ đã thành thục, 150 kg vật chất
khô/ha trong 30 ngày tái sinh ở trong mùa khô, nhưng năng suất tăng nhanh khi
được tưới nước đầy đủ, đạt 2.500 kg VCK/ha sau 30 ngày tái sinh (Botnel,
1990) [52].
Tại Cuba, Pérez Infante, (1970); Bogdan, (1977) [41] thu được sản lượng
trung bình hàng năm của cỏ Amphilophis pertusa (L.) là 15.000 kg VCK/ha,
trong đó 40 % được sản xuất trong mùa khô dưới điều kiện tưới bằng hệ thống
phun mưa.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của các tác giả cho thấy, cùng một giống
cỏ, sản lượng của chúng cũng thay đổi theo mùa vụ và sản lượng trong mùa
khô là thấp hơn rõ rệt, đồng thời đòi hỏi phải tưới nước trong thời gian này thì
cỏ mới cho sản lượng cao.
1.1.7. Giá trị kinh tế của cỏ hòa thảo
Cỏ hòa thảo có giá trị kinh tế lớn không chỉ vì nó phân bố rộng, chiếm tỷ
lệ cao trong thảm cỏ mà còn cho năng suất và giá trị dinh dưỡng cao. Khi chế
biến dự trữ ít rơi rụng lá, ít bị thối, tỷ lệ có độc ít, chịu đựng chăn dắt cao. 1ha
cỏ tự nhiên cho 10 - 20 tấn chất xanh/ha/năm. 1ha cỏ trồng thân bò cho 30 - 40
tấn, thân bụi cho 50-60 tấn, thân đứng cho 80-100 tấn/ha/năm, nếu thâm canh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
có thể cho 160 - 260 tấn/ha/năm. 1kg cỏ tươi cho từ 0,1 - 0,2 đơn vị thức ăn
tương đương với 250 - 500KcalME.
Cỏ hòa thảo có giá trị dinh dưỡng cao. Ở những nơi đất tốt, nhiều mùn,
ẩm, loài cỏ tốt nhất có thể chứa 16g prôtit tiêu hóa và 32g Lipit trong 1kg cỏ
tươi, 8kg cỏ có thể tương đương 1 đơn vị thức ăn (Nguyễn Thiện, 2005)[21].
1.2. Lý do phải trồng cây thức ăn cho chăn nuôi trong hệ thống nông
nghiệp bền vững ở nông hộ
Đàn gia súc ở nước ta ngày càng tăng lên nhanh chóng dẫn đến nhu cầu
về thức ăn cho chăn nuôi nhất là thức ăn thô xanh sẽ ngày càng tăng lên. Mặt
khác,do đặc điểm địa lý nước ta không có đồng cỏ rộng dành cho chăn thả tự
nhiên. Trong khi đó, diện tích cỏ tự nhiên cho chăn thả, khai thác bừa bãi đã và
đang dần suy kiệt. Vấn đề cần đặt ra là nhất thiết phải tìm ra một giải pháp hiệu
quả để bù đắp lượng thức ăn thô xanh thiếu hụt, có như vậy mới tiếp tục phát
triển được số lượng cũng như chất lượng của gia súc. Xuất phát từ thực tiễn và
kết hợp với những nghiên cứu khoa học cho thấy giải pháp hiệu quả duy nhất là
phải chọn lựa và trồng những giống cỏ có năng suất và chất lượng cao trong
các điều kiện thời tiết và môi trường khác nhau, mới mong đáp ứng được nhu
cầu trên cũng như cho phép áp dụng được mô hình chăn nuôi nhốt với số lượng
lớn gia súc trên một diện tích hạn chế đạt hiệu quả kinh tế cao cho các hộ nông
dân trên cả nước.
Từ nguyên nhân sâu xa trên ta thấy cần thiết phải trồng cây thức ăn trong
mỗi gia đình nông dân cụ thể là:
- Đủ số lượng về thức ăn cho ăn tươi và chế biến dự trữ quanh năm. Chủ
động cung cấp cho gia súc hiện có, trồng nhiều loại cây thức ăn đảm bảo cân
đối về dinh dưỡng (như đạm, khoáng, năng lượng…) cung cấp cho gia súc ăn
no, khỏe mạnh và chóng lớn.
- Có đủ thức ăn cung cấp tại chuồng cho gia súc chuyển dần phương thức
chăn thả quảng canh sang nhốt hoàn toàn tạo nên năng suất chăn nuôi cao hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
và bảo vệ được các loại cây cối và hoa màu khác.
- Trồng cây thức ăn cho chăn nuôi cũng góp phần vào việc: Phủ xanh đát
trống đồi trọc, nâng cao độ phì của đất, giữ nước, giảm mức độ xói mòn đất.
Một số cây còn cung cấp nguồn phân xanh cho trồng trọt, chất đốt cho gia đình.
Giảm bớt công đầu tư cho chăn thả, cung cấp bóng râm cho gia súc và con
người. Bảo vệ và cải thiện điều kiện môi trường. Bảo vệ rừng và các cây công
nghiêp, cây ăn quả khác.
1.3. Đặc điểm giống cỏ làm thí nghiệm - cỏ voi (Pennisetum purpureum)
1.3.1. Nguồn gốc
Cỏ voi có tên khoa học là Pennisetum purpureum, có nguồn gốc từ châu
Phi nhiệt đới. Cỏ voi trồng nhiều ở Indonesia. (Đinh Văn Cải)[3]. Quê hương lâu
đời của cỏ voi là vùng Uganda (10
0
vĩ độ bắc - 20
0
vĩ độ nam) nhập vào Australia
năm 1914, Cuba năm 1917, Brazil năm 1920… Người ta cũng thấy cỏ voi mọc
hoang dại trong các thảm cao, Savan bụi, rừng già thuộc Trung Phi hay đầm lầy
Tây Phi. Ở Việt Nam được đưa vào Huế năm 1900 và từ đó được trồng lan rộng
khắp các vùng. Cỏ voi là một loài cỏ cổ điển thường xuyên có mặt trong tất cả
các trang trại thí nghiệm như : Trung tâm nghiên cứu bò và trồng cỏ Ba Vì, nông
trường bò sữa Đức Trọng, nông trường bò sữa Phù Đổng…
Khu vực gia đình: Đến nay hầu hết các hộ nông dân nuôi bò ở nhiều tỉnh
thành trong cả nước đã tiến hành trồng cỏ voi, đây là một giống cỏ cho năng
suất chất xanh cao nhất trong điều kiện thâm canh ở Việt Nam và đang được
coi là giống cỏ chủ lực được trồng để nuôi trâu bò.
1.3.2. Đặc điểm sinh vật học
Cỏ voi là loài cỏ sống lâu năm, thân đứng, thân lá lớn, phát triển mạnh
mẽ, thân cao có thể cao từ 3 - 4m, đường kính thân có thể đến gần 2-3cm, lá
rộng nhẵn, dài 30-120cm, rộng 1-5cm. Hoa chùm thuôn dài đầy lông cứng 1,5-
3cm màu vàng nâu. Hệ thống rễ rất phát triển, rễ mọc từ các đốt thân.
1.3.3. Đặc tính sinh thái học