Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHAN THỊ PHƢƠNG LY
BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 6
QUA VIỆC DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Thái Nguyên - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHAN THỊ PHƢƠNG LY
BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH LỚP 6
QUA VIỆC DẠY HỌC TRUYỆN CỔ TÍCH
Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học Văn - Tiếng Việt
Mã số: 60 14 01 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG HỮU BỘI
Thái Nguyên - 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là
khách quan, trung thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình
nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Phan Thị Phƣơng Ly
ii
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Hữu Bội
- Người thầy đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Ngữ văn,
Khoa Sau đại học trường ĐHSP Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ và động
viên em trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Sở giáo dục và đào tạo Thái
Nguyên; Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và các em học sinh trường Phổ thông
dân tộc nội trú THCS Phú Lương, THCS thị trấn Đu và gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, ngày 14 tháng 04 năm 2014
Tác giả
Phan Thị Phƣơng Ly
iii
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục chữ viết tắt iv
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 7
1.1. Cơ sở lí luận 7
1.1.1. Lí thuyết về tự học 7
1.1.2. Truyện cổ tích và quan điểm dạy học truyện cổ tích trong chương
trình Ngữ Văn 6 11
1.2. Cơ sở thực tiễn 18
1.2.1. Đặc điểm tiếp nhận bài học về thể loại truyện cổ tích của học
sinh lớp 6 18
1.2.2. Thực trạng hoạt động tự học, năng lực tự học thể loại truyện cổ tích
của học sinh lớp 6 và việc hướng dẫn học sinh tự học của giáo viên 21
Tiểu kết chƣơng 1 30
Chƣơng 2. BỒI DƢỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO HỌC SINH
LỚP 6 QUA CÁC BÀI HỌC VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH 32
2.1.1. Bồi dưỡng kĩ năng đọc văn bản 32
2.1.2. Bồi dưỡng năng lực thâm nhập vào “thế giới cổ tích” trong truyện 33
2.2. Bồi dưỡng năng lực tự học qua bài học về văn bản “Sọ Dừa” 37
2.2.1. Bồi dưỡng kĩ năng đọc văn bản 37
2.2.2. Bồi dưỡng năng lực thâm nhập vào “thế giới cổ tích” trong truyện 39
2.3. Bồi dưỡng năng lực tự học qua bài học về văn bản “Thạch Sanh” 44
2.3.1. Bồi dưỡng kĩ năng đọc văn bản 44
iv
2.3.2. Bồi dưỡng năng lực thâm nhập vào “thế giới cổ tích” trong truyện 45
2.4. Bồi dưỡng năng lực tự học qua bài học truyện cổ tích “Em bé
thông minh” 50
2.4.1. Bồi dưỡng kĩ năng đọc văn bản 50
2.4.2. Bồi dưỡng năng lực thâm nhập vào “thế giới cổ tích” trong truyện 52
2.5. Bồi dưỡng năng lực tự học qua bài học về truyện cổ tích “Cây bút
thần” 56
2.5.1. Bồi dưỡng kĩ năng đọc văn bản 56
2.5.2. Bồi dưỡng năng lực thâm nhập vào “thế giới cổ tích” trong truyện 58
2.6. Bồi dưỡng năng lực tự học qua bài học về truyện cổ tích “Ông lão đánh
cá và con cá vàng” 62
2.6.1. Bồi dưỡng kĩ năng đọc văn bản 63
2.6.2. Bồi dưỡng năng lực thâm nhập vào “thế giới cổ tích” trong truyện 64
Tiểu kết chƣơng 2 Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM 71
3.1. Thiết kế bài học 71
3.1.1. Thiết kế thể nghiệm theo đề xuất của luận văn 71
3.1.2. Giờ dạy đối chứng: 83
3.2. Thực nghiệm sư phạm 87
3.2.1. Dạy thực nghiệm 87
3.2.2. Kết quả dạy thực nghiệm: 87
PHẦN KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
NXB
Nhà xuất bản
NCGD
Nghiên cứu giáo dục
SGK
Sách giáo khoa
TTHL
Trung tâm học liệu
THPT
Trung học phổ thông
THCS
Trung học cơ sở
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về lí thuyết
Chuyện học hành đối với mỗi con người là hết sức quan trọng. Từ lúc là
một đứa trẻ non nớt với những bài học đầu tiên tập lẫy, tập bò, tập đứng, tập đi,
ê a tập nói cho đến khi lớn lên, rất tự nhiên, đứa trẻ ấy được tiếp thu những bài
học từ đơn giản đến phức tạp. Môi trường học tập cũng ngày càng được mở
rộng: Từ gia đình đến nhà trường và xã hội. Kho tàng tri thức của nhân loại vô
cùng rộng lớn và vì thế việc học của con người cũng không có giới hạn. Cha
ông ta xưa đã đúc kết những câu tục ngữ nói về sự học như “ Học ăn, học nói,
học gói, học mở”, “Học đi đôi với hành”, “Học một biết mười” hay “Không
thầy đố mày làm nên”, “Đi một ngày đàng học một sàng khôn” Lênin cũng đã
dạy: “Học, học nữa, học mãi”. Có thể nói, trong một xã hội hiện đại, nhu cầu
học tập của con người ngày một tăng cao, mọi người muốn học để biết, học để
làm việc và sống tốt hơn, học để tự khẳng định mình và để hòa nhập được với
xã hội ngày càng phát triển. Vấn đề đặt ra là việc học đó như thế nào để thu
được hiệu quả tốt nhất.
Thực tế cho thấy, có nhiều cách để học: Học trực tiếp từ nhà trường do
thầy cô giáo truyền thụ và tự học từ chính những trải nghiệm trong cuộc sống.
Gibbon – Sử gia người Anh (1737 - 1794) đã từng nói: “Mỗi người đều phải
nhận hai thứ giáo dục, một thứ do người khác truyền cho, một thứ quan trọng
hơn – do chính mình tạo lấy” (Dẫn theo“Những biện pháp phát triển năng lực
tự học về văn học sử cho học sinh THPT ở miền núi phá bắc” của tác giả
Nguyễn Thị Thu Hà (DDC 373.238/HA - TTHL Đại học Thái Nguyên; 2011).
Câu nói này muốn nói đến việc tự học của mỗi người vì dù ta được học dưới
bất kì hình thức nào, yếu tố quan trọng phải là tự học.
Trên thực tế, đã có nhiều nhà nghiên cứu bàn đến vấn đề tự học và việc
bồi dưỡng năng lực tự học cho người học nhưng chưa có công trình nghiên cứu
nào đi sâu vào việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh lớp 6.
2
1.2. Về thực tiễn
1.2.1. Thế giới đã bước sang một thiên niên kỉ mới, thiên niên kỉ của nền
văn minh trí tuệ và sự bùng nổ của khoa học công nghệ. Thực tiễn đó đòi hỏi
giáo dục phải có sự thay đổi để đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Người giáo
viên không chỉ truyền thụ kiến thức mà phải dạy cho học sinh biết cách tự học
một cách tích cực, chủ động, sáng tạo và có kỹ năng giải quyết những vấn đề
nảy sinh trong cuộc sống. Tự học là kỹ năng cần có của học sinh.
1.2.2. Đối với học sinh lớp 6, các em ở lứa tuổi 11 – 12, lứa tuổi có nhiều
thay đổi mạnh mẽ về thể chất, sức khỏe và tâm lý. Chuyển từ trường tiểu học lên
THCS các em được tiếp xúc với phương pháp dạy học mới, mỗi môn học có một
giáo viên giảng dạy, mỗi thầy cô có một phương pháp khác nhau; nội dung các
môn học nhiều hơn đòi hỏi khả năng tự học cũng nhiều hơn. Thực tế cũng cho
thấy kỹ năng tự học của các em học sinh lớp 6 còn yếu nhưng việc hướng dẫn
học sinh tự học lại chưa được giáo viên chưa quan tâm đúng mức.
1.2.3. Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam và thế giới vô cùng phong phú,
hấp dẫn nhiều thế hệ bạn đọc, đặc biệt là trẻ em. Trong chương trình Ngữ văn 6
chọn giảng năm câu chuyện, thời lượng học trên lớp là 10 tiết (mỗi tiết 45 phút)
chưa đủ để khai thác hết chiều sâu ý nghĩa cũng như đặc sắc nghệ thuật của
truyện. Việc bồi dưỡng năng lực tự học thể loại này qua việc dạy học các bài
học trong chương trình sẽ giúp các em có một phương pháp tìm hiểu văn bản
sâu hơn và có cái nhìn khái quát hơn khi đọc các câu truyện cổ tích khác trong kho
tàng truyện cổ tích nhân loại. Hơn thế, khi đã có kĩ năng tự học văn bản truyện
cổ tích các em có được một phương pháp nghiên cứu hay nói cách khác là có
được năng lực tự học các văn bản văn chương khác.
Bởi vậy, là giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường phổ thông, chúng
tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh lớp 6
qua việc dạy học truyện cổ tích” nhằm đóng góp một chút ít vào lí luận về vấn
đề tự học nói chung và việc bồi dưỡng năng lực tự học qua việc dạy học truyện
3
cổ tích cho học sinh lớp 6 nói riêng, góp phần vào việc đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề tự học
Trên thực tế, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề tự học. Ngay
từ năm 1973, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng qua bài viết “Dạy văn là một quá
trình rèn luyện toàn diện”(Tạp chí NCGD, số 11/1973) đã nêu lên nhận thức
mang tính lí luận về việc đổi mới tư duy trong giảng dạy môn văn. Bài viết đã
phê phán lối dạy học kiểu xưa cũ, theo điệu “sáo”, từ đó tác giả đề nghị không
nên dạy học theo kiểu đọc chép vì như vậy học sinh bị sa vào lối học bắt chước,
thụ động mà phải tạo ra cho học sinh phương pháp học tập, rèn luyện và vận
dụng tốt bộ óc của mình trong việc chiếm lĩnh kiến thức.
Cố Giáo sư Phan Trọng Luận trong một số công trình nghiên cứu khoa học
như: “Con đường nâng cao hiệu quả giảng dạy văn” (NXB Giáo dục - 1978), “Cảm
thụ văn học, giảng dạy văn học” (NXB Giáo dục - 1983) đã nhấn mạnh đặc biệt
quan điểm: Phải tạo cho học sinh vị thế chủ động, tự lập, sáng tạo nhất định trong
quá trình dạy học văn; Giáo viên cần đóng vai trò là người hướng dẫn, gợi ý tạo
điều kiện cho học sinh phát huy năng lực của mình.
Cuốn sách “Quá trình dạy – tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn đã
khẳng định: “Cốt lõi của học là tự học, hễ có học là có tự học vì không ai có
thể học hộ người khác được”[30]
Ngoài ra, còn có khá nhiều đề tài nghiên cứu về việc rèn luyện năng lực
tự học cho học sinh đã được công bố như đề tài luận văn thạc sĩ “Những biện
pháp phát triển năng lực tự học về văn học sử cho học sinh THPT ở miền núi
phá bắc” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà (DDC 373.238/HA - TTHL Đại học
Thái Nguyên; 2011); Luận văn thạc sĩ “Biện pháp hướng dẫn học sinh tự học
các bài ca dao trong chương trình lớp 10 THPT” của tác giả Phạm Thái Linh
Ngọc (DDC 371.3/NGO – TTHL Đại học Thái Nguyên; 2012)
4
2.2. Vấn đề dạy học truyện cổ tích trong chương trình Ngữ văn 6
Truyện cổ tích là một thể loại văn học nằm trong bộ phận Văn học dân
gian. Để có được hiệu quả trong dạy học thể loại này cần phải quan tâm đến
đặc trưng thể loại. Đã có rất nhiều nghiên cứu bàn đến việc dạy học văn
chương theo đặc trưng thể loại. Tác giả Trần Thanh Đạm đã xác định: “Nhà
văn đã sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng cảm thụ theo loại thể. Nói một
cách khác, phương thức cấu tạo hình tượng mà tác giả đã sử dụng khi sáng tác
quy định phương thức cảm thụ hình tượng đó của người đọc và cũng từ đó quy
định phương thức giảng dạy của chúng ta” [4]. Với quan điểm ấy, tác giả đã
trình bày khá cặn kẽ về tầm quan trọng của việc nắm bắt các đặc trưng loại thể
văn học, những chú ý đặc biệt về giảng dạy các tác phẩm thuộc loại tự sự, trữ
tình, kịch cùng các thể như thơ, hịch, cáo…
Trong cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại
thể)” tác giả Nguyễn Viết Chữ đã xác định: “Loại và thể là vấn đề mấu chốt
trong dạy học tác phẩm văn chương. Xác định loại thể là xác định“chất của
loại”trong thể” [2]. Tuy nhiên, cũng như Trần Thanh Đạm, tác giả Nguyễn
Viết Chữ khẳng định: “Không có loại, thể nào thuần túy, triệt để, giữa chúng
luôn có sự chuyển hóa, thâm nhập lẫn nhau” [2]. Vì vậy khi tìm hiểu văn bản
văn học ta không nên đi tìm biên giới dứt khoát giữa các thể loại mà chủ yếu
chú ý đến đặc trưng của thể loại đó.
Trong cuốn “Thiết kế bài học Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp”[1], tiến sĩ
Hoàng Hữu Bội đã thiết kế các bài học trong chương trình theo đặc trưng thể
loại. Với quan điểm khai thác giá trị của các văn bản văn học từ đặc trưng thể
loại tác giả đã đưa ra những hiểu biết cần thiết khi dạy các thể loại trong chương
trình, hướng tiếp cận các văn bản đó như thế nào cho hiệu quả và phát huy được
khả năng tư duy sáng tạo của học sinh. Phần khai thác các văn bản truyện cổ tích
cũng đã được tác giả dày công nghiên cứu và đưa ra những định hướng rất cụ thể
và trên thực tế nhiều giáo viên vận dụng trong giảng dạy rất thành công.
5
Trong khuôn khổ của đề tài này, người viết quan tâm đến việc bồi dưỡng
năng lực tự học truyện cổ tích cho học sinh lớp 6 từ đặc điểm thi pháp của
truyện cổ tích.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Năng lực tự học của học sinh lớp 6
- Hoạt động tự học của học sinh lớp 6 đối với truyện cổ tích và việc bồi
dưỡng năng lực tự học cho học sinh qua các bài học về truyện cổ tích.
4. Mục đích nghiên cứu
Tìm kiếm một phương pháp dạy học có khả năng bồi dưỡng năng lực
tự học nói chung và năng lực tự học truyện cổ tích nói riêng cho học sinh
lớp 6.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu vấn đề tự học truyện cổ tích trên bình diện lí thuyết, gồm:
- Lí thuyết về tự học
- Lí thuyết về truyện cổ tích
- Đặc điểm cảm thụ văn học nói chung và thể loại truyện cổ tích nói
riêng của học sinh lớp 6
5.2. Khảo sát thực tiễn
- Thực tiễn về năng lực tự học của học sinh lớp 6
- Thực tiễn việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh của giáo viên
5.3. Thực nghiệm sư phạm
- Thiết kế bài học
- Dạy thực nghiệm theo đề xuất của luận văn
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp phân tích, so sánh, thống kê các số liệu khảo sát.
6
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Khảo sát thực tiễn bằng phiếu khảo sát và việc trao đổi, dự giờ của
giáo viên.
- Thiết kế bài học thể nghiệm.
7. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã đề xuất việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh lớp 6
qua việc dạy học truyện cổ tích tập trung vào hai vấn đề cụ thể, đó là: Bồi
dưỡng kĩ năng đọc văn bản và bồi dưỡng năng lực thâm nhập vào “thế giới cổ
tích”dựa trên đặc điểm thi pháp của thể loại.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và phần Thư mục Tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn có kết cấu 3 chương:
Chƣơng 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
Chƣơng 2. Bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh lớp 6 qua các bài
học về truyện cổ tích.
Chƣơng 3. Thực nghiệm sư phạm.
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Lí thuyết về tự học
1.1.1.1. Khái niệm tự học
Thế nào là tự học? Có nhiều cách định nghĩa về khái niệm này. Xin dẫn
ra các quan điểm sau đây:
Theo giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, sử dụng
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ
bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ,
tình cảm, cả nhân sinh quan, cả thế giới quan (trung thực, khách quan, có chí
tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý
muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi) để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào
đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”[30].
Tác giả Thái Duy Tuyên quan niệm: “Tự học là hoạt động chiếm lĩnh
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo…và kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người nói chung
và của chính bản thân người học” [34, tr. 302]. Theo tác giả, có nhiều cách tự
học khác nhau: Tự học dưới sự hướng dẫn của thầy; Tự học không có sự hướng
dẫn của thầy; Tự học trong cuộc sống. Tác giả cho rằng: hình thức, đối tượng
của tự học hết sức phong phú và đa dạng và mỗi con người trong suốt cuộc đời
có lẽ đều phải trải qua các dạng tự học trên.
Tác giả Trịnh Quang Từ trong đề tài nghiên cứu luận văn Tiến sĩ
“Những phương hướng tổ chức hoạt động tự học cho sinh viên các trường
quân sự” đưa ra nhận định: “Tự học là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức
của bản thân người học bằng hành động của chính mình, hướng tới những
mục đích nhất định” [35].
Như vậy, có thể thấy, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về tự học,
song các định nghĩa đó có điểm chung là tự học là tự mình học với sự độc lập,
8
tích cực, tự giác ở mức độ cao, tức là qua quá trình tự học người học tự biến
đổi mình, tự làm phong phú giá trị cho mình bằng sự say mê học tập của cá
nhân nhằm tích lũy kiến thức từ kho tàng tri thức của nhân loại và biến nó
thành kinh nghiệm sống, vốn sống của mình.
Từ những cách định nghĩa đã dẫn ở trên, chúng tôi nhận thức rằng:
“Tự học” là một bộ phận, một thành phần của “học”; khi nói đến “học”
bao giờ cũng gắn với “tự học”. Đặc điểm cơ bản, quan trọng không thể thiếu
của tự học là sự tự giác và kiên trì cao; sự tích cực, độc lập và sáng tạo của
người học trong hoạt động học.
Tự học có thể diễn ra ở bất cứ thời gian và địa điểm nào; Tự học có
nhiều mức độ: Tự học hoàn toàn hoặc tự học có người hướng dẫn hoặc sự giúp
đỡ của một số yếu tố như giáo viên hoặc công nghệ giáo dục hiện đại.
Người học là chủ thể tự mình chiếm lĩnh tri thức. Kết quả tự học cao hay
thấp phụ thuộc vào năng lực tự học của cá nhân đó. Với học sinh phổ thông thì
việc tự học thường có sự hướng dẫn của giáo viên.
Chúng ta có thể kể đến những tấm gương tự học như Trương Vĩnh Ký
(1837 - 1898) – nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục, nhà khảo cứu văn
hóa tiêu biểu của Việt Nam. Ông là người có khả năng tự học rất cao, tri thức
uyên bác, biết và sử dụng thông thạo 27 ngoại ngữ, là một trong những người
biết nhiều ngoại ngữ nhất thế giới. Hay như Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tấm gương
sáng ngời về tinh thần tự học, với tinh thần lấy “tự học làm cốt” Bác đã không
ngừng tự học mọi lúc mọi nơi để có được tri thức uyên thâm và vốn sống
phong phú. Và ngày nay, rất nhiều những tấm gương tự học, tự tìm tòi, sáng tạo
trên nhiều lĩnh vực khác nhau, họ đã và đang cống hiến trí tuệ của mình để làm
cho thế giới ngày một phát triển.
1.1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học của người học. Cũng
theo tác giả Thái Duy Tuyên trong cuốn “Phương pháp dạy học truyền thống
và đổi mới” [34], các nhân tố chính ảnh hưởng đến việc tự học là:
9
Thứ nhất, đó chính là bản thân người học. Người học phải xác định được
động cơ, nhu cầu học tập của bản thân, cộng với tố chất sẵn có như năng khiếu,
khả năng ghi nhớ của người học, trình độ lý luận và trải nghiệm thực tiễn, kỹ
năng tự học, ý chí, xúc cảm…
Thứ hai, đó là nhân tố xã hội. Nhân tố này gồm rất nhiều đối tượng như
thầy cô, cha mẹ, anh em họ hàng, bạn bè…Thầy cô giáo ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình tự học qua nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ
chức dạy học; Gia đình là nguồn động viên tinh thần cũng như vật chất cho
người học; Bạn bè trao đổi, tranh luận làm nảy sinh những vấn đề mới…
Thứ ba, đó là các điều kiện về vật chất và tinh thần. Đây là nhân tố không
thể thiếu trong hoạt động tự học bởi sách vở, thời gian, tài chính, môi trường
lành mạnh của gia đình, nhà trường và xã hội là những yếu tố quan trọng làm
nền cho cho sự phát triển nhân cách nói chung và cho việc tự học nói riêng.
1.1.1.3. Năng lực tự học và việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh
* Thế nào là người có năng lực tự học?
Hoạt động tự học muốn diễn ra đạt hiệu quả thì một yêu cầu đặt ra là
người học đó phải có một năng lực tự học nhất định bởi chỉ khi có một năng
lực nhất định người học mới có thể chủ động, độc lập, sáng tạo trong việc
chiếm lĩnh tri thức.
Trước hết, cần hiểu thế nào là năng lực? Theo từ điển Tiếng Việt: “Năng
lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một
loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”[31]
Giáo trình “Tâm lý học đại cương” do tác giả Nguyễn Quang Uẩn chủ
biên chia khả năng của con người thành ba mức độ khác nhau là “năng lực”,
“tài năng” và “thiên tài”. “Năng lực là một mức độ nhất định của con người,
biểu thị khả năng hoàn thành có kết quả một loại hoạt động nào đó thì tài năng
là mức độ năng lực cao hơn biểu thị sự hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt
động nào đó. Còn thiên tài là mức độ cao nhất của năng lực, biểu thị mức kiệt
xuất, hoàn chỉnh nhất của các vĩ nhân trong lịch sử nhân loại” [39].
10
Vậy, có thể khái quát như sau: Người có năng lực tự học là người có khả
năng tự tìm tòi, nghiên cứu, tự động não suy nghĩ các vấn đề cần thiết phục vụ
cho nhu cầu hiểu biết cũng như nhu cầu làm việc của bản thân.
Một học sinh có năng lực tự học là phải biết vượt qua những cản trở
trong quá trình tự học để tìm cho mình sự hứng thú, say mê với việc học; biết
cách tự mình khám phá, tìm hiểu kiến thức mà mình có nhu cầu.
* Sự cần thiết của việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh
Việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là hết sức cần thiết. Ngạn
ngữ cổ Hy Lạp có câu: “Dạy học không phải là rót kiến thức vào một cái thùng
rỗng mà là thắp sáng lên những ngọn lửa”. Học thuyết về phản xạ có điều kiện
chủ động của B. F. Skinner cũng đã nghiên cứu hai thí nghiệm nổi tiếng là thí
nghiệm dạy chim bồ câu tự tìm lấy thức ăn trong các hạt có hình thù giống
nhau nhưng mầu sắc khác nhau và thí nghiệm chuột đạp cần câu cơm để nói về
việc tự học. Theo học thuyết này, bài học là vì lợi ích của chính người học; mục
đích học, nội dung học là do chính nhu cầu của người học. Chim bồ câu và
chuột trong thí nghiệm là hình ảnh của người học tích cực, chủ động tìm ra kiến
thức bằng hành động của mình. Học thuyết cũng khẳng định việc học (tự học)
thực chất là một quá trình tự tìm ra ý nghĩa, làm chủ các kỹ xảo nhận thức, tạo
ra các cầu nối trong tình huống học từ đó tự biến đổi mình, tự làm phong phú
mình bằng cách thu lượm và xử lý thông tin từ môi trường sống xung quanh
mình. Còn việc dạy thích hợp với quá trình tự học nói trên là một quá trình có
bản chất là cộng hưởng dạy học với tự học tạo ra chất lượng và hiệu quả giáo
dục cao.
Comenski (1852 - 1879) người Slovakia luôn đòi hỏi người giáo viên tạo
ra cho học sinh môi trường hứng thú học tập và tự lực cố gắng dành lấy kiến
thức. Ông tâm sự: “Tôi thường bồi dưỡng cho học sinh của tôi tư tưởng độc
lập trong quan sát, trong đàm thoại và trong việc ứng dụng vào thực tiễn”
(Dẫn theo cuốn “Phương pháp dạy học ngữ văn THPT những vấn đề cập nhật”
của tác giả Nguyễn Thanh Hùng và Lê Thị Diệu Hoa – NXB Đại học sư phạm).
11
Như vậy, công việc dạy học của người thầy không phải là nhồi nhét cho
người học những kiến thức mà mình đã thu lượm được mà phải trao cho họ
chiếc chìa khóa để mở các cánh cửa tri thức đó một cách chủ động. Nói một
cách hình ảnh là trao họ cái cần câu chứ không phải là cho họ con cá. Trong
thời đại mà khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, nhà trường
dù tốt đến mấy cũng không đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người học. Vì
vậy, việc bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh là điều rất quan trọng và cần
thiết. Có năng lực và kỹ năng tự học, các em học sinh có thể nắm vấn đề một
cách chắc chắn và bền vững, không những thế các em còn có thể phát huy khả
năng sáng tạo của mình để giải quyết các vấn đề một cách linh hoạt. Bồi dưỡng
năng lực tự học cho học sinh là một việc làm cần thiết mà mỗi giáo viên cần
quan tâm trong việc dạy học của mình.
1.1.2. Truyện cổ tích và quan điểm dạy học truyện cổ tích trong chương trình
Ngữ Văn 6
1.1.2.1. Khái niệm truyện cổ tích
Để có thể hướng dẫn học sinh tự học và bồi dưỡng năng lực tự học cho
học sinh qua việc dạy học truyện cổ tích, cần phải xác định được khái niệm
truyện cổ tích và đặc điểm thi pháp của thể loại này.
“Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa về truyện cổ tích như sau:
“Truyện cổ tích là một thể loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy
nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản
ánh và lý giải những vấn đề xã hội, những số phận khác nhau của con người
trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình
riêng, có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt” [32, tr 250]
Giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam - Tập I (NXB Giáo dục - 1978)
cho rằng: “Truyện cổ tích là loại truyện xuất hiện sớm từ cổ xưa, chủ yếu do
các tầng lớp bình dân sáng tác, trong đó óc tưởng tượng (bao gồm cả huyễn
tưởng) chiếm phần quan trọng, tuy rằng huyễn trưởng ở đây đã khác hẳn với
12
yếu tố huyễn tưởng trong thần thoại. Có thể có yếu tố hoang đường, kỳ diệu
hoặc không. Truyện cổ tích trình bày – với một phong cách thường kết hợp với
hiện thực và lãng mạn – cuộc sống với những con người trong những tương
quan của xã hội có giai cấp”. (Dẫn theo tác giả Hà Thị Phương Bắc trong đề
tài luận văn thạc sĩ “Dạy – học truyện cổ tích ở trường THCS - Thực trạng và
giải pháp”, TTHL Đại học Thái Nguyên).
Tác giả Hoàng Tiến Tựu, trong cuốn “Giáo trình Văn học dân gian”
định nghĩa: “Truyện cổ tích là một loại truyện kể dân gian ra đời từ thời kỳ cổ
đại, gắn liền với quá trình tan rã của công xã nguyên thủy, hình thành của gia
đình phụ quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội: Nó hướng vào những vấn đề
cơ bản, những hiện tượng có tính phổ biến trong đời sống nhân dân, đặc biệt là
những xung đột có tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi gia
đình và xã hội. Nó dùng một số tưởng trượng và hư cấu riêng (có thể gọi là
tưởng tượng và hư cấu cổ tích) kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù
khác để phản ánh đời sống và ước mơ của nhân dân trong những thời kỳ,
những hoàn cảnh lịch sử khác nhau của xã hội có giai cấp (ở nước ta chủ yếu
là xã hội phong kiến)” [36]
Tác giả Nguyễn Bích Hà trong cuốn “Giáo trình Văn học dân gian Việt
Nam”có dẫn giải: “Cổ có nghĩa là cũ, tích là dấu vết còn để lại” và dựa vào
những nghiên cứu về truyện cổ tích tác giả “tạm định nghĩa”: “Truyện cổ tích
là những truyện kể có yếu tố hoang đường kỳ ảo. Nó ra đời từ sớm nhưng đặc
biệt nở rộ trong xã hội có sự phân hóa giàu nghèo, xấu tốt. Qua những số
phận khác nhau của nhân vật, truyện trình bày kinh nghiệm sống, quan niệm
đạo đức, lý tưởng và ước mơ của nhân dân lao động về một xã hội công bằng,
dân chủ, hạnh phúc” [8, tr. 75]
Tác giả Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn “Giáo trình Văn học dân gian
Việt Nam” nhận định: “Truyện cổ tích là sáng tác dân gian thuộc loại hình tự
sự, chủ yếu sử dụng yếu tố nghệ thật kỳ ảo để thể hiện cái nhìn hiện thực của
13
nhân dân với đời sống, bộc lộ quan niệm về đạo đức cũng như về công lý xã
hội và ước mơ một cuộc sống tốt đẹp hơn của nhân dân lao động” [14, tr. 116]
Sách giáo khoa Ngữ văn 6 đưa ra khái niệm: “Truyện cổ tích: loại truyện
dân gian kể về cuộc đời của một số kiểu nhân vật quen thuộc: Nhân vật bất
hạnh (như: người mồ côi, người con riêng, người em út, người có hình dạng
xấu xí, ); Nhân vật dũng sĩ và nhân vật có tài năng kì lạ; Nhân vật thông minh
và nhân vật ngốc nghếch; Nhân vật là động vật (con vật biết nói năng, hoạt
động, tính cách như con người). Truyện cổ tích thường có yếu tố hoang đường,
thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân về chiến thắng cuối cùng của cái thiện
đối với cái ác, cái tốt đối với cái xấu, sự công bằng đối với sự bất công”[25]
Như vậy, có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về truyện cổ tích.
Tuy nhiên, có thể thấy, các khái niệm được đưa ra ở trên có một số điểm
thống nhất là:
Điểm thứ nhất: Truyện cổ tích là những sáng tác dân gian thuộc loại hình
tự sự, nảy sinh trong xã hội nguyên thủy nhưng phát triển trong xã hội có giai
cấp nên chủ đề chủ yếu là phản ánh nhận thức của nhân dân về cuộc sống, có
mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Điểm thứ hai: Truyện cổ tích biểu hiện cách nhìn hiện thực của nhân dân
đối với thực tại đồng thời nói lên quan điểm đạo đức, ước mơ về một xã hội
công bằng mà ở đó công lý được thực hiện.
Điểm thứ ba: Truyện cổ tích là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú
của nhân dân. Các câu chuyện đều có các yếu tố hoang đường kỳ ảo, đây là đặc
trưng nổi bật trong phương thức phản ánh hiện thực của truyện cổ tích.
Để phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh lớp 6, trong đề tài này, chúng
tôi chọn khái niệm trong sách giáo khoa Ngữ văn 6 (NXB Giáo dục năm 2012)
để làm cơ sở giúp nhận diện truyện cổ tích từ đó định hướng cách tiếp cận các
văn bản truyện cổ tích trong chương trình và bồi dưỡng năng lực tự học về thể
loại truyện cổ tích nói riêng, năng lực tự học nói chung cho học sinh lớp 6.
14
1.1.2.2. Đặc điểm thi pháp chung của thể loại truyện cổ tích
Nghiên cứu về truyện cổ tích, Giáo sư Đỗ Bình Trị trong cuốn “Những
đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian” cho rằng: “Trong hệ
thống phân loại văn học dân gian, truyện cổ tích thường được xác định là một
thể loại” và đặc điểm chung về thi pháp của thể loại này là “thế giới cổ tích”
[33, tr.7]
Có thể thấy “thế giới cổ tích” là sáng tạo độc đáo của trí tưởng tượng
dân gian. Thế giới ấy vừa có những yếu tố của thực tế vừa được nhào nặn trong
một chất “phụ gia” đặc biệt gọi là “hư cấu” để xây dựng nên một thế giới khác
với thế giới thực tại “Thế giới ấy – dù ở truyện cổ tích thần kì, truyện cổ tích
về loài vật hay truyện cổ tích sinh hoạt – là thế giới không có thực” [33, tr.8].
Đọc những câu chuyện cổ tích, người đọc bị hấp dẫn bởi thế giới cổ tích thần kì
với những ông bụt, bà tiên, những phép biến hóa khôn lường; bởi sự dũng cảm,
tài hoa, thông minh của các nhân vật chính diện. Không những thế, người đọc
còn hả hê, sung sướng khi cái xấu, cái ác bị trừng trị: Mụ dì ghẻ và Cám
(Truyện cổ tích Tấm Cám) vì tham lam, đố kị mà cuối cùng phải chuốc lấy cái
chết; Người anh (Truyện cổ tích Cây khế) cũng vì tham lam mà rơi xuống biển
sâu; Mụ vợ (Truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng) vì tham lam, bội bạc nên
dù đã được cá vàng đáp ứng cho thành Nữ hoàng sống trong cung điện nguy
nga cuối cùng lại ngồi bên cái máng lợn sứt mẻ trước túp lều nát ban đầu…
Truyện cổ tích ca ngợi, bênh vực cho đạo đức của con người thông qua việc
xây dựng hệ thống nhân vật chính diện ăn ở hiền lành, thật thà chất phác, vị
tha, độ lượng, hay giúp đỡ người khác. Còn hệ thống nhân vật phản diện tượng
trưng cho cái xấu, cái ác bao giờ cũng bị trừng phạt ở cuối truyện. Qua việc
thưởng phạt phân minh ấy, truyện cổ tích bao giờ cũng khuyên nhủ, dạy bảo
con người về đạo lý. Những triết lý sống như “Ở hiền gặp lành” “Ác giả ác
báo” “Tham thì thâm” …đều được rút ra từ những câu truyện cổ tích một cách
tự nhiên, không gò ép. Nói như Gu – xep: “Truyện cổ tích khái quát hóa kinh
15
nghiệm sống của nhân dân dưới một hình thức mọi người có thể tiếp thu được
và có hiệu lực về mặt thẩm mĩ đồng thời trong đời sống của bản thân nhân dân,
nó là một phương tiện giáo dục quan trọng đối với thế hệ trẻ ” (Dẫn theo luận
văn thạc sĩ của tác giả Hà Thị Phương Bắc “Dạy – học truyện cổ tích ở trưởng
THCS – Thực trạng và giải pháp”, TTHL Đại học Thái Nguyên).
Hư cấu là bản chất mang tính thẩm mỹ, là đặc trưng nổi bật của thể loại
truyện cổ tích. Nếu như thần thoại và truyền thuyết chú ý đến mảng hiện thực
rộng lớn, những đề tài cao cả, những nội dung hoành tráng mang tính cộng
đồng thì truyện cổ tích quan tâm đến những quan hệ giữa con người với con
người trong sinh hoạt đời thường, những bon chen đố kị, những lợi ích cụ thể
của những thành viên trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, khác với hiện thực
ngoài đời, các yếu tố thực tế trong truyện cổ tích luôn đan xen với yếu tố kì ảo,
tạo ra một “thế giới cổ tích”, “không khí cổ tích” rất đặc trưng và hấp dẫn dù đó
là truyện cổ tích thần kỳ, truyện cổ tích sinh hoạt hay là truyện cổ tích loài vật.
Đó là một thế giới lý tưởng mà ở đó con người vừa bình thường vừa lạ lùng,
các sự kiện vừa quen thuộc vừa phi lý không thể lý giải được bằng tư duy thông
thường. Dường như những gì phi lý nhất không thể có ở ngoài đời thật đều có
thể dễ dàng được chấp nhận trong thế giới riêng của truyện cổ tích, như: một cô
Tấm hiền lành, nhân hậu thì không thể chết, dù bị hại nhiều lần cô vẫn được
hóa thân và trở lại kiếp người để trừng trị cái ác; một Thạch Sanh thật thà chất
phác, dũng cảm thì dù có bị làm vật thế thân, dù có bị chèn đá nhốt dưới hang
sâu, bị tống giam vào ngục thì cuối cùng vẫn được được đền bù xứng đáng; một
cậu bé Mã Lương nghèo mà tài ba mà tốt bụng thì được ban phép nhiệm màu;
hay một con cá vàng dưới biển sâu biết nói tiếng người… “Truyện cổ tích
không xa rời hiện thực, thường bắt rễ từ hiện thực, nhưng cái nổi bật nhất
trong nó, điểm sáng lung linh chiếu dọi những tác phẩm văn học dân gian này
chính là sự trình bày những ước mơ kỳ diệu, bay bổng, đứng trên và vượt xa
thực tại” [8]. M. Gorki trong cuốn “Bàn về Văn học” có viết: “Truyện cổ tích
16
mở ra trước mắt tôi một cánh cửa nhìn vào cuộc đời, trong đó có một lực lượng
tự do không biết sợ sệt, đang tồn tại và hoạt động, mơ ước một cuộc sống tốt
đẹp hơn” [40, tr. 472] .
Như vậy, truyện cổ tích là loại truyện hư cấu có chủ tâm và mang tính
nghệ thuật. Bản chất của truyện cổ tích là xây dựng một thế giới nghệ thuật
trong trí tưởng tượng kì ảo phi hiện thực để thực hiện lý tưởng về xã hội công
bằng, một thế giới nên có và cần có cho con người.
Cũng theo giáo sư Đỗ Bình Trị [33], tìm hiểu “thế giới cổ tích” cần tập
trung làm rõ đặc điểm thi pháp của truyện ở năm yếu tố sau:
Thứ nhất: Nhân vật trong truyện cổ tích.
Thứ hai: Xung đột trong truyện cổ tích.
Thứ ba: Kết cấu trong truyện cổ tích
Thứ tư: Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích
Thứ năm: Những “công thức” cố định trong truyện cổ tích
Giải mã được các yếu tố trên trong từng câu chuyện cổ tích sẽ giúp người
đọc có khả năng tự chiếm lĩnh, khám phá để hiểu đúng, hiểu sâu sắc truyện cổ
tích. Vì thế, chương 2 của luận văn chúng tôi sẽ căn cứ theo hướng nghiên cứu
này để bồi dưỡng năng lực tự học truyện cổ tích cho học sinh.
1.1.2.3. Việc dạy học truyện cổ tích trong chương trình Ngữ văn 6
Trong chương trình Ngữ văn 6, năm truyện cổ tích được lựa chọn vào
sách giáo khoa:
- Truyện cổ tích Thạch Sanh
- Truyện cổ tích Sọ Dừa
- Truyện cổ tích Em bé thông minh
- Truyện cổ tích Ông lão đánh cá và con cá vàng
- Truyện cổ tích Cây bút thần
Chúng tôi nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn (Sách giáo viên và một số
sách thiết kế của một số tác giả) xin được tóm tắt một số quan điểm về việc dạy
học truyện cổ tích như sau:
17
Theo quan điểm được trình bày trong sách giáo viên Ngữ văn 6 tập 1,
các tác giả viết sách thống nhất quan điểm: “Sách giáo khoa Ngữ văn không
chỉ chú ý cung cấp kiến thức mà còn chú ý hình thành kỹ năng tự học, tự tìm
hiểu ở học sinh. Với việc tổ chức học tập và giảng dạy theo thể loại, sách mong
muốn giúp học sinh không chỉ học một biết một mà thông qua các tác phẩm cụ
thể (nhưng tiêu biểu cho một thể loại) đã học, học sinh biết cách cảm thụ, tìm
hiểu và tiếp nhận các tác phẩm tương tự về đặc điểm thể loại, hệ thống, thi
pháp, cách thức thể hiện…; có nghĩa là không chỉ chú ý giúp học sinh học cái
gì mà còn giúp họ học như thế nào cho có hiệu quả cao” [26, tr.18]
Theo quan điểm đó, ở phần dạy học truyện cổ tích, các tác giả yêu cầu
giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu và nắm được sơ lược khái niệm truyện
cổ tích, phân loại truyện cổ tích. Qua việc tổ chức các hoạt động trên lớp, giáo
viên định hướng cho học sinh tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của các truyện cổ tích
cụ thể được chọn trong chương trình; thấy được một số đặc điểm tiêu biểu của
các kiểu nhân vật trong truyện. Các hoạt động của giờ học chủ yếu tập trung trả
lời các câu hỏi ở phần hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa.
Cuốn “Thiết kế bài học Ngữ văn 6 theo hướng tích hợp” [1] tiến sĩ
Hoàng Hữu Bội trình bày quan điểm: Dạy truyện cổ tích giáo viên phải nắm
chắc thể loại này từ khái niệm, phân loại đến đặc điểm thi pháp của truyện cổ
tích. Từ việc có những hiểu biết cơ bản ấy, theo tác giả, phương pháp tiếp cận
truyện cổ tích thầy và trò phải trải qua các hoạt động sau:
1) Giải tỏa hàng rào ngôn ngữ và khoảng cách về lịch sử - văn hóa (nếu
có, với học sinh miền núi điều này là cần thiết)
2) Thâm nhập vào “thế giới cổ tích”
+ Thế giới nhân vật
+ Nhân vật chính và hệ thống hành động của nhân vật chính tạo thành
cốt truyện
+ Sự phát triển của xung đột truyện và kết thúc truyện
18
3) Phân tích các biện pháp nghệ thuật
+ Sự lặp lại, tăng tiến các tình huống
+ Sư đối lập giữa các nhân vật
+ Sự xuất hiện của các yếu tố tưởng tượng, hoang đường
4) Khám phá ý nghĩa của truyện
+ Ý nghĩa phản ánh đời sống dân tộc, tâm hồn dân tộc
+ Quan điểm của nhân dân về công lý xã hội
+ Niềm tin, mơ ước của nhân dân
Từ phương pháp tiếp cận chung này, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt,
sáng tạo khi dạy từng văn bản cụ thể.
Như vậy, cả hai quan điểm trên đều dựa trên đặc điểm thi pháp của
truyện cổ tích để tiếp cận. Ở đề tài này, chúng tôi cũng chọn hướng tiếp cận từ
đặc điểm thi pháp để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh lớp 6 qua việc
dạy học truyện cổ tích.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Đặc điểm tiếp nhận bài học về thể loại truyện cổ tích của học sinh lớp 6
1.2.1.1. Đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 6
Ngày nay, với quan điểm dạy học hướng vào người học thì việc phải
hiểu đối tượng mà người thầy đang tác động vào (học sinh) là điều vô cùng cần
thiết, không chỉ cho công việc dạy học mà cho cả công tác giáo dục. Cuốn
“Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm” có phân tích rất kỹ đặc điểm tâm lí
lứa tuổi học sinh trung học cơ sở. Các tác giả nhận định: “Học sinh THCS có
độ tuổi từ 11, 12 đến 14,15 tuổi. Lứa tuổi này còn gọi là lứa tuổi thiếu niên và
nó có một vị trí đặc biệt quan trọng trong trong thời kì phát triển của trẻ em. Vị
trí đặc biêt này được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau của nó (thời kì
quá độ, tuổi khó bảo, tuổi khủng hoảng, tuổi bất trị…). Những tên gọi đó nói
lên tính phức tạp và tầm quan trọng của lứa tuổi này trong quá trình phát triển
của trẻ em”[11, tr. 27]. Cụ thể là: