Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm người trong bao (sê khốp) ở lớp 11 thpt miền núi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 119 trang )

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ THU THẢO




BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC
TÁC PHẨM “NGƢỜI TRONG BAO” (SÊ KHỐP)
Ở LỚP 11 THPT MIỀN NÚI







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC










Thái Nguyên - 2013

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>



ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ THU THẢO




BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC
TÁC PHẨM “NGƢỜI TRONG BAO” (SÊ KHỐP)

Ở LỚP 11 THPT MIỀN NÚI



Chuyên ngành: Lý luận và Phƣơng pháp dạy học Văn - Tiếng Việt
MÃ SỐ: 60.14.01.11


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Huy Quát






Thái Nguyên - 2013

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được

công bố trong bất kì công trình nào khác. Các thông tin, số liệu trích dẫn
trong luận văn đều đã được trích rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2013
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Thu Thảo


Xác nhận
của trƣởng khoa chuyên môn
Xác nhận
của cán bộ hƣớng dẫn





S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái
Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình làm luận văn. Tôi
xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS. Nguyễn Huy Quát – người đã
trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn “Biện pháp nâng cao

hiệu quả dạy học tác phẩm “Người trong bao” (Sê Khốp) ở lớp 11 THPT
miền núi”. Tôi cũng xin được cảm ơn tất cả người thân, bạn bè đã giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này. Dù đã rất cố gắng song luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, vì vậy chúng tôi mong muốn sẽ nhận được sự góp ý từ thầy
cô và các bạn. Chúng tôi cũng hi vọng những nghiên cứu được đặt ra trong
luận văn sẽ trở thành nguồn tư liệu có giá trị đối với việc dạy học tác phẩm
văn chương nói riêng và dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung.
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2013
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Thu Thảo



S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

iii
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các ký hiệu viết tắt iv
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 4

3. Mục đích nghiên cứu 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 7
6. Phương pháp nghiên cứu 7
7. Cấu trúc luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG 9
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 9
1.1 Sơ lược về lý thuyết tiếp nhận 9
1.1.1 Khái niệm tiếp nhận văn học 9
1.1.2 Lý thuyết tiếp nhận văn học từ truyền thống đến hiện đại 10
1.1.3 Tiếp cận đồng bộ trong dạy học TPVC 12
1.2 Lý thuyết về PPDH tích cực 15
1.2.1 Khái niệm về PPDH tích cực 15
1.2.3 Định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy TTC của HS . 16
1.2.4 PPDH tích cực trong dạy học TPVC 17
1.3 Vài nét về lý thuyết truyện ngắn 19
1.3.1 Khái niệm và đặc trưng của truyện ngắn 19
1.3.2 Các yếu tố cấu thành truyện ngắn 22
1.3.3 Đôi điều về thi pháp truyện ngắn Sê khốp 27
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

iv
1.4 Dạy học tác phẩm truyện ngắn theo đặc trưng loại thể 30
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG DẠY HỌC VĂN HỌC NƢỚC NGOÀI VÀ
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC
TRUYỆN NGẮN “NGƢỜI TRONG BAO” Ở LỚP 11, THPT MIỀN NÚI 35
2.1 Vài nét về tác phẩm VHNN trong chương trình, SGK Ngữ văn THPT
hiện hành 35

2.2 Những khó khăn khi giảng dạy tác phẩm VHNN ở trường THPT 37
2.2.1 Vấn đề bản dịch 37
2.2.2 Vấn đề ngôn ngữ 38
2.2.3 Vấn đề thời lượng trong phân phối chương trình VHNN 39
2.2.4 Vấn đề quan niệm của người dạy đối với các tác phẩm VHNN 39
2.2.5 Vấn đề dối tượng tiếp nhận là HS miền núi 40
2.3 Thực trạng và tồn tại trong giảng dạy VHNN ở trường THPT 40
2.3.1 Những hạn chế trong dạy và học VHNN ở trường THPT 41
2.3.2 Thực trạng về dạy học tác phẩm “Người trong bao” 42
2.4 Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học truyện ngắn “Người trong
bao” của Sê khốp 59
2.4.1 Đôi điều cần lưu ý đối với giáo viên 59
2.4.2. Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học truyện ngắn
“Người trong bao” – Sê khốp (SGK Ngữ văn 11) 67
CHƢƠNG 3. THIẾT KẾ DẠY THỂ NGHIỆM TRUYỆN NGẮN “NGƢỜI
TRONG BAO” 73
3.1. Đối tượng và nội dung thể nghiệm 73
3.2. Phương pháp và phương tiện dạy học 73
3.3. Quy trình triển khai thể nghiệm 74
3.4. Kết quả của quá trình thể nghiệm 90
3.4.1. Kết quả thu được từ phía HS 90
3.4.2. Một số ý kiến đánh giá từ phía nhà trường và GV dự giờ 97
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

v
PHỤ LỤC 107

S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG
1
TPCV
Tác phẩm văn chương
2
TPVH
Tác phẩm văn học
3
PPDH
Phương pháp dạy học
4
TTC
Tính tích cực
5
HS
Học sinh
6
GV
Giáo viên
7
SGK

Sách giáo khoa
8
THPT
Trung học phổ thông




S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học nước ngoài (VHNN) trong chương trình Ngữ văn ở trường
THPT chiếm một vị trí quan trọng. Về dung lượng và thời lượng phần văn
học này chiếm tỷ lệ không nhỏ trong chương trình SGK toàn cấp học. Đây là
những tác phẩm tinh hoa của văn học thế giới, đã vượt qua thử thách khắc
nghiệt của không gian và thời gian. Trong luận văn này, chúng tôi chọn nghiên
cứu truyện ngắn “Người trong bao” của Sê khốp với những lí do sau đây:
1.1. Nâng cao hiệu quả dạy học môn Ngữ văn, nói chung và tác phẩm
VHNN, nói riêng là một yêu cầu cấp thiết.
Từ khi đất nước ta đổi mới và ngày càng hội nhập với thế giới về kinh
tế, văn hóa, xã hội… thì Giáo dục cũng không thể đứng ngoài cuộc hội nhập
đó. Mục đích của hội nhập là để phát triển và phát triển bền vững. Hội nhập
về Văn hóa, Giáo dục…nhưng vẫn phải giữ được bản sắc dân tộc. Hòa nhập
nhưng không hòa tan.
Góp phần vào công cuộc hội nhập đó, phần VHNN trong môn Ngữ văn

ở trường phổ thông cũng có nhiều thay đổi: tỷ lệ tác giả, tác phẩm VHNN
tăng lên; VHNN được đưa vào chương trình Ngữ văn phổ thông không chỉ
dừng lại ở Văn học Nga, Trung Quốc mà đã mở rộng ra các quốc gia, các
châu lục khác, như: Anh, Pháp, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản…Vì vậy, việc nghiên
cứu đổi mới nội dung, phương pháp dạy học (PPDH) phần VHNN ở phổ
thông càng trở nên cấp thiết.
Dạy học đáp ứng nhu cầu của xã hội là điều rất cần thiết trong giai đoạn
hiện nay. Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) môn Ngữ văn, trong đó có
VHNN là một yêu cầu không thể thiếu. Bởi lẽ dạy học văn không chỉ là dạy
một môn nghệ thuật mà cũng là dạy một môn khoa học. Văn chương là lĩnh
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

2
vực cảm thụ thẩm mĩ và sáng tạo của mỗi cá nhân. Quá trình tiếp nhận văn
học là quá trình người đọc được giao tiếp cùng với nhà văn, thông qua tác
phẩm. Nhà văn gửi gắm thông điệp của mình trong hình tượng nghệ thuật.
Bạn đọc được khám phá, được sống với hình tượng nghệ thuật bằng toàn bộ
tâm hồn và trí tuệ của mình, tức là người học được bộc lộ những suy nghĩ,
đánh giá tác phẩm theo sự cảm nhận riêng. Và do đó, chân lí nghệ thuật sẽ
được tiếp nhận một cách tự giác và tác động nghệ thuật sẽ lâu bền hơn trong
lòng bạn đọc, trong đó có bạn đọc - học sinh (HS). Văn học trong Nhà trường
còn góp phần bồi dưỡng tâm hồn, nhân cách cho HS, mang lại cho các em
nhiều lợi ích và kĩ năng sống.
Tuy nhiên, vì văn học là một môn nghệ thuật nên việc xây dựng PPDH
phù hợp với môn học này cũng có những thuận lợi và khó khăn riêng. Những
phương pháp đó phải đạt được yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ đối với
môn Văn, nói chung và bài học VHNN, nói riêng. HS học VHNN không chỉ
có những kiến thức, kĩ năng sử dụng trong cuộc sống mà còn biết trân trọng

những giá trị tinh thần cao đẹp của nhân loại, giúp cho tâm hồn, nhân cách
của các em được hoàn thiện.
Đổi mới PPDH Văn đòi hỏi có những nghiên cứu thực sự nghiêm túc
bởi đó không phải là việc dễ dàng. Tuy nhiên, đổi mới PPDH phần VHNN lại
càng khó khăn hơn, bởi có những độ “vênh” về văn hóa, vốn sống, ngôn
ngữ so với cả người dạy và người học ở Việt Nam.
1.2 Về độ “vênh” thường gặp khi dạy VHNN ở Việt Nam
Với Văn học Việt Nam, HS được học những tác giả, tác phẩm không xa
lại với các em về mặt ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa và vốn sống thực tế ở mức
độ nhất định (tuy cũng có những cái khó riêng); còn với VHNN, việc dạy và
học qua bản dịch nên còn bị “rào cản” như: “vênh” về tri thức lịch sử - văn
hóa có quan quan đến tác phẩm, “vênh” về vốn sống thực tế, phong tục tập
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

3
quán, “vênh” về ngôn ngữ Những tác phẩm VHNN được lựa chọn đưa vào
trường THPT đều là những tác phẩm tiêu biểu, có giá trị của các nền văn học
lớn trên thế giới. Tuy nhiên, do hạn chế về thời lượng, về vốn tri thức và
PPDH nên hiệu quả tiếp nhận tác phẩm VHNN ở trường phổ thông Việt Nam
vẫn còn ở tình trạng “cưỡi ngựa xem hoa”. HS nhiều khi vẫn không hiểu,
không biết học tác phẩm này để làm gì? Có ý nghĩa và ích lợi gì đối với bản
thân mình?
Vì vậy, đổi mới PPDH phần văn học nói chung, cần phải đặc biệt chú ý
đến những tác phẩm VHNN, nhất là với đối tượng học HS miền núi và dân
tộc thiểu số.
1.3 Sự cần thiết đổi mới PPDH VHNN đối với học sinh miền núi thông
qua việc nâng cao hiệu quả dạy học truyện ngắn “Người trong bao”
Ngữ văn là môn học vô cùng quan trọng trong nhà trường nhưng hiệu

quả dạy học Ngữ văn thực sự chưa đạt kết quả như mong đợi. Đặc biệt đối với
phần lớp 11, đây là một phần văn học có nội dung hay nhưng khó đối với HS
vì các em phần lớn cảm thấy xa lạ và khó tiếp nhận.
Vấn đề tiếp thu những tinh hoa văn hóa của thế giới thông qua các tác
phẩm VHNN đối với HS nước ta nói chung đã khó, với HS dân tộc miền núi
lại càng không dễ dàng. Để các em học sinh miền núi hiểu và yêu thích các
tác phẩm VHNN thực sự là vấn đề nan giải. Thực tế cho thấy, khả năng tiếp
thu kiến thức của HS miền núi có phần hạn chế hơn HS miền đồng bằng bởi
nhiều lí do, như: môi trường sống, gia đình, xã hội, thông tin, đặc điểm tâm –
sinh lý, văn hóa vùng miền, ngôn ngữ Thậm chí, ở nhiều nơi miền núi phía
Bắc, nạn mù chữ, trẻ em không được đến trường vẫn còn. Chính những điều
này gây khó khăn, trở ngại cho quá trình giáo dục HS miền núi.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, nơi còn mang đậm nét
văn hóa đặc trưng của đồng bào miền núi. Trường THPT Cao Lộc - Lạng Sơn
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

4
đa phần là HS dân tộc thiểu số. Vấn đề giáo dục văn hóa cho các em, đưa các
em đến với ánh sáng tri thức của nhân loại cũng không nằm ngoài những khó
khăn kể trên. Cần có những biện pháp như thế nào để kích thích sự hăng say học
tập của HS miền núi đối với các tác phẩm văn học (TPVH) nói chung, VHNN
nói riêng trong đó có truyện ngắn “Người trong bao” của nhà văn Sê khốp?
Những năm gần đây đã có những công trình nghiên cứu, có những luận
văn, luận án về đổi mới, nâng cao chất lượng dạy học VHNN, trong đó có cả
những đề tài, nghiên cứu khoa học về Truyện ngắn “Người trong bao” (Sê
Khốp) ở lớp 11 hoặc có những đề tài nghiên cứu về cách thức tổ chức dạy học
cho HS dân tộc miền núi, nhưng “Biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học tác
phẩm “Người trong bao” (Sê khốp) ở lớp 11 – THPT miền núi” với đối

tượng là HS miền núi, dân tộc thiểu số thì chưa có một nghiên cứu nào.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn “Biện pháp nâng cao hiệu quả
dạy học tác phẩm “Người trong bao” (Sê khốp) ở lớp 11 – THPT miền núi”
làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm
đầu tư cho giáo dục, coi giáo dục là quốc sách. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X đã xác định việc đầu tư cho giáo dục cũng có nghĩa là đầu tư
cho sự phát triển bền vững, là đầu tư cho nguồn nhân lực có chất lượng cao
nhằm đưa nước ta thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Ông cha ta đã
từng nói: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì nước mạnh,
nguyên khí yếu thì nước suy’’. Nâng cao chất lượng giáo dục là một nhiệm vụ
quan trọng. Đặc biệt hơn nữa là phải đẩy nhanh chất lượng giáo dục miền núi
nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực. Phương pháp giảng dạy là
một trong những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào
tạo, đặc biệt với HS miền núi vốn có những hạn chế riêng. Một phương pháp
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

5
giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ tạo điều kiện để giáo viên (GV) và người học
phát huy hết khả năng của mình trong việc truyền đạt, lĩnh hội kiến thức và
phát triển tư duy. Đến nay, tình hình nghiên cứu về đổi mới phương pháp
giảng dạy VHNN cho đối tượng HS miền núi thông qua tác phẩm “Người
trong bao” đã được tiến hành ra sao?
2.1 Xét ở góc độ lịch sử nghiên cứu vấn đề, có khá nhiều tác giả đã
nghiên cứu đến việc làm thế nào để dạy học hiệu quả từng mảng văn học,
từng bộ phận văn học cụ thể. Đối với mảng VHNN cũng đã có một số công
trình nghiên cứu được công bố, như cuốn luận văn thạc sĩ chuyên ngành Giáo

dục học “Tổ chức dạy học theo dự án phần văn học nước ngoài chương trình
Ngữ văn 11 trung học phổ thông” của Phạm Thị Thúy Chinh, trong đó đề cập
đến vấn đề vận dụng quan điểm sư phạm tương tác vào dạy học Ngữ văn, cụ
thể là phần VHNN.
Trước thực trạng dạy học tác phẩm VHNN trong trường phổ thông hiện
nay, cùng với sự phát triển rực rỡ của khoa học dạy học văn, Khóa luận
nghiên cứu về “PPDH tác phẩm VHNN ở trường phổ thông dưới ánh sáng
của lí thuyết tiếp nhận” của Nguyễn Thái Phong đã kế thừa những thành tựu
của những người đi trước, cụ thể hơn, ứng dụng lý thuyết tiếp nhận vào việc
giảng dạy tác phẩm VHNN vốn có những đặc trưng riêng, đề ra những giải
pháp cụ thể để ứng dụng vào công việc giảng dạy những bài VHNN trong
chương trình phổ thông theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của HS.
Đề tài nghiên cứu khoa học“Tìm hiểu tác phẩm văn học nước ngoài
trong chương trình Ngữ văn 11” của Nguyễn Thị Trị cũng đã chọn Truyện
ngắn “Người trong bao”- Sê Khốp làm tác phẩm tiêu biểu cho phần VHNN để
nghiên cứu. Tác giả khẳng định từ trước đến nay trong nhà trường, việc dạy
VHNN áp dụng qui trình và phương pháp như dạy Văn học Việt Nam. Trong
khi đó, về phương diện lí luận, chúng ta coi tính dân tộc như một thuộc tính.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

6
Việc đọc hiểu khám phá, để hiểu đúng văn bản chính là một yêu cầu quan
trọng trong quá trình giảng dạy phần VHNN, nói chung và các tác phẩm văn
xuôi nước ngoài sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn 11, nói riêng.
Khóa luận tốt nghiệp “Phương pháp dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi
nước ngoài SGK Ngữ văn 11” của Trương Thị Thùy Linh có mục đích cơ bản
là hình thành phương pháp và qui trình dạy đọc hiểu tác phẩm văn xuôi nước
ngoài ở SGK Ngữ văn 11. Qua đó, GV có thể có cái nhìn bao quát về quá

trình giảng dạy đọc hiểu đối với tác phẩm VHNN; đồng thời HS có được
phương pháp đọc hiểu cơ bản khi tiếp xúc với những văn bản này, nhờ vậy
tránh được những cách hiểu sai lệch vấn đề trọng tâm trong các tác phẩm.
Luận văn Thạc sĩ “Dạy học phần Văn học nước ngoài lớp 11 theo quan
điểm sư phạm tương tác” của Nguyễn Thị Luân đã đề xuất một số phương
pháp, cách thức dạy học phần VHNN cho HS lớp 11 theo quan điểm sư phạm
tương tác, nhằm nâng cao hứng thú, tăng hiệu quả dạy học.
2.2 Xét về lịch sử nghiên cứu về đổi mới PPDH với đối tượng là HS
miền núi, dân tộc thiểu số phải kể đến tài liệu “Tổ chức dạy học cho HS dân
tộc, miền núi” do TS. Phạm Hồng Quang – Đại học Sư phạm – Đại học Thái
Nguyên biên soạn. Trước thực trạng giáo dục miền núi còn nhiều bất cập, khó
khăn do tính đặc thù cần được tháo gỡ, TS. Phạm Hồng Quang đã viết tài liệu
nhằm phục vụ mục đích trên. Tác giả đã phân tích khá sâu sắc đặc điểm tâm
lý của HS miền núi, những nét đặc thù về lịch sử, địa lý, kinh tế, truyền thống
văn hóa, giáo dục miền núi, từ đó trình bày phương pháp và các hình thức tổ
chức học tập phù hợp với HS các dân tộc miền núi và điều kiện dạy học ở
miền núi. Đây là lài liệu quý, thiết thực cho những ai quan tâm đến chất lượng
dạy học và giáo dục đối với HS các dân tộc miền núi. Nội dung cuốn sách thể
hiện sự am hiểu sâu sắc của tác giả về lý luận dạy học và thực tiễn giáo dục
miền núi, cũng như những yêu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh tế văn hóa
miền núi đối với sự nghiệp giáo dục miền núi hiện nay.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

7
Mặc dù cũng đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến luận
văn này, nhưng hầu như chưa có tác giả nào quan tâm đến việc vận các PPDH
tích cực để góp phần nâng cao hiệu quả bài học “Người trong bao” với đối
tượng là HS dân tộc thiểu số ở trường THPT miền núi Lạng Sơn.

3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua khảo sát tình hình dạy và học phần VHNN và truyện ngắn
“Người trong bao” (Sêkhốp); kết hợp nghiên cứu lý thuyết với thể nghiệm sư
phạm tác phẩm này, chúng tôi muốn đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả dạy học truyện ngắn “Người trong bao” ở lớp 11 THPT.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Truyện ngắn “Người trong bao” của Sê khốp
- HS 11 Ban cơ bản của Trường THPT Cao Lộc (Lạng Sơn).
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được giới hạn ở đối tượng HS lớp 11, Ban cơ bản và GV
Ngữ văn thuộc Trường THPT Cao Lộc, huyện Cao Lộc – một huyện miền núi
của tỉnh Lạng Sơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy học VHNN nói chung, truyện ngắn
Người trong bao nói riêng ở lớp 1, THPT miền núi.
- Tìm hiểu đặc điểm tâm lí của HS dân tộc miền núi
- Thiết kế tác phẩm Người trong bao trong sách giáo khoa Ngữ văn 11
để kiểm nghiệm hiệu quả các biện pháp đã đề xuất.
- Tiến hành dạy thể nghiệm tác phẩm Người trong bao
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu trên, chúng tôi sử dụng các
nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

8
- Nhóm phương pháp nghiên cứu Lý thuyết những vấn đề lí luận có
liên quan đến việc dạy và học ở trường phổ thông.

- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: quan sát, khảo sát, phỏng
vấn, phân tích, đánh giá tổng hợp.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
+ Chương I: Cơ sở lí luận của đề tài
+ Chương II: Thực trạng dạy học VHNN ở trường THPT và đề xuất
một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học truyện ngắn “Người trong bao”
+ Chương III: Thiết kế và thể nghiệm tổ chức dạy học truyện ngắn
“Người trong bao” của Sê Khốp trong chương trình Ngữ văn 11
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Các phụ lục
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

9

PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
Để phục vụ việc nghiên cứu cho đề tài này, chúng tôi nghiên cứu những
vấn đề lý luận có liên quan như: lý thuyết tiếp nhận, PPDH tích cực, lý thuyết
truyện ngắn… Cụ thể như sau:
1.1 Sơ lƣợc về lý thuyết tiếp nhận
1.1.1 Khái niệm tiếp nhận văn học
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Tiếp nhận văn học là quá trình chiếm
lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ cảm thụ
văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tình cảm, quan niệm nghệ thuật, tài
nghệ của nhà văn … đến sản phẩm sau khi đọc: Cách hiểu, ấn tượng, trí nhớ,
ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo bản dịch”.

Tiếp nhận văn học có liên quan đến các khái niệm: Đọc văn bản, đọc
văn chương, tiếp nhận văn chương, cảm thụ văn chương, tiếp thu, thưởng
thức…
Khác với “Tiếp nhận” là khái niệm chỉ hoạt động tiếp thu (đọc, nghe,
xem) tác phẩm (gồm cả sáng tác văn học và khoa học) với nhiều mục đích
khác nhau, để hiểu biết, giải trí, thưởng thức, khảo cứu … Tiếp nhận văn học
là khái niệm chỉ việc tiếp thu những sáng tác văn học, là chỉ cách tiếp thu
thiên về thưởng thức, cảm thụ. Tuy vậy, tiếp nhận văn học cũng khác với cảm
thụ văn học. Cảm thụ văn học là sự nhận biết bằng cảm tính trực cảm, nó là
tiền đề để đi vào tác phẩm. Tiếp nhận văn học đòi hỏi sự bộc lộ của cá tính,
thị hiếu, lập trường xã hội, sự tán thành hay phản đối … Do đó, khái niệm tiếp
nhận văn học bao quát hơn và bao hàm các khái niệm “Cảm thụ”, “Thưởng
thức”, “Lý giải văn học”…
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

10
Tiếp nhận văn học là một hoạt động sáng tạo, nó làm cho tác phẩm
không đứng yên mà luôn luôn lớn lên, phong phú thêm. Tính sáng tạo của tiếp
nhận văn học đã được khẳng định từ lâu, nhà ngữ văn Nga Pôlepnhia đã nói:
“Chúng ta có thể hiểu được tác phẩm thi ca chừng nào chúng ta tham gia vào
việc sáng tạo nó”.
Nói tóm lại, với tư cách là phương pháp luận, tiếp nhận văn học đã đem
lại ánh sáng mới, đã mở rộng phạm vi nghiên cứu văn chương, mở thêm một
lối đi cho khảo sát văn chương khiến nó không bị đóng khung trong việc xem
xét mối quan hệ nhà văn và tác phẩm.
1.1.2 Lý thuyết tiếp nhận văn học từ truyền thống đến hiện đại
1.1.2.1 Lý thuyết tiếp nhận truyền thống
Hoạt động văn học từ xưa đến nay vận hành theo ba khâu: Nhà văn –

Tác phẩm – Bạn đọc. Mối quan hệ giữa tác phẩm và bạn đọc đã từ rất lâu
được người ta ít nhiều đề cập. Hoạt động tiếp nhận chỉ thực sự được đặt ra
một cách có hệ thống từ khi văn học thành văn ra đời. Lý luận tiếp nhận văn
chương theo kiểu truyền thống quan niệm tiếp nhận văn chương ở hai dạng:
tri âm và ký thác.
Tiếp nhận theo kiểu tri âm: là tiếp nhận tác phẩm theo đúng ý đồ của
tác giả. Sự cắt nghĩa và hiểu tác phẩm ở người đọc trùng khít với ý định của
tác giả ký gửi vào tác phẩm từ giữa ý đồ tác giả, ý đồ của người lý giải nằm
trong cùng một vòng tròn đồng tâm. Tri âm là biểu hiện tột cùng của sự hiểu
biết, cảm thông lẫn nhau. Tiếp nhận theo kiểu này là tiếp nhận mang tính chủ
quan, người ta quan niệm rằng tác phẩm được viết là để dành riêng cho những
người sánh văn chương, có khả năng đi sâu tìm hiểu dụng tâm, dụng ý, nỗi
lòng của tác giả, chứ không phải viết ra cho đông đảo độc giả công chúng
ngoài xã hội thưởng thức, tiếp nhận. Quan điểm tiếp nhận theo kiểu tri âm đòi
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

11
hỏi sự gặp gỡ, đồng điệu tuyệt đối giữa người sáng tác và bạn đọc, nhưng trên
thực tế việc này rất khó khăn.
Tiếp nhận theo kiểu ký thác: Là sự tiếp nhận mà người đọc mượn tác
phẩm để biểu lộ nỗi lòng của mình đối với cuộc đời. Do đó, tác phẩm văn
chương (TPVC) được coi như là một phương tiện để người đọc giãi bày tấm
lòng, gửi gắm những quan niệm nhân sinh, những cảm xúc về thế cuộc hoặc
những vấn đề bức thiết của cuộc sống mà trong một chừng mực nào đó người
đọc không có điều kiện để nói ra một cách trực diện.
Tiếp nhận theo kiểu tri âm và ký thác gặp nhau ở tính đồng cảm giữa
tác phẩm và bạn đọc.
1.1.2.2 Lý thuyết tiếp nhận hiện đại

Lý luận tiếp nhận văn chương hiện đại thừa nhận TPVC là một loại
hàng hóa đặc thù. Đó là một loại hàng hóa tinh thần do nhà văn sáng tạo nên
nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống của con người trong xã hội. Nó có những
thước đo chất lượng và giá trị tiêu dùng rất khác nhau giữa mọi người. Do
TPVC được xem như một loại hàng hóa nên tiếp nhận văn chương vượt ra
ngoài tính cá thể riêng biệt, nó mang tính xã hội cao.
Tiếp nhận văn chương hiện đại xác định đối tượng bạn đọc là tầng lớp
công chúng rộng rãi, có nhu cầu và sở thích khác nhau. Lý luận tiếp nhận văn
chương hiện đại thực ra không phải là sự phủ nhận lý luận tiếp nhận truyền
thống, mà là sự bổ sung thêm bình diện xã hội và văn hóa lịch sử. Lý luận tiếp
nhận hiện đại vừa kế thừa những mặt tích cực của tiếp nhận truyền thống, vừa
không ngừng mở rộng giới hạn nghiên cứu của mình: đi sâu khám phá những
cấp độ khác nhau, lý giải về tính quy luật của hoạt động tiếp nhận … Nhờ vậy
mà cơ chế phức tạp của hoạt động này ngày càng được nhận thức một cách
khoa học và đầy đủ hơn.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

12
1.1.3 Tiếp cận đồng bộ trong dạy học TPVC
Tiếp cận đồng bộ TPVC trong nhà trường là một xu hướng tiến bộ, nó
vừa đảm bảo được phương pháp lịch sử phát sinh, vừa chú trọng được tác giả,
tác phẩm, đồng thời chú trọng đến vai trò tích cực của người đọc. Đặc biệt là
đặt tác phẩm trong bối cảnh sinh ra nó để hiểu sự vận động của tác phẩm, hiểu
ý tại ngôn ngoại trong thông điệp mà nhà văn gửi tới bạn đọc.
PPDH TPVC trong nhà trường, dưới ánh sáng của tiếp nhận văn học
phải là tiếp cận đồng bộ tức là cùng tiến hành ở 3 khía cạnh sau:
1.1.3.1 Quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh và sự vận dụng một cách
thích hợp những hiểu biết ngoài văn bản (xã hội, văn hoá, nhà văn ) để cắt

nghĩa tác phẩm.
Mỗi nhà văn đều được sinh ra trong một hoàn cảnh lịch sử và đều chịu
sự tác động trở lại hoàn cảnh lịch sử. Mỗi nhà văn đều có khuynh hướng
khẳng định tài năng và nhân cách riêng, khẳng định vị thế của mình trong
dòng chảy văn học. Do vậy, việc nghiên cứu văn học phải dựa vào lịch sử là
một tất yếu. Mặt khác, mỗi nhà văn là một bản thể văn hoá, là một cá nhân
trong cộng đồng xã hội, nên việc tìm hiểu cá nhân văn hoá của nhà văn ở một
mức độ nào đó sẽ giúp cho người đọc hiểu hơn tác phẩm của họ.
Văn học cũng như mỗi TPVC luôn ra đời trong những bối cảnh lịch sử
xã hội văn hoá cụ thể; những yếu tố đó thẩm thấu, chắt lọc thông qua lăng
kính của nhà văn để đi vào tác phẩm. Thế nên muốn nghiên cứu cụ thể một
tác phẩm, chúng ta phải tìm đến bối cảnh lịch sử và nhà văn, đồng thời tiếp
cận với những tư liệu ngoài văn bản tác phẩm như: những nét về tác giả có
liên quan đến tác phẩm, hoàn cảnh ra đời cụ thể của tác phẩm…
VD: Bài thơ “Quê hương” - Giang Nam ra đời giữa những ngày quân
thù đang ra sức truy lùng, bắt bớ, tàn sát những người thân của cán bộ cách
mạng. Nhà thơ xây dựng tứ thơ từ cái chết thê thảm của người yêu. Để thấy rõ
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

13
hơn về tư tưởng, tình cảm cũng như sự vận động của tứ thơ và tâm tư tác giả,
cũng như dụng ý nghệ thuật và ý nghĩa khái quát điển hình của nỗi đau trong
bài thơ khi nói đến cái chết, chúng ta phải tiếp cận tác phẩm dựa trên bối cảnh
ra đời của bài thơ: hoàn cảnh lịch sử cụ thể của miền Nam hồi đó.
1.1.3.2 Quan điểm tiếp cận văn bản
Đây là khía cạnh tiếp cận quan trọng và chủ yếu nhất, là căn cứ chính
để phân tích, đánh giá tác phẩm.
Hiểu biết ngoài văn bản cực kì quan trọng nhưng vẫn không thay thế

cho việc khám phá bản thân văn bản. Quan điểm tiếp cận văn bản giúp cho
người đọc, người nghiên cứu, giảng dạy không thoát ly văn bản vốn là đề án
tiếp nhận mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc.
Văn bản là thông điệp, là đề án nhà văn gửi tới bạn đọc. Đặc trưng cơ
bản của văn bản nghệ thuật là thông tin thẩm mĩ. Nhà văn gửi đến cuộc đời
niềm xúc động mãnh liệt nhất, những rung động tha thiết nhất về cuộc sống
con người. Đây là điểm mấu chốt nhất phân biệt phương pháp tiếp cận văn
học đích thực với lối phân tích xã hội học tầm thường.
TPVC chứa đựng trong nó muôn mặt, muôn vẻ của đời sống xã hội,
con người mà chúng ta không thể bỏ qua, không thể không biết đến. Chính
các yếu tố văn hoá của văn bản lại càng làm nổi rõ hơn yếu tố thẩm mĩ của
văn bản. Vì vậy, nó đòi hỏi sự nếm trải hay trải nghiệm cần thiết của người
đọc mới có hi vọng giải mã được những thông tin thẩm mĩ trong tác phẩm.
Đặc biệt người đọc phải có một khả năng ngôn ngữ tối thiểu để tri giác văn
bản, để thấu hiểu ngôn từ và đời sống của nó trong văn bản.
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” của Nguyên Tuân ngoài giá trị
thẩm mĩ, ý nghĩa nhân văn còn có giá trị văn hoá truyền thống. Sự khao khát
cái đẹp, trân trọng người tài, lấy cái tài mà giữ gìn thiên lương trong sáng. Đó
là nét đẹp văn hoá cần được khai thác và giáo dục.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

14
Thiếu vốn văn hoá cần thiết thì việc cảm thụ văn chương cũng dễ bị sai
lệch hoặc thiếu sâu sắc.
“Văn chương vốn là một cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống” - Mác
đã từng ghi nhận tính chân thực sâu sắc của văn chươg. M. Gorki nói nhờ văn
chương mà hiểu cuộc đời và con người hơn.
Nói đến TPVC là nói đến một văn bản trong chỉnh thể. Tác phẩm văn

chương được cấu tạo bằng ngôn ngữ nghệ thuật nhằm xây dựng lên một thế
giới nghệ thuật riêng được kết cấu một cách chặt chẽ trong những quan hệ
giữa nội dung và hình thức, giữa bộ phận và toàn thể, giữa yếu tố hữu hình và
yếu tố vô hình, giữa phản ánh và biểu hiện, giữa văn bản và tiềm văn bản.
Chính vì vậy mà khi giảng văn, cần chú trọng tính nhất quán, cảm hứng chủ
đạo của nhà văn, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và đặc biệt là tính chỉnh thể
của tác phẩm.
Có nhiều yếu tố thuộc lĩnh vực tiềm văn bản khi tiếp nhận văn chương
nếu không chú ý sẽ không khai thác hết giá trị của tác phẩm. Ví dụ như
khoảng lặng giữa dòng câu thơ, những câu thơ vắt dòng ,… Những biểu hiện
như vậy ko chỉ có giá trị biểu đạt hết ý hoặc tiếp nối ý mà nó quy định ngữ
điệu đọc, quy định khoảng ngắt nghỉ đồng thời quy định giọng cao, thấp,
nhanh, chậm,
Tiếp cận TPVC theo hướng đồng bộ giúp người đọc lí giải được những
phương diện chủ quan và khách quan của tác phẩm mà điểm then chốt của nó
là phải dựa trên đặc trưng thể loại bởi vì loại thể quy định loại hình, tính cách,
tâm lí. Nguyên tác cấu thành hình tượng, quy định cách đọc, phương pháp
luận nghiên cứu. Làm như vậy sẽ tránh được những bế tắc khi phải tìm hiểu
những chi tiết trong tác phẩm. VD: để hiểu được câu ca dao “Hôm qua tát
nước đầu cành hoa sen”, chúng ta phải hiểu được rằng đặc trưng của ca
dao là tính ước lệ tượng trưng, như vậy sẽ lí giải được tại sao “sen có cành”
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

15
1.1.3.3 Quan điểm tiếp cận hướng vào đáp ứng của học sinh
Quan điểm tiếp cận đồng bộ cho người đọc có một cái nhìn thấu đáo về
lịch sử phát sinh, tính chất nội tại cũng như xu hướng thẩm mĩ mà tác phẩm
vươn tới. Mỗi tác phẩm là một thế giới nghệ thuật, việc tiếp cận nó thực sự có

sự tác động vào nó, biến tác phẩm thành một đối tượng và biến chủ thể người
đọc thành chủ thể văn học. Người đọc trở thành đồng sáng tạo với tác giả.
Người đọc có khả năng điền khuyến những khoảng trống của tác giả làm cho
thông điệp của nhà văn trở nên có hồn, có số phận. Chừng nào chưa có quá
trình tiếp nhận, chừng đó tác phẩm còn ở ngoài chủ thể. TPVC là một hệ
thống mở. Vòng đời TPVC cũng được nhận diện lại trong nhiều quan hệ hữu
cơ biện chứng hơn. TPVC thực sự đi hết vòng đời trong mối quan hệ với bạn
đọc để trở lại với cuộc sống vốn là xuất phát điểm.
Chính vì thế việc dạy học văn theo lối truyền thụ một chiều là dạy học
áp đặt không đem lại hiệu quả. Công cuộc đổi mới phương pháp giảng văn ở
trung học theo hướng coi học sinh là bạn đọc sáng tạo cũng là sự vận dụng
sáng tạo kịp thời những thành tựu về lí thuyết tiếp nhận, tư tưởng dạy học
hiện đại. Việc dạy học TPCV phải bắt đầu từ thói quen tự đọc của học sinh, từ
thói quen tự khám phá trên cơ sở gợi ý của giáo viên. Khi đó tác phẩm là tình
huống có vấn đề trước người đọc là học sinh. Giáo viên phải là người kiểm
soát được quá trình đọc, hoạt động đồng tiếp nhận của học sinh. Bằng cách ra
đề, kiểm tra thường xuyên, giáo viên từng bước hướng dẫn học sinh tiếp nhận
đồng bộ TPVC trong nhà trường.
1.2 Lý thuyết về PPDH tích cực
1.2.1 Khái niệm về PPDH tích cực
Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp giáo dục, dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

16
“Tích cực” trong PPDH - tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động,
chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng theo
nghĩa trái với tiêu cực.

PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của
người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người
dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì GV phải nỗ lực
nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Trong đổi mới PPDH phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp
nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công.
1.2.2 Thế nào là tính tích cực học tập
Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để
tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi
trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển TTC xã hội là
một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
TTC học tập - về thực chất là TTC nhận thức. TTC học tập biểu hiện ở
những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các
câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay
nêu thắc mắc , đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động
vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý
vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những
tình huống khó khăn…
1.2.3 Định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát
huy TTC của HS
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa
S
ố hóa bởi Trung tâm Học liệu
/>

17
VIII (12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ
thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số

15 (4 - 1999).
Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Có thể nói cốt lõi của đổi mới
dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học
tập thụ động.
1.2.4 PPDH tích cực trong dạy học TPVC
Đổi mới PPDH môn Văn không có sự hạ thấp vai trò của GV mà ngược
lại GV chính là người tổ chức, thiết kế, điều hành giờ học.
Đây là phương pháp hạn chế tối đa lối dạy lý thuyết một chiều, chuyển
quá trình thuyết giảng của GV thành những cuộc trao đổi, đàm thoại giữa thầy
và trò, giữa HS và HS giúp các em tự tìm hiểu và đánh giá được mức độ tìm
hiểu bài học của mình.
Trước hết GV phải biết thiết kế tổ chức HS thực hiện các hoạt động học
tập môn Văn nhằm phát triển tư duy ngôn ngữ, rèn luyện kỹ năng nghe - nói -
đọc - viết, năng lực cảm thụ TPVC. Thường xuyên điều chỉnh các hoạt động
học tập của HS, động viên và luôn tạo điều kiện cho các em tham gia tích cực,
chủ động, sáng tạo trong quá trình tiếp nhận, giải mã và sản sinh văn bản.
Song song đó, GV phải biết sử dụng và hướng dẫn HS sử dụng các thiết bị đồ
dùng và ứng dụng công nghệ thông tin để khai thác và vận dụng kiến thức
ngữ văn có hiệu quả. Bằng mọi cách GV phải tạo điều kiện cho HS rèn luyện
kỹ năng học tập tích cực, chủ động, hình thành thói quen vận dụng kiến thức

×